1 Thưa ngài Thê-ô-phi-lơ khả kính, nhiều người đã cố gắng thuật lại theo trình tự những việc đã được thực hiện giữa vòng chúng ta, 2 như họ đã gửi cho chúng ta, là những người từ đầu đã tận mắt chứng kiến mọi việc và là người phục vụ sứ điệp ấy. 3 Vì vậy, sau khi cẩn thận tra xét mọi việc từ đầu, tôi thiết tưởng cũng nên theo thứ tự mà ghi lại cho ngài. 4 Ấy là để ngài biết được sự thật về những điều mình đã được học. 5 Vào thời Hê-rốt, vua xứ Giu-đê, có một thầy tế lễ tên là Xa-cha-ri, thuộc ban A-bi-a. Vợ ông tên Ê-li-sa-bét, thuộc dòng dõi A-rôn. 6 Cả hai vợ chồng đều là người công bình trước mặt Đức Chúa Trời; họ bước đi thật trọn vẹn trong mọi điều răn và mạng lệnh của Chúa. 7 Nhưng họ không có con vì Ê-li-sa-bét hiếm muộn, và cả hai lúc này đều đã cao tuổi. 8 Khi ấy Xa-cha-ri đang thực hiện phận sự tế lễ trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời theo phiên thứ của ban mình. 9 Theo thông lệ bắt thăm để chọn ra thầy tế lễ nào sẽ phục vụ thì ông được chọn vào đền thờ của Chúa để dâng hương. 10 Trong giờ dâng hương, cả hội chúng ở bên ngoài cầu nguyện. 11 Bấy giờ đột thiên sứ của Chúa hiện ra với ông, và đứng bên phải bàn thờ xông hương. 12 Xa-cha-ri bối rối và sợ hãi khi thấy thiên sứ. 13 Nhưng thiên sứ nói với ông: “Này, Xa-cha-ri, đừng sợ, vì lời cầu nguyện của ông đã được nhậm. Vợ ông là Ê-li-sa-bét sẽ sinh cho ông một con trai. Ông sẽ đặt tên cho con mình là Giăng. 14 Con trai ấy sẽ làm cho ông vui mừng, sung sướng, và nhiều người sẽ hoan hỷ khi cậu bé ra đời. 15 Cậu sẽ được tôn trọng trước mặt Chúa, sẽ không uống rượu nho hay rượu mạnh và cậu sẽ được đầy dẫy Đức Thánh Linh, từ khi còn trong lòng mẹ. 16 Và nhiều con cái Y-sơ-ra-ên sẽ trở về cùng Chúa là Đức Chúa Trời mình. 17 Cậu sẽ đi trước mặt Chúa với tinh thần và quyền năng của Ê-li. Cậu sẽ khiến lòng cha hướng về con cái, để những kẻ ương ngạnh sẽ bước đi theo sự khôn ngoan của người công bình. Cậu sẽ làm như vậy để chuẩn bị cho Chúa một dân tộc sẵn sàng cho Ngài.” 18 Xa-cha-ri thưa với thiên sứ: “Làm sao tôi biết được việc này? Vì tôi đã già, vợ tôi cũng đã cao tuổi.” 19 Thiên sứ đáp: “Tôi là Gáp-ri-ên, chầu trước mặt Đức Chúa Trời. Tôi được sai đến để gặp ông và báo cho ông biết tin vui này. 20 Này, ông sẽ bị câm và không nói được cho đến ngày những việc kia xảy ra. Ấy là vì ông không tin lời tôi, là lời sẽ được ứng nghiệm vào thời điểm thích hợp.” 21 Trong lúc ấy, dân chúng cứ đợi Xa-cha-ri. Họ ngạc nhiên vì ông ở quá lâu trong đền thờ. 22 Nhưng lúc đi ra thì Xa-cha-ri không thể nói chuyện với họ. Họ hiểu rằng ông đã thấy khải tượng khi ở trong đền thờ. Ông chỉ ra dấu cho họ mà không nói năng gì được. 23 Khi thời gian phục vụ đã hết, ông trở về nhà. 24 Sau những ngày ấy, vợ ông là Ê-li-sa-bét mang thai. Bà ẩn mình trong năm tháng. Bà nói: 25 “Đây là điều Chúa đã làm cho tôi khi Ngài đoái thương tôi để cất đi sự hổ nhục của tôi trước mặt mọi người.” 26 Khi Ê-li-sa-bét mang thai được sáu tháng, thiên sứ Gáp-ri-ên được Đức Chúa Trời sai đến thành Na-xa-rét, thuộc miền Ga-li-lê, 27 gặp một trinh nữ đã đính hôn với một người nam tên là Giô-sép. Người thuộc nhà Đa-vít, và trinh nữ ấy tên là Ma-ri. 28 Thiên sứ hiện đến với cô và nói: “Xin chúc mừng cô, người được hồng phúc! Chúa ở cùng cô.” 29 Ma-ri rất bối rối trước lời thiên sứ nói và tự hỏi không biết lời chào ấy có nghĩa gì. 30 Thiên sứ tiếp: “Cô Ma-ri, xin đừng sợ, vì cô đã được ơn trước mặt Đức Chúa Trời. 31 Và này, cô sẽ mang thai và sinh một con trai. Cô sẽ đặt tên cho con trai ấy là ‘Giê-xu.’ 32 Ngài sẽ được tôn trọng và được gọi là Con của Đấng Chí Cao. Chúa là Đức Chúa Trời sẽ ban cho Ngài ngôi Đa-vít, là tổ phụ Ngài. 33 Ngài sẽ trị vì trên nhà Gia-cốp đến đời đời, vương quốc của Ngài mãi mãi trường tồn.” 34 Ma-ri thưa với thiên sứ: “Tôi chưa ăn nằm cùng người nam nào thì làm sao việc ấy xảy ra được?” 35 Thiên sứ đáp: “Đức Thánh Linh sẽ vận hành trên cô và quyền năng của Đấng Chí Cao sẽ bao phủ cô. Vì vậy, Con thánh sinh ra sẽ được gọi là Con Đức Chúa Trời. 36 Đó, Ê-li-sa-bét, người bà con của cô, cũng đã mang thai một con trai khi đã cao tuổi. Thai nhi nay đã được sáu tháng, dù bà có tiếng là hiếm muộn. 37 Vì không có việc gì Đức Chúa Trời chẳng làm được.” 38 Ma-ri thưa: “Thật, tôi đây là tớ gái của Chúa. Xin việc ấy xảy ra cho tôi theo lời người truyền.” Rồi thiên sứ lìa khỏi cô. 39 Trong những ngày ấy, Ma-ri lên đường, vội vã đi đến miền núi, đến một thành kia trong xứ Giu-đê. 40 Ma-ri vào nhà Xa-cha-ri thăm hỏi Ê-li-sa-bét. 41 Khi Ê-li-sa-bét nghe tiếng Ma-ri chào, thì đứa bé trong bụng bà liền nhảy dựng lên, Ê-li-sa-bét thì đầy dẫy Đức Thánh Linh. 42 Bà nói lớn tiếng, rằng: “Cô thật là người có phước trong số chị em phụ nữ, và thai nhi trong lòng cô cũng có phước. 43 Sao tôi lại được mẹ của Chúa tôi đến thăm thế này? 44 Vì kìa, khi tai tôi vừa nghe tiếng cô chào, thì đứa bé trong bụng tôi liền nhảy lên vì vui mừng. 45 Phước cho cô vì đã tin rằng những gì Chúa phán với cô sẽ được ứng nghiệm.” 46 Ma-ri nói: “Linh hồn tôi tôn cao Chúa, 47 tâm linh tôi vui mừng nơi Đức Chúa Trời là Cứu Chúa tôi. 48 Vì Ngài đã nhìn đến thân phận hèn mọn của tớ gái Ngài. Vì kìa, từ nay trở đi mọi thế hệ sẽ khen tôi là người có phước. 49 Vì Ngài là Đấng toàn năng đã làm những việc lớn cho tôi, và danh Ngài là thánh. 50 Từ thế hệ này qua thế hệ kia, Ngài thương xót những người tôn vinh Ngài. 51 Tay Ngài bày tỏ sức mạnh; Ngài làm tan tác những kẻ có tư tưởng kiêu ngạo trong lòng. 52 Ngài hạ các bậc vua chúa xuống, và nâng những kẻ thấp hèn lên. 53 Ngài ban vật tốt cho người đói, nhưng đuổi kẻ giàu về tay không. 54 Ngài đã cứu giúp Y-sơ-ra-ên, tôi tớ Ngài, để ghi nhớ tỏ lòng thương xót đời đời 55 cho Áp-ra-ham và dòng dõi người.” 56 Ma-ri ở lại với Ê-li-sa-bét khoảng ba tháng rồi trở về nhà mình. 57 Đến ngày sinh nở, Ê-li-sa-bét hạ sinh một bé trai. 58 Láng giềng và người thân biết được Chúa đã thương xót bà bội phần nên cùng chung vui với bà. 59 Vào ngày thứ tám, họ đến để làm lễ cắt bì cho đứa trẻ. Họ muốn đặt tên cho cậu là Xa-cha-ri, theo tên cha, 60 nhưng mẹ cậu lại bảo: “Không, phải gọi nó là Giăng.” 61 Họ nói: “Trong vòng bà con của bà không ai có tên ấy cả.” 62 Họ ra dấu hỏi người cha muốn đặt tên cho con là gì. 63 Ông yêu cầu đem đến một tấm bảng và viết: “Tên nó là Giăng.” Tất cả mọi người đều ngạc nhiên. 64 Lập tức, miệng ông mở ra, lưỡi thong thả. Ông nói và ngợi khen Đức Chúa Trời. 65 Tất cả mọi người sống gần đó đều sợ hãi, và những việc này lan rộng khắp miền đồi núi xứ Giu-đê. 66 Ai nghe đến cũng đều suy ngẫm về những việc này và thắc mắc: “Đứa trẻ này về sau sẽ ra thể nào?” Vì họ biết tay Chúa ở với cậu. 67 Cha cậu là Xa-cha-ri được đầy dẫy Đức Thánh Linh mở miệng nói tiên tri rằng: 68 “Ngợi khen Chúa là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, vì Ngài đã giúp đỡ chúng ta và thực thi sự mua chuộc cho con dân Ngài. 69 Ngài đã dấy lên cho chúng ta cái sừng của sự cứu rỗi trong nhà của tôi tớ Ngài là Đa-vít, từ giữa dòng dõi của tôi tớ Ngài là Đa-vít, 70 như lời Đức Chúa Trời đã phán từ thời xưa qua miệng của các tiên tri thánh của Ngài. 71 Ngài sẽ giải cứu chúng ta khỏi kẻ thù, và khỏi tay của những kẻ căm ghét chúng ta. 72 Ngài sẽ làm vậy để bày tỏ lòng thương xót đối với các tổ phụ của chúng ta và nhớ lại giao ước thánh của Ngài, 73 là lời Ngài đã thề cùng Áp-ra-ham, tổ phụ chúng ta. 74 Ngài đã thề sẽ giải cứu chúng ta khỏi tay kẻ thù mình để chúng ta được trọn đời phục vụ Ngài mà không sợ hãi gì 75 trong sự thánh khiết và công bình trước mặt Ngài. 76 Phải, còn con, hỡi con ta, con sẽ được gọi là tiên tri của Đấng Chí Cao, vì con sẽ đi trước Chúa để dọn đường cho Ngài, chuẩn bị dân để đón tiếp Ngài, 77 giúp dân của Ngài nhận biết sự cứu rỗi bởi sự tha tội. 78 Việc ấy sẽ được thực hiện vì cớ lòng thương xót bao dung của Đức Chúa Trời chúng ta, bởi lòng thương xót này mà bình minh từ trên cao sẽ đến trên chúng ta, 79 để soi sáng trên những ai đang ngồi trong nơi tối tăm và trong bóng của sự chết. Ngài sẽ làm như vậy để đưa dẫn chúng ta vào lối bình an.” 80 Bấy giờ đứa trẻ lớn lên, tâm linh mạnh mẽ và ở trong hoang mạc cho đến khi công khai xuất hiện trước dân Y-sơ-ra-ên.
Lu-ca giải thích lý do ông viết cho Thê-ô-phi-lơ.
“những lời thuật lại" hay "những câu chuyện có thật"
Từ "chúng ta" trong phân đoạn nầy có thể có hoặc không bao gồm Thê-ô-phi-lơ.
Đại từ “chúng ta” trong cụm từ này không bao gồm Thê-ô-phi-lơ.
"những người quan sát” hoặc “những người theo dõi”
Tham khảo cách dịch: "đã phục vụ Đức Chúa Trời qua việc rao truyền sứ điệp của Ngài cho dân sự" hay "đã truyền dạy cho dân sự Tin Lành về Chúa Giê-xu”
"nghiên cứu cẩn thận" Lu-ca đã cẩn thận tìm hiểu chính xác những sự việc đã xảy ra. Chắc chắn ông nói với những người khác nhau, là những người đã chứng kiến để đảm bảo rằng điều ông viết xuống về những sự kiện này là chính xác.
Lu-ca nói như vậy để tỏ lòng kính trọng đối với Thê-ô-phi-lơ. Cách nói nầy cũng có có thể nhằm ý rằngThê-ô-phi-lơ là một viên chức có quyền lực. Những cách dịch khác: “đáng tôn trọng” hoặc “cao quý”. Cũng có vài người thích đưa lời chào thăm nầy ra trước, “Gửi đến Thê-ô-phi-lơ...” hoặc “Kính gửi Thê-ô-phi-lơ...”
"đáng kính” hoặc “cao quý”
Tên gọi nầy có nghĩa là "bạn của Đức Chúa Trời". Nó có thể được dùng để mô tả về đặc điểm của người nầy hoặc có thể chính là tên thật của người đó. Hầu hết các bản dịch đều xem nó là một danh xưng (tên gọi).
Luke explains why he writes to Theophilus.
"reports" or "true stories"
The word "us" in this phrase may or may not exclude Theophilus.
Thiên sứ nói tiên tri rằng Giăng sẽ được sinh ra.
Trước giả giới thiệu Xa-cha-ri và Ê-li-sa-bét vào trong câu chuyện. Các câu này là những câu thông tin cơ bản về họ.
"Trong suốt thời kỳ vua Hê-rốt cai trị cả xứ Giu-đê"
"có một người đặc biệt" hoặc “có một người”. Đây là một cách giới thiệu nhân vật mới vào trong câu chuyện. Tham khảo cách dịch cụm từ này bằng ngôn ngữ của dịch giả.
Từ này được dùng để nói đến các thầy tế lễ. Tham khảo: “ban thầy tế lễ” hoặc “nhóm thầy tế lễ.”
"là hậu duệ của A-bi-gia”. A-bi-gia là tổ tiên của nhóm thầy tế lễ này và tất cả họ đều là con cháu của A-rôn, là thầy tế lễ đầu tiên của dân Y-sơ-ra-ên.
"Vợ ông là con cháu dòng dõi A-rôn.” Cụm từ này có nghĩa bà đến từ cùng một dòng dõi các thầy tế lễ như Xa-cha-ri. Tham khảo: “Vợ ông cũng thuộc dòng dõi A-rôn” hoặc “Xa-cha-ri và Ê-li-sa-bét, vợ ông, đều thuộc dòng dõi A-rôn.”
"là con cháu A-rôn"
"trước mặt Đức Chúa Trời" hay "theo sự đánh giá của Đức Chúa Trời"
"bước đi" là một ẩn dụ chỉ về cách con người sống và hành động. Tham khảo: “sống trọn vẹn” hoặc “hoàn toàn vâng phục trọn vẹn.”
Tham khảo cách dịch: "mọi điều Đức Chúa Trời đã ra lệnh và yêu cầu"
Từ chỉ sự tương phản nầy cho thấy những việc xảy ra sau đây sẽ trái với mong đợi. Người ta cho rằng nếu làm điều thiện thì Đức Chúa Trời sẽ cho họ có con cái. Ở đây, mặc dầu cặp vợ chồng nầy đã làm những điều phải lẽ nhưng họ vẫn chưa có đứa con nào.
Cụm từ này được dùng để biểu thị sự chuyển đổi trong câu chuyện từ thông tin bối cảnh đến những nhân vật trong đó.
"khi đến lượt nhóm của ông” hoặc “khi đến lúc nhóm của ông phục vụ”
Câu này cho chúng ta biết thông tin về các nhiệm vụ của thầy tế lễ.
"phương pháp truyền thống” hoặc “cách thông thường”
Lá thăm ở đây là hòn đá đã được đánh dấu sẵn. Người ta sẽ ném hoặc lăn hòn đá đó trên nền đất để giúp họ quyết định về một việc nào đó. Các thầy tế lễ tin rằng Đức Chúa Trời sẽ qua lá thăm mà tỏ cho họ biết Ngài muốn họ chọn thầy tế lễ nào.
Các thầy tế lễ phải dâng hưa thơm cho Đức Chúa Trời vào mỗi buổi sáng và chiều trên một bàn thờ đặc biệt ở trong đền thờ.
"rất nhiều người" hay "nhiều người"
Tham khảo cách dịch: “bên ngoài đền thờ" hay "ở sân ngoài đền thờ". Cái sân là khoảng đất có tường rào bao quanh đền thờ.
"trong giờ quy định." Không rõ đây là giờ buổi sáng hay giờ buổi chiều để dâng hương.
Khi Xa-cha-ri làm nhiệm vụ của ông trong đền thờ, một thiên sứ của Đức Chúa Trời đến ban cho ông một sứ điệp.
Từ này đánh dấu một sự bắt đầu của hành động trong câu chuyện.
"thình lình đến cùng ông" hay "thình lình có mặt tại đó với Xa-cha-ri".Điều này có nghĩa là thiên sứ thật sự hiện ra cùng Xa-cha-ri, không phải là mơ.
Hai cụm từ này có đồng một nghĩa, và nhấn mạnh cảm giác sợ hãi của Xa-cha-ri.
"khi ông thấy thiên sứ." Nguồn gốc của sự sợ hãi chính là đặc điểm đáng sợ của thiên sứ. Xa-cha-ri đã không làm gì sai.
Sự sợ hãi được mô tả khi Xa-cha-ri bị bối rối hoặc mất kiểm soát bởi điều gì đó.
"Ngươi chớ sợ ta” hoặc “Ngươi không cần sợ ta đâu.”
"Đức Chúa Trời đã nghe điều ngươi cầu xin". Ý đưa ra sau đây là ngụ ý, dịch giả có thể thêm vào trong câu: “và sẽ nhận lời cầu xin đó”. Không những Đức Chúa Trời đã nghe những điều Xa-cha-ri cầu nguyện; mà Ngài sẽ cũng sẽ làm thành điều đó nữa.
"sẽ mang thai một con trai cho ông” hoặc “sinh cho ông một con trai”
"Do" hay "Thêm vào đó”
Hai từ này có đồng một nghĩa và có thể được gộp lại nếu ngôn ngữ của người dịch không có các từ tương tự. Tham khảo: “rất vui”.
"vì sự ra đời của đứa bé"
"Đứa bé sẽ là một người rất quan trọng cho Chúa” hoặc “Đức Chúa Trời sẽ xem người là rất quan trọng” (UDB)
“Đức Thánh Linh sẽ trao quyền phép cho người” hay “Đức Thánh Linh sẽ dẫn dắt người”. Phải đảm bảo cách diễn đạt này nghe không tương tự như những việc mà tà linh có thể làm cho một người.
Trước kia thì người ta được đầy dẫy Thánh Linh, nhưng chưa ai nghe đến việc một đứa trẻ chưa sanh được đầy dẫy Thánh Linh cả.
Nếu dùng cụm từ này mà nghe như Xa-cha-ri chẳng dính dáng gì đến thì có thể dịch thành "nhiều người trong các ngươi, con cháu Y-sơ-ra-ên” hoặc “nhiều người trong các ngươi, vốn là dân sự của Đức Chúa Trời, tức là dân Y-sơ-ra-ên”. Nếu có thay đổi như vậy thì phải chắc rằng cụm “Đức Chúa Trời của họ” cũng được đổi thành “Đức Chúa Trời của các ngươi.”
"được trở về” hoặc “quay trở về"
Ông phải đi báo cho dân sự biết rằng Cứu Chúa sẽ đến cùng họ.
Từ “trước mặt” ở đây là một thành ngữ nói đến việc ở trước mặt Chúa. Cụm từ nay đôi khi được lược bỏ trong bản dịch. Tham khảo: “trước”
"với cùng một tinh thần và quyền năng như Ê-li đã có”. Từ “tin thần” ở đây có thể chỉ về Đức Thánh Linh của Đức Chúa Trời hoặc là thái độ hay cách suy nghĩ của Ê-li. Phải đảm bảo từ “tinh thần” ở đây không nói tới ma quỷ hay tà linh.
"thuyết phục cha quan tâm đến con cái họ lần nữa” hoặc “khiến cha phục hồi mối quan hệ với con mình”
“Khiến lòng” là một ẩn dụ nói đến việc thay đổi thái độ của một người đối với việc gì đó.
"kẻ không vâng phục phải cư xử” hoặc “kẻ không vâng phục phải sống”
"những người không vâng phục"
Việc chuẩn bị không nói tình trạng họ sẵn sàng thế nào.Tài liệu này được hiểu là thêm vào.Cụm từ nầy có thể được dịch thành "sẵn lòng tin theo sứ điệp của Chúa" hay "sẵn lòng vâng phục Chúa".
Tham khảo cách dịch: “Làm sao tôi dám chắc những điều chúa phán sẽ xảy ra?” “Làm sao tôi biết chắc rằng những lời người nói sẽ xảy ra?” “biết” có nghĩa là biết bằng kinh nghiệm, có thể Xa-cha-ri đang xin cho một dấu hiệu. Phần này có thể được nói rõ là: Tham khảo: “Người có thể làm gì để chứng minh cho tôi rằng việc này sẽ xảy ra?”
"rất già"
Câu này giống như lời quở trách trước mặt Xa-cha-ri. Sự hiện diện của Gáp-ri-ên đến trực tiếp từ Đức Chúa Trời phải đủ là bằng chứng cho Xa-cha-ri.
"tôi phục vụ"
Câu này có thể được nói ở thể chủ động. Tham khảo: “Đức Chúa Trời đã sai tôi đến để báo cho ông.” =
Từ “này” ở đây báo cho chúng ta phải chú ý vào thông tin bất ngờ theo sau.
Các từ này cùng có nghĩa, và được lặp lại để nhấn mạnh đến sự câm của ông. Tham khảo: “hoàn toàn không thể nói” hoặc “không thể nói được.”
"không tin lời tôi nói"
“vào đúng thời điểm” hay “vào giờ đã ấn định”
Tham khảo: “Trong thời gian đó” hoặc “Đang khi thiên sứ và Xa-cha-ri đang nói chuyện”
Những điều này chắc chắn đã xảy ra vào cùng một lúc, và những lần ra dấu của Xa-cha-ri giúp người ta hiểu rằng ông đã nhìn thấy một khải tượng. Việc thay đổi thứ tự để hiểu điều đó có thể giúp ích cho độc giả của hiểu. Tham khảo: “Ông cứ ra dấu trước mặt họ và im lặng. Vậy họ nhận biết là ông đã thấy một khải tượng trong đền thờ.”
Phần mô tả trước đó ngụ ý rằng Gáp-ri-ên đã thật sự đến gặp Xa-cha-ri trong đền thờ. Dân chúng thì không biết việc đó, họ cho rằng Xa-cha-ri đã thấy một khải tượng.
Cụm từ này đẩy câu chuyện về diễn biến tiếp theo khi Xa-cha-ri đã phục vụ xong.
Xa-cha-ri không sống ở Giê-ru-sa-lem là nơi có đền thờ. Ông đi về quê nhà của mình.
Cụm từ “những ngày ấy” nói đến khoảng thời gian Xa-cha-ri đang phục vụ trong đền thờ. Có thể nói rõ hơn ở chỗ này. Tham khảo: “Sau khi Xa-cha-ri phục vụ ở đền thờ xong và trở về nhà.”
"vợ Xa-cha-ri"
"không rời khỏi nhà” hoặc “ẩn mình trong nhà”
Câu nầy cho thấy sự thật là Chúa đã cho phép bà mang thai.
Đây là một lời kêu lên tích cực. Bà rất vui với việc Chúa đã làm cho bà.
“đoái đến” là một thành ngữ có nghĩa là “đối xử” hoặc “đối đãi”. Tham khảo: “đoái đến tôi một cách nhân từ” hoặc “thương xót tôi”
Cụm từ này nói đến nỗi xấu hổ của bà vì bà không thể sanh con.
Thiên sứ Gáp-ri-ên báo với Ma-ri rằng bà sẽ là mẹ của con trẻ, là Con Đức Chúa Trời.
Từ này biểu thị sự thay đổi trong câu chuyện sang một sự kiện mới.
"khi Ê-li-sa-bét mang thai được sáu tháng.” Có thể cần thiết phải nói điều này rõ ràng nếu như độc giả hiểu lầm là sáu tháng của một năm.
Tham khảo cách dịch: "Đức Chúa Trời truyền thiên sứ Gáp-ri-ên đi"
"Ngài thuộc đồng chi phái của Đa-vít” hoặc “Ngài là con cháu của Vua Đa-vít” (UDB)
"hứa hôn" hay "hứa cho cưới". Cha mẹ của Ma-ri đã hứa gả nàng cho Giô-sép.
Câu này giới thiệu Ma-ri là nhân vật mới trong câu chuyện.
"Thiên sứ đến gặp Ma-ri"
Tham khảo cách dịch: “Hãy vui mừng” hoặc “Hãy vui lên. Đây là lời chào thông thường.
“Hỡi cô là người rất được ơn" hay "Hỡi cô là người nhận được ân điển” hoặc “Hỡi cô là người đã nhận được sự nhân từ”
"cùng cô” là một thành ngữ có ngụ ý là hỗ trợ và chấp nhận. Tham khảo: “Chúa vui lòng ở cô.”
Ma-ri hiểu nghĩa của những lời nói riêng cho bà, nhưng bà không hiểu tại sao thiên sứ nói lời chào tuyệt vời này với bà.
Thiên sứ không muốn Ma-ri sợ hãi khi thấy sự xuất hiện của mình, vì Đức Chúa Trời đã sai thiên sứ đến để truyền sứ điệp tích cực.
Thành ngữ “được ơn” có nghĩa là tích cực được ai đó tiếp nhận. Câu này có thể được thay thế để cho thấy Đức Chúa Trời là nhân vật chính. Tham khảo: “Đức Chúa Trời đã quyết định ban ân sủng Ngài cho cô” hoặc “Đức Chúa Trời bày tỏ sự nhân từ Ngài đối với cô.”
Ma-ri sẽ sanh một “con trai”, con trai này sẽ đợc gọi là “Con của Đấng Chí Cao” (UDB). Vậy Chúa Giê-xu là con trai của một người mẹ về phần xác, và Ngài cũng là Con Đức Chúa Trời. Các thuật ngữ này phải được dịch rất cẩn thận.
Có thể có nghĩa 1) “người ta sẽ gọi Ngài” hoặc 2) “Đức Chúa Trời sẽ gọi Ngài.”
Đây là một danh hiệu quan trọng chỉ về Chúa Giê-xu, Con Đức Chúa Trời.
Tham khảo cách dịch: "ban cho Ngài quyền cai trị ngôi vua giống như tổ phụ Ngài là Đa-vít đã làm ". Ngôi vua đại diện cho thẩm quyền cai trị của vua.
Cụm từ phủ định “không kết thúc” nhấn mạnh rằng vương quốc ấy sẽ kéo dài mãi mãi. Câu này có thể được nói bằng một cụm từ tích cực. Tham khảo: “Vương quốc Ngài sẽ không bao giờ chấm dứt.”
Tham khảo cách dịch: "Làm sao việc nầy có thể xảy ra". Mặc dù Ma-ri không hiểu làm sao việc nầy có thể xảy ra nhưng cô không hề nghi ngờ việc nó xảy ra hay không.
Ma-ri dùng cách nói lịch sự này để nói rằng bà chưa có hành động tình dục nào cả. Tham khảo: “Tôi là một trinh nữ”.
Tiến trình Ma-ri mang thai sẽ bắt đầu bằng việc Đức Thánh Linh ngự trên bà.
"sẽ xảy đến bất thình lình” hoặc “sẽ xảy đến”
Quyền năng của Đức Chúa Trời sẽ hành động cách phi thường khiến Ma-ri mang thai dù bà vẫn còn là trinh nữ. Điều đó không bao phải do mang thai do tính dục tự nhiên-đó là một phép màu.
“Sẽ che phủ người như cái bóng”
Tham khảo cách dịch: "đứa con thánh" hay "đứa bé thánh"
Có thể có nghĩa 1) “người ta sẽ gọi Ngài” hoặc 2) “Đức Chúa Trời sẽ gọi Ngài.”
Dù mẹ Ma-ri của Chúa Giê-xu là con người, nhưng Đức Chúa Trời đã đặt con trẻ Giê-xu trong tử cung bà một cách siêu nhiên. Vậy, Đức Chúa Trời là Cha Ngài, và Chúa Giê-xu được gọi là “Con Đức Chúa Trời.”
Đây là một danh hiệu quan trọng chỉ về Chúa Giê-xu.
Cách diễn đạt này nhấn mạnh tầm quan trọng của lời mà Ê-li-sa-bét nói sau đó.
Nếu dịch giả cần nói đến một mối quan hệ đặc biệt, thì chắc chắn Ê-li-sa-bét là dì hoặc dì lớn của bà Ma-ri.
"cũng đã mang thai một trai, mặc dù bà ấy đã cao tuổi rồi" hay "mặc dù bà đã già nhưng cũng đã mang thai và sẽ sanh một trai". Phải đảm bảo dịch câu này sao cho người đọc không hiểu thành cả Ma-ri và Ê-li-sa-bét đều mang thai lúc tuổi già.
"mang thai được sáu tháng"
"Bởi vì” hoặc “Do”
Câu phủ định đôi này có thể được nói bằng các từ tích cực. Tham khảo: “Việc này cho thấy rằng Đức Chúa Trời có thể làm được bất cứ việc gì.” Sự mang thai của E-li-sa-bét là bằng chứng cho thấy rằng Đức Chúa Trời có thể làm được mọi thứ - ngay cả làm cho Ma-ri mang thai mà không phải bởi tình dục với người nam nao cả.
Ma-ri sử dụng cùng một cách diễn đạt như thiên sứ để nhấn mạnh là bà nghiêm trọng trong quyết định thuận phục Chúa.
"Tôi đây là đầy tớ của Chúa". Hãy chọn cách nói nào bày tỏ được thái độ khiêm nhường và vâng phục của Ma-ri trước Chúa. Cô không hề khoe khoang về việc mình là tôi tớ của Đức Giê-hô-va.
Ma-ri đang bày tỏ sự sẵn lòng về những việc sẽ xảy đến mà thiên sứ đã phán bảo cũng mình.
Ma-ri thăm người bà con mình là Ê-li-sa-bét, là người sẽ sanh ra Giăng.
Thành ngữ này có nghĩa là bà hông những đứng lên, nhưng cũng “sẵn sàng”. Tham khảo: “bắt đầu” hoặc “sẵn sàng.”
"vùng đồi núi" hoặc "vùng đồi núi của Y-sơ-ra-ên"
Từ này ngụ ý rằng Ma-ri đã hoàn tất chuyến đi trước khi đến nhà Xa-cha-ri. Câu này có thể được nói rõ. Tham khảo: “Khi đã đến nơi, nàng vào"
Cụm từ này được dùng để biểu thị một sự kiện mới trong câu chuyện.
"trong bụng Ê-li-sa-bét"
"bất chợt cử động"
Hai cụm từ này cùng có một nghĩa, và được dùng để nhấn mạnh đến cảm giác hào hứng của Ê-li-sa-bét. Các cụm từ này có thể được gộp lại thành một. Tham khảo: “lớn tiếng kêu lên.” (UDB)
Thành ngữ này có nghĩa là “cất tiếng nói lớn”
Thành ngữ “trong số chị em phụ nữ” có nghĩa là “hơn bất kì phụ nữ nào khác.”
Tham khảo cách dịch: "con trẻ trong lòng con" hoặc "con trẻ mà con sinh ra” Con trẻ của Ma-ri được so sánh với trái do cây sanh ra. Tham khảo: “con trẻ trong bụng ngươi” hoặc “con trẻ mà ngươi sẽ sanh” (UDB)
Tham khảo cách dịch: "Thật tuyệt vời làm sao khi mẹ Chúa đến thăm ta!". Ở đây, không phải Ê-li-sa-bét đang tra hỏi điều gì mà đúng hơn là bà đang tỏ ra niềm kinh ngạc lẫn hạnh phúc của mình khi mẹ Chúa đến thăm bà.
Tham khảo cách dịch: "con là mẹ của Chúa ta". Cụm từ nầy đề cập đến Ma-ri.
Cụm từ này báo chúng ta phải chú ý đến lời ngạc nhiên của Ê-li-sa-bét theo sau.
Thành ngữ này có nghĩa “Tôi đã nghe.”
"bỗng dung chuyển động vui mừng” hoặc “xoay mình vì đứa bé quá vui!”
Tham khảo cách dịch: "Con được phước thay, hỡi người đã tin” hoặc “Vì con đã tin nên con sẽ được vui mừng”
"những điều này sẽ thật sự xảy ra” hoặc “những điều này sẽ xảy đến”
Tham khảo cách dịch: "sứ điệp mà Chúa đã ban cho con” hoặc “những điều Chúa đã phán với con”
Luke 1 Translation Questions]]
Ma-ri bắt đầu hát ngợi khen Chúa là Cứu Chúa của bà.
Ma-ri dùng thơ ca để nói lên cùng một điều theo hai cách hơi khác nhau. Nếu có thể, hãy dịch hai cách này bằng hai từ hoặc cụm từ hơi khác nhau có cùng ý nghĩa tương tự.
Cả “linh hồn” và “tâm linh” đều nói đến phần linh của con người. Ma-ri nói rằng sự thờ phượng của bà xuất phát từ tận sâu trong lòng. Tham khảo: “Thể chất bên trong tôi…lòng tôi” hoặc “Tôi…Tôi"
“cảm thấy rất vui về” hoặc “rất sung sướng về”
“Đức Chúa Trời, là Đấng giải cứu tôi” hoặc “Đức Chúa Trời Đấng cứu tôi”
"Bởi vì Ngài"
"lưu tâm để ý” hoặc “quan tâm đến”
"nghèo”. Gia đình của bà Ma-ri không giàu có.
Cụm từ này khơi gợi sự chú ý đến lời nói tiếp sau.
“bây giờ và trong tương lai”
"những người trong mọi thế hệ"
Tham khảo cách dịch: "Đức Chúa Trời, là Đấng Quyền Năng"
Ở đây "danh" chỉ về chính Đức Chúa Trời. Tham khảo cách dịch: "Ngài"
"Sự thương xót của Đức Chúa Trời"
"từ thế hệ này qua thế hệ kia” hoặc “qua mọi thế hệ” hoặc “tới những người ở mỗi thời kỳ”
“Tay Ngài” là một hoán dụ nói đến quyền năng của Chúa. Tham khảo: “tỏ ra rằng Ngài thật quyền năng.”
"xua đuổi hoặc “khiến chúng bỏ chạy toán lạn”
“lòng” là một thành ngữ nói đến tư tưởng bên trong của con người. Tham khảo: “các tư tưởng bên trong con người.”
Tham khảo cách dịch: “Ngài tước bỏ quyền cai trị của các vua” hoặc “Ngài truất bỏ ngôi các kẻ thống trị”. Ngôi là cái ghế cho vua ngồi, là biểu tượng cho thẩm quyền của vua. Nếu vị vua bị truất khỏi ngôi mình đồng nghĩa với việc ông ta không còn thẩm quyền trị vị như một vị vua nữa.
Sự tương phản giữa hai hành động trái ngược nên được dịch rõ hơn nếu có thể.
Tham khảo cách dịch từ này ở LUK01:48
Trong khung cảnh của từ này, những người quan trọng thường cao hơn những người kém quan trọng. Tham khảo: “Ngài khiến những kẻ quan trọng phải hạ mình” hoặc “tôn trọng những người không được tôn trọn.”
Sự tương phản giữa hai hành động trái ngược nên được dịch rõ hơn nếu có thể.
Có thể có nghĩa 1) “ban thức ăn ngon cho người đói” hoặc 2) “ban vật tốt cho người thiếu thốn.”
Bản UDB sắp xếp lại các câu này thành một câu bắc cầu để giữ thông tin về Y-sơ-ra-ên.
Tham khảo cách dịch: “Chúa đã giúp đỡ”
Nếu người đọc hiểu nhầm ý ở đây thành một người đàn ông tên là Y-sơ-ra-ên thì có thể dịch thành: “nước Y-sơ-ra-ên, tôi tớ Ngài” hoặc “dân Y-sơ-ra-ên, những tôi tớ Ngài”
"để"
Đức Chúa Trời không thể quên. Khi Chúa “nhớ”, thì đây là thành ngữ có nghĩa là Ngài thực hiện lời hứa trước đó của Ngài..
"Như Ngài đã hứa cùng tổ phụ chúng ta rằng Ngài sẽ làm.” Cụm từ này cung cấp cho thông tin ngữ cảnh về lời hứa của Đức Chúa Trời đối với Áp-ra-ham. Tham khảo: “vì Ngài đã hứa với tổ phụ chúng ta rằng Ngài sẽ thương xót."
"con cháu Áp-ra-ham"
Ê-li-sa-bét sanh ra một con trẻ và Xa-cha-ri đặt tên con trẻ ấy.
"Ma-ri trở về nhà của nàng (của Ma-ri)” hoặc “Ma-ri trở về nhà mình”
Từ này đánh dấu phần mở đầu của sự kiện tiếp theo trong câu chuyện.
Tham khảo cách dịch: “hàng xóm láng giềng và bà con của Ê-li-sa-bét"
"thương xót bà" (UDB)
"bấy giờ khi đứa trẻ được tám ngày tuổi" hoặc tham khảo: “bấy giờ, vào ngày thứ tám sau khi đứa trẻ được sinh ra
Từ này chắc chắn nói đến Xa-cha-ri và bạn bè và người thân của Ê-li-sa-bét.
Đây là một nghi thức khi người ta cắt bì đứa trẻ và có mặt bạn bè ở tại đó với gia đình. Tham khảo: “vì lễ cắt bì đứa trẻ.”
"Họ định đặt tên đứa bé” hoặc “họ muốn đặt tên cho đứa bé.” Đây là một phong tục bình thường
"tên của cha nó"
"theo tên ấy” hoặc “theo cùng tên ấy”
Từ này nói đến những người có mặt ở nghi lễ cắt bì.
"ra hiệu." Xa-cha-ri không thể nghe và nói, hoặc người ta cho rằng ông không thể nghe.
"với cha đứa trẻ"
"tên mà Xa-cha-ri muốn đặt cho đứa bé”
Có thể sẽ hữu ích nếu viết là Xa-cha-ri “yêu cầu” vì ông không thể nói. Tham khảo: “Cha đứa trẻ dùng tay để ra dấu cho mọi người biết là ông muốn họ đem đến một cái bảng để viết.”
"thứ gì đó để viết lên”
“lấy làm lạ”
Hai cụm từ này là những từ tượng hình cùng nhấn mạnh rằng Xa-cha-ri đã bất ngờ có thể nói.
Các cụm từ này cũng có thể được nói ở thể chủ động. Tham khảo: “Đức Chúa Trời mở miệng ông và làm cho lưỡi ông được thong thả.”
"Hết thảy những người sống xung quanh Xa-cha-ri và Ê-li-sa-bét đều kinh hãi" hoặc “"Hết thảy những người sống gần họ đều kinh sợ Đức Chúa Trời". Họ nhận biết Đức Chúa Trời có quyền năng.
"Hết thảy những người” ở đây không phải chỉ bao gồm những người hàng xóm sống gần bên cạnh mà còn có tất cả những người sống trong khu vực đó nữa.
Tham khảo cách dịch: “người ta bàn nhau về những việc đã xảy ra nầy”
Cụm từ này nói đến một nhóm đông người sống ở khắp xứ Giu-đê.
“ban"
Tham khảo cách dịch: "Sau này, đứa trẻ lớn lên sẽ trở thành người vĩ đại nào?” hoặc “Đứa trẻ nầy sẽ trở thành một người vĩ địa lắm đây!”. Câu hỏi nầy cho thấy sự kinh ngạc của dân chúng tại đó. Theo những điều đã nghe nói về đứa trẻ nầy, người ta nhận biết rằng sau nầy lớn lên nó sẽ là một người quan trọng.
"Quyền phép của Chúa ở cùng người" hay "Chúa làm việc trong người cách quyền năng". Cụm từ "tay Chúa" nói đến quyền phép của Chúa.
Xa-cha-ri thuật lại điều sẽ xảy ra với con trai ông là Giăng.
Câu này có thể được nói ở thể chủ động. Tham khảo: “Đức Thánh Linh đầy dẫy trên Xa-cha-ri, cha đứa bé.”
Cha của Giăng
Xem xét những cách tự nhiên trong việc giới thiệu những lời tường thuật trực tiếp trong ngôn ngữ đích. Tham khảo: “nói tiên tri và nói rằng” hoặc “nói tiên tri, và đây là lời ông nói”
Tham khảo cách dịch: "Đức Chúa Trời là Đấng cai trị cả Y-sơ-ra-ên" hoặc “Đức Chúa Trời là Đấng mà dân Y-sơ-ra-ên thờ phượng". Từ Y-sơ-ra-ên ở đây chỉ về quốc gia Y-sơ-ra-ên. Xa-cha-ri cũng như dân sự mà ông đang nói tới đều thuộc về nước Y-sơ-ra-ên.
"dân sự của Đức Chúa Trời"
"hoàn tất sự cứu rỗi cho dân Ngài” hoặc “trả giá để giả thoát dân Ngài”
Cái sừng của con thú là một biểu tượng về sức mạnh tự vệ của con thú đó. Câu này có thể được ghi rõ nghĩa. Tham khảo: “một người có quyền năng giải cứu chúng ta.”
Hai cụm từ này cùng nói đến một điều, và nhấn mạnh Đấng sẽ giải cứu họ là con cháu của Vua Đa-vít.
"bên trong gia đình của"
"một trong những con cháu"
"như Chúa đã nói"
Tham khảo cách dịch: "khiến các tiên tri thánh của Ngài nói"
Thành ngữ này có nghĩa là “bởi” hoặc “qua tiếng của”
"sống từ xưa"
Từ này nói đến sự giải cứu thuộc thể, hơn là sự giải cứu thuộc linh.
Về cơ bản thì nghĩa của hai từ này giống nhau và tác giả lặp lại để nhấn mạnh ý.
Có thể hữu ích nếu nói lại cho rõ từ “sự giải cứu” ở đây. Tham khảo: “sự giải cứu khỏi tay của.”
"quyền lực" hay "quyền kiểm soát". Chữ "tay" ở đây gắn liền với quyền lực hay quyền kiểm soát mà người ta dùng để làm tổn hại đến dân sự của Đức Chúa Trời.
"to be merciful to" or "to act according to his mercy toward"
Ở đây, từ "nhớ" nói về việc giữ sự cam kết hoặc làm thành một việc gì đó.
Hai cụm này đều nói đến đồng một điều. Các cụm này được lặp lại để cho thấy tính nghiêm túc của lời hứa giữa Đức Chúa Trời với Áp-ra-ham.
"khiến cho chúng ta"
Sẽ có thể hữu ích nếu thay đổi thứ tự của các cụm này. Tham khảo: “đặng chúng ta sẽ phục vụ Ngài mà không sợ hãi gì sau khi đã được cứu khỏi quyền lực của kẻ thù nghịch chúng ta.”
Từ "tay" nói đến quyền kiểm soát hay quyền lực của một người gây tổn hại đến người khác. Tham khảo cách dịch: "khỏi quyền kiểm soát của kẻ thù” hay "khỏi bị bức hại và bị nô lệ bởi kẻ thù của chúng tôi".
Tham khảo cách dịch: "không bị sợ kẻ thù chúng tôi"
Tham khảo cách dịch: "khi chúng ta sống cách thánh khiết và công bình" hoặc "sống đời sống thánh khiết và làm những việc phải lẽ."
"trong sự hiện diện của Ngài" hoặc "theo ý muốn Ngài"
Xa-cha-ri dùng cụm từ này để bắt đầu nói trực tiếp tới con trai của ông. Trong ngôn ngữ đích có thể có một cách tương tự để định hướng lời được nói.
Người ta sẽ nhận ra rằng đứa bé là một tiên tri. Câu này có thể được nói ở dạng chủ động. Tham khảo: “người ta sẽ biết rằng con là một tiên tri.”
Tham khảo cách dịch: "người phục vụ Đấng Chí Cao" hoặc "người phát ngôn của Đức Chúa Trời Chí Cao"
Thành ngữ này có nghĩa là “đi trước Chúa” hoặc “đến trước Chúa”.
“giải thích sự cứu rỗi cho dân Ngài” hoặc “dân Ngài có thể nhận biết sự cứu rỗi”
"qua sự tha tội." Câu này có thể được nói ở thể chủ động. Tham khảo: “Vì Đức Chúa Trời đã tha thứ họ”
Qua các câu này, “chúng ta” bao gồm tất cả mọi người.
Có thể hữu ích nếu nói rằng sự thương xót của Chúa giúp chúng ta. Tham khảo: “Vì Đức Chúa Trời thương xót và nhân từ với chúng ta.”
Ánh sáng thường là một từ ẩn dụ để nói về lẽ thật. Ở đây, cách mà mặt trời chiếu ánh sáng trên thế gian được dùng làm ví dụ chỉ về cách Chúa Cứu Thế sẽ ban lẽ thật thuộc linh cho dân sự.
"ban sự hiểu biết” hoặc “ban sự sáng thuộc linh cho”
Sự tối tăm là một phép ẩn dụ để nói về những người không có lẽ thật. Tham khảo: “những người không biết lẽ thật.”
Hai cụm từ này kết hợp với nhau để nhấn mạnh đến sự tối tăm trong tâm linh của con người trước khi Chúa thương xót họ.
Bóng là từ ẩn dụ chỉ về một việc gì đó đang đến. Ở đây, từ này nói đến sự tối tăm tâm linh là thứ sẽ khiến họ chết. Tham khảo: “những người sắp chết.”
Dẫn dắt con người bước đi là một phép ẩn dụ nói đến việc hướng dẫn sự hiểu biết thuộc linh của họ. Tham khảo: “hướng dẫn chúng ta” hoặc “dạy chúng ta.”
Tham khảo cách dịch: "chúng tôi"
“lối bình an” là một phép ẩn dụ dùng để nói về con đường sự sống mà người đi trên đó sẽ có sự bình an với Chúa. Tham khảo: “để sống một cuộc đời bình an” hoặc “bước theo đường dẫn đến sự bình an.”
Câu này nói vắn tắt về những năm Giăng lớn lên.
Từ này được dùng để biểu thị phần ngắt ở cốt truyện chính. Lu-ca nhanh chóng chuyển từ phần Giăng được sinh ra đến sự khởi đầu chức vụ của ông khi trưởng thành.
“trở nên trưởng thành về tâm linh” hoặc “mạnh mẽ trong mối quan hệ của mình với Đức Chúa Trời”
"sống trong hoang mạc." Lu-ca không nói rằng Giăng bắt đầu sống trong hoang mạc từ năm mấy tuổi.
“kể cả khi”. Không nhất thiết đây phải là một điểm dừng. Vì kể cả khi Giăng đã bắt đầu công khai giảng dạy thì ông vẫn tiếp tục sống trong đồng vắng.
"khi ông bắt đầu công khai giảng cho"
Từ này được dùng theo nghĩa chung của “thời điểm” hoặc “dịp”.
Người "chứng kiến" là những người đã ở với Chúa Giê-xu từ lúc Ngài bắt đầu chức vụ.
Xa-cha-ri phục vụ trong vai trò thầy tế lễ.
Một thiên sứ của Chúa hiện ra cùng Xa-cha-ri trong đền thờ.
Thiên sứ nói Giăng sẽ làm cho con cái Y-sơ-ra-ên trở lại cùng Chúa, là Đức Chúa Trời của họ.
Xa-cha-ri sẽ không có khả năng nói cho tới chừng con trẻ ra đời.
Ê-li-sa-bết nói rằng Ma-ri cùng con trẻ của nàng sẽ được phước.
Chúng sẽ làm ứng nghiệm mọi lời hứa của Đức Chúa Trời với Áp-ra-ham cùng dòng dõi của ông, họ sẽ được thương xót và được giúp đỡ cho.
Xa-cha-ri.
Xa-cha-ri viết "tên nó là Giăng", và khi ấy Xa-cha-ri khởi sự nói được.
Giăng lớn lên và sống trong các khu vực sa mạc.
1 Vào thời kỳ đó, Sê-sa Au-gút-tơ ra chiếu chỉ kiểm tra dân số trên toàn cõi. 2 Đây là lần kiểm tra dân số đầu tiên thực hiện trong thời Qui-ri-ni-u làm tổng đốc vùng Sy-ri. 3 Vậy là mọi người đều phải trở về quê quán để đăng ký. 4 Vì Giô-sép thuộc dòng dõi Đa-vít nên cũng từ thành Na-xa-rét, xứ Ga-li-lê lên thành Bết-lê-hem, xứ Giu-đê, cũng được gọi là thành Đa-vít, 5 để đăng ký tên mình và tên Ma-ri, là người đã đính hôn với mình, đang mang thai. 6 Trong khi họ đang ở đó thì Ma-ri chuyển dạ. 7 Cô sinh con trai, người con đầu lòng, và cô dùng khăn bọc con mình lại. Rồi cô đặt cậu bé vào một máng cỏ, vì họ không kiếm được chỗ trong phòng trọ. 8 Cũng trong vùng ấy, có một số mục tử đang ở ngoài đồng canh giữ bầy chiên trong đêm. 9 Bất chợt, một thiên sứ của Chúa hiện ra với họ, vinh quang của Chúa chiếu rọi xung quanh, khiến họ rất sợ hãi. 10 Thiên sứ nói với họ: “Đừng sợ, vì tôi mang đến cho các anh một tin lành, là tin vui lớn cho tất cả mọi người. 11 Hôm nay, tại thành Đa-vít, một Cứu Chúa đã được sinh ra cho các anh! Ngài là Đấng Cứu Thế, là Chúa! 12 Đây là dấu hiệu cho các anh nhận biết Ngài, các anh sẽ gặp một em bé bọc bằng khăn, nằm trong máng cỏ.” 13 Bỗng nhiên, cả một đoàn thiên binh hiện ra cùng với thiên sứ ấy ngợi khen Đức Chúa Trời rằng: 14 Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người được ơn.” 15 Khi các thiên sứ lìa họ lên trời, các mục tử bàn với nhau: “Chúng ta hãy đi đến Bết-lê-hem để xem việc mới xảy ra này.” 16 Họ vội vàng đi đến đó, gặp Ma-ri và Giô-sép, rồi cũng thấy con trẻ nằm trong máng cỏ. 17 Sau khi đã nhìn thấy như vậy, họ liền thuật lại mọi điều đã nghe về con trẻ. 18 Ai nghe cũng đều rất ngạc nhiên về câu chuyện các mục tử kể lại. 19 Còn Ma-ri thì suy ngẫm về mọi việc mình đã nghe và ghi nhớ trong lòng. 20 Các mục tử trở về, tôn vinh và ngợi khen Đức Chúa Trời về mọi điều họ đã nghe và thấy, đúng y như những gì đã báo cho họ. 21 Đến ngày thứ tám, là ngày làm lễ cắt bì cho con trẻ, họ đặt tên cho Ngài là Giê-xu, là tên mà thiên sứ đã đặt trước khi Ngài được thai dựng trong lòng mẹ. 22 Khi những ngày thanh tẩy theo luật Môi-se đã qua, Giô-sép và Ma-ri đưa Ngài lên đền thờ Giê-ru-sa-lem để dâng cho Chúa, 23 theo như đã chép trong luật pháp của Chúa rằng: “Tất cả các con trai đầu lòng sẽ được biệt riêng ra thánh cho Chúa.” 24 Họ cũng dâng của lễ theo như luật pháp của Chúa dạy, đó là “một cặp chim bồ câu hay đôi chim cu non”. 25 Lúc ấy, tại thành Giê-ru-sa-lem có một người tên là Si-mê-ôn, là một người công bình và sốt sắng. Ông đang chờ đợi Đấng Yên Ủi dân Y-sơ-ra-ên, và Đức Thánh Linh ngự trên ông. 26 Ngài đã cho ông biết trước rằng ông sẽ được thấy Đấng Cứu Thế của Chúa trước khi qua đời. 27 Được Đức Thánh Linh dẫn dắt, Si-mê-ôn vào đền thờ đúng lúc cha mẹ của Chúa Giê-xu đưa Ngài đến để thực hiện các thủ tục theo luật pháp. 28 Si-mê-ôn bồng Ngài trên tay và ngợi khen Đức Chúa Trời rằng: 29 “Lạy Chúa, bây giờ, xin cho tôi tớ Ngài được qua đời bình an theo như lời Ngài đã hứa. 30 Vì mắt con đã thấy sự cứu rỗi Ngài, 31 mà Ngài đã chuẩn bị trước mặt muôn dân. 32 Đấng ấy là ánh sáng để mặc khải cho dân ngoại và là vinh quang của Y-sơ-ra-ên, dân Ngài.” 33 Cha mẹ của con trẻ rất kinh ngạc trước những lời ông nói về Ngài. 34 Rồi Si-mê-ôn chúc phước cho họ và nói với Ma-ri, mẹ Ngài, rằng: “Xin nghe kỹ lời tôi! Đứa trẻ này đã được định sẽ làm cho nhiều người Y-sơ-ra-ên hoặc vấp ngã hoặc chỗi dậy và là một dấu hiệu bị người ta nói phạm. 35 Còn cô, một thanh gươm sẽ đâm thấu linh hồn cô, để suy nghĩ trong lòng nhiều người được tỏ lộ ra.” 36 Tại đó cũng có nữ tiên tri An-ne. Bà là con gái của Pha-nu-ên, thuộc chi tộc A-se, tuổi đã cao. Sau khi kết hôn, bà sống với chồng được bảy năm, 37 và rồi ở góa suốt tám mươi bốn năm. Bà ở luôn trong đền thờ và ngày đêm thờ phượng Đức Chúa Trời bằng sự kiêng ăn cầu nguyện. 38 Vào đúng lúc ấy, bà tiến đến chỗ họ và cất tiếng cảm tạ Đức Chúa Trời, rồi đi nói về con trẻ cho mọi người đang trông đợi sự giải cứu Giê-ru-sa-lem. 39 Sau khi đã làm xong mọi việc phải làm theo luật pháp của Chúa, họ trở về thành mình là Na-xa-rét thuộc miền Ga-li-lê. 40 Con trẻ lớn lên và trở nên mạnh mẽ, ngày càng khôn ngoan, và ân điển của Đức Chúa Trời ở trên Ngài. 41 Hàng năm, cha mẹ Ngài thường lên Giê-ru-sa-lem để dự lễ Vượt Qua. 42 Khi Ngài được mười hai tuổi, thì họ lại lên đó vào thời gian vẫn thường diễn ra kỳ lễ. 43 Sau khi đã ở đó dự lễ đủ số ngày, họ lên đường trở về nhà. Nhưng cậu bé Giê-xu vẫn ở lại Giê-ru-sa-lem mà cha mẹ Ngài không hay biết. 44 Họ cứ cứ tưởng Ngài cùng đi trong đoàn nên sau một ngày đường họ mới đi tìm Ngài trong vòng bà con và bạn bè. 45 Khi không thấy Ngài đâu, họ trở lại Giê-ru-sa-lem để tìm. 46 Ba ngày sau, họ thấy Ngài đang ngồi giữa các giáo sư trong đền thờ, Ngài vừa nghe vừa đặt câu hỏi. 47 Mọi người nghe Ngài nói đều kinh ngạc vì sự hiểu biết cũng như về lời đối đáp của Ngài. 48 Khi cha mẹ thấy Ngài thì rất ngạc nhiên. Mẹ Ngài nói: “Con trai, sao con lại làm vậy với cha mẹ? Cha và mẹ đã rất lo lắng tìm kiếm con.” 49 Ngài thưa: “Cha mẹ tìm con làm gì? Cha mẹ không biết rằng con phải ở trong nhà của Cha con sao?” 50 Nhưng hai người không hiểu ý Ngài. 51 Rồi Ngài trở về Na-xa-rét cùng với cha mẹ và vâng phục hai vị. Mẹ Ngài ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. 52 Chúa Giê-xu ngày càng khôn ngoan và cao lớn, càng được lòng Đức Chúa Trời và người ta.
Từ này cho thấy bối cảnh tại sao Ma-ri và Giô-sép phải dời đi để sinh Chúa Giê-xu.
Từ này biểu thị sự khởi đầu của phần mới trong câu chuyện.
Cụm từ nầy được sử dụng để cho thấy đây là phần mở đầu của một câu chuyện. Nếu ngôn ngữ của bạn có cách để mở đầu một câu chuyền thì bạn có thể dùng cách đó. Một số bản dịch thì không có cụm từ nầy.
"Vua Au-gút-tơ" hay "Hoàng đế Au-gút-tơ". Au-gút-tơ là vị hoàng đế đầu tiên của Đế quốc La-mã.
Chiếu chỉ là một yêu cầu lạc hay mạng lệnh. Cụm từ nầy có thể được dịch là "ra sắc lệnh” hoặc “yêu cầu” hoặc “ra lệnh”
Cụm từ nầy có thể được dịch thành "rằng hết thảy những người sống dưới quyền thống trị của La-mã phải đi đăng ký” hoặc “phải tính hết thảy những người sống dưới quyền thống trị của La-mã rồi ghi tên họ vào sổ sách.”
Cụm từ nầy có thể được dịch thành "một bộ phận thế giới nằm dưới sự kiểm soát của chính quyền La-mã” hoặc “những quốc gia dưới sự cai trị của hoàng đế La-mã” hoặc “đế quốc La-mã”
Qui-ri-ni-u được chỉ định làm thống đốc của xứ Sy-ri.
“mọi người bắt đầu đi” hoặc “mọi người đi”
Có thể hữu ích khi nói rằng “mình” không chỉ về quê quán mà ông sống. Tham khảo: “quê quán của tổ tiên mình.”
"để khai tên vào sổ đăng ký” hoặc “để được tính là chính thức”
Bản UDB tái sắp xếp hai câu này thành một câu liên kết để dễ dàng rút ngắn các câu hơn.
Cụm từ này giới thiệu Giô-sép là nhân vật mới trong câu chuyện.
“thành Na-xa-rét trong xứ Ga-li-lê”
Đây là thông tin ngữ cảnh về tầm quan trọng của Bết-lê-hem. Dù đây là một thành phố nhỏ, nhưng Vua Đa-vít đã được sanh ra tại đây, và cũng có lời tiên tri rằng Đấng Mê-si-a sẽ được sanh tại đây. Tham khảo: “thành Vua Đa-vít.”
"vì Giô-sép là con cháu"
Từ này có nghĩa là báo với chính quyền địa phương để họ tính vào số dân. Hãy sử dụng một thuật ngữ dành cho việc tính số dân của chính quyền nếu có thể.
Ma-ri đã đi với Giô-sép từ thành Na-xa-rét. Giống như mọi phụ nữ cũng phải nộp thuế, Ma-ri cũng phải đi đăng ký.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "vợ chưa cưới của người" hay "người đã được hứa gã cho ông". Một cặp đã đính hôn được xem là kết hôn hợp pháp, nhưng chưa có quan hệ mật thiết giữa họ.
Phần này nói về sự giáng sinh của Chúa Giê-xu và lời rao báo của các thiên sứ dành cho những mục đồng.
Bản UDB tái sắp xếp các câu này thành một câu liên kết nhành giữ chi tiết về nơi chốn của họ.
Cụm từ này biểu thị phần khởi đầu của sự kiện mới trong câu chuyện.
"đang khi Ma-ri và Giô-sép ở tại thành Bết-lê-hem"
"đã đến lúc nàng sanh con trẻ"
Cụm từ nầy có thể được dịch là “lấy chăn bọc con mình lại hay "quấn chăn quanh Ngài". Hành động nầy là cách bày tỏ tình cảm và mối quan tâm dành coh con trẻ mới sanh.
Đây là kiểu thùng hoặc khung nào đó, mà người ta đựng cỏ khô hoặc những thức ăn khác dùng cho động vật. Máng nầy thì sạch sẽ, có thể lót cỏ khô mềm và khô ở trong để làm đệm cho con trẻ. Người ta thường nhốt gia súc gần nhà để canh chừng và cho chúng ăn dễ dàng. Hình như Ma-ri và Giô-sép ở trong một cái chuồng dành cho gia súc.
“họ không kiếm được chỗ trong phòng trọ.” Đây chắc chắn là vì có quá nhiều người đến Bết-lê-hem để đăng ký. Lu-ca thêm vào câu này để làm thông tin bối cảnh.
“một thiên sứ do Chúa sai đến” hoặc “một thiên sứ phục vụ Chúa”
"đến với các mục tử"
Cụm từ nầy chỉ về ánh sáng chói lòi vây quanh Chúa cũng vây quanh thiên sứ.
"Đừng sợ hãi nữa"
"vì ta đem tin tức tốt lành đến cho các ngươi" hay "ta sẽ thuật cho các ngươi biết tin tức tốt lành"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "tin lành ấy sẽ khiến muôn dân vui mừng khôn xiết."
Có người hiểu cụm từ nầy đề cập đến dân Do thái. Nhiều người khác lại hiểu cụm từ nầy đề cập đến mọi dân.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "tại Bết-lê-hem, thành của Đa-vít"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "Đức Chúa Trời sẽ ban cho các ngươi dấu hiệu nầy" hay "các ngươi sẽ thấy dấu hiệu nầy ra từ Đức Chúa Trời"
Có thể là dấu lạ chứng minh mọi điều thiên sứ nói là thật, hoặc có thể là dấu hiệu giúp những người chăn chiên có thể nhận ra con trẻ. Từ nầy có thể được dịch là “bằng chứng” cho phù hợp với ý thứ nhất, hoặc “dấu để phân biệt” cho ý thứ hai.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "con trẻ được quấn trong cái chăn"
Tham khảo cách dịch ở LUK02:06
Từ “đoàn thiên binh” ở đây có thể nói đến đoàn thiên sứ về nghĩa đen, hoặc có thể đó là phép ẩn dụ nói đến một nhóm các thiên sứ có tổ chức. Tham khảo: “một đoàn thiên sứ từ trời” (UDB).
Cụm từ nầy có thể được dịch là "họ ngợi khen Đức Chúa Trời"
Có thể hiểu: 1) "Quy vinh hiển cho Đức Chúa Trời trên nơi chí cao" hoặc 2) "Dâng sự vinh hiển cao trọng nhất cho Đức Chúa Trời"
"những người Đức Chúa Trời đẹp lòng dưới đất đều được bình an"
Cụm từ này được dùng để đánh dấu một sự chuyển đổi trong câu chuyện sang việc các mục đồng làm sau khi các thiên sứ đã lìa họ lên trời.
"lìa mấy gã chăn chiên"
"cùng nhau"
Vì những người chăn chiên đang bàn tán với nhau, nên phải sử dụng đại từ bao quát “chúng ta”.
"Chúng ta nên" (UDB)
Cụm từ này nói đến việc con trẻ được sinh ra, chứ không phải sự xuất hiện của các thiên sứ.
Tham khảo cách dịch ở LUK02:06
Từ “như vậy” nói đến con trẻ.
"những người chăn chiên thuật lại cho mọi người nghe"
"Con Trẻ"
"chuyện những người chăn chiên kể cho mình nghe”
Cụm từ nầy có thể được dịch là "cẩn thận ghi nhớ mọi điều" hay "mừng rỡ ghi nhớ mọi điều". Kho báu là những vật rất có giá trị hoặc rất quí giá. Ma-ri coi những chuyện người chăn chiên thuật lại về con mình là vô cùng quý giá.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "trở về chỗ bầy chiên"
Đây là những hành động rất giống nhau và nhấn mạnh đến cảm nhận phấn khởi của họ về việc Đức Chúa Trời đã làm. Tham khảo: “nói và ngợi khen sự cao cả của Đức Chúa Trời.”
Luật pháp mà Đức Chúa Trời ban cho những người theo Do Thái giáo là phải cắt bì cho bé trai và cha mẹ phải dâng của lễ.
Cụm từ này cho thấy một khoảng thời gian trôi qua trước khi đến sự kiện này.
“được tám ngày sau khi con trẻ được sanh ra” hoặc “con trẻ được tám ngày tuổi”
Giô-sép và Ma-ri đặt tên cho con trẻ.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "tên mà thiên sứ đã gọi Ngài"
Câu này cho thấy khoảng thời gian trôi qua trước sự kiện mới này.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "số ngày mà Đức Chúa Trời đã định"
"để họ được tinh sạch về mặt nghi thức" hay "để Đức Chúa Trời nhận định họ đã được tinh sạch lại”
"để họ được tinh sạch về mặt nghi thức" hay "để Đức Chúa Trời nhận định họ đã được tinh sạch lại”.Đây là buổi lễ cảm tạ Chúa đối với những đứa con đầu lòng là con trai.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "Họ như vậy vì Môi-se đã chép"
"đầu lòng" là một thành ngữ nói đến con đầu tiên được sinh ra. Từ này nói đến cả động vật và con người. Tham khảo: “Mỗi con đầu lòng là con trai” hoặc “mỗi con trai đầu lòng
Câu này có thể được viết ở dạng chủ động. Tham khảo: “ngươi phải biệt riêng” hoặc “ngươi phải dành riêng”.
“theo như luật pháp của Chúa.” Đây là một điểm khác trong luật pháp. Điểm này nói đến tất cả con trai, dù là con đầu lầu hay không.
Khi Ma-ri và Giô-sép đang ở đền thờ, họ gặp hai người: Si-mê-ôn, là người ngợi khen Đức Chúa Trời và nói tiên tri về con trẻ, và nữ tiên tri An-ne.
Từ “lúc ấy” báo hiệu về một người mới trong câu chuyện. Trong ngôn ngữ của dịch giả, có thể có cách để diễn đạt điểm này.
Các từ trừu tượng này có thể được diễn tả như hành động. Tham khảo: “làm những việc vừa lòng Chúa và vâng theo luật pháp Ngài.”
Đây là một danh xưng khác dành cho Đấng Mê-si-a hoặc “Chúa Cứu Thế.” Tham khảo: “Đấng sẽ an ủi dân Y-sơ-ra-ên”
"Đức Thánh Linh ở cùng Ngài". Đức Chúa Trời ở cùng Ngài trong một phương thức đặc biệt, và ban cho Ngài sự khôn ngoan và cũng như hướng dẫn đời sống Ngài.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "Đức Thánh Linh đã tỏ ra cho người" hay "Đức Thánh Linh đã bảo người".
Cụm từ nầy có thể được dịch là "ông sẽ thấy Chúa Cứu Thế của Chúa trước khi qua đời” hoặc "người sẽ thấy Chúa Cứu Thế rồi mới qua đời”. Từ "Chúa" ở đây chỉ về Đức Chúa Trời.
Từ này giới thiệu một sự kiện mới.
Từ nầy có thể được dịch là "vào"
"vào sân đền thờ". Chỉ những thầy tế lễ có thể vào trong đền thờ.
"được hướng dẫn bởi Đức Chúa Trời". Tham khảo cách dịch: "Đức Thánh Linh hướng dẫn người"
"cha mẹ của Chúa Giê-xu"
"luật pháp của Đức Chúa Trời quy định"
“ẵm con trẻ"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "Tôi là tôi tớ Chúa. Xin cho tôi qua đời bình an". Si-mê-ôn đang nói về mình.
Cách nói giảm nói tránh của từ "chết"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "như Ngài đã phán" hay "vì Ngài phán sẽ"
Cách diễn đạt này có nghĩa, “Chính con đã thấy” hoặc “Tự con đã thấy”
Cụm từ nầy nói về Chúa Giê-xu, là Đấng mà Đức Chúa Trời sẽ nhờ Ngài mà cứu rỗi nhân loại.
Tùy vào cách dịch giả dịch cụm từ trước, cụm từ này có thể cần được đổi thành “người mà Ngài”.
"đã định" hay "khiến xảy ra"
"để các mọi dân sẽ nhìn thấy"
Phép ẩn dụ này có nghĩa là con trẻ ấy sẽ giúp dân sự nhìn thấy và hiểu cách sự sáng giúp họ thấy chính xác. Tham khảo: “con trẻ này sẽ giúp dân sự thông hiểu như ánh sáng giúp con người thấy chính xác.”
Cần thiết nói rõ điều gì được bày tỏ. Tham khảo: “đặng sẽ bày tỏ lẽ thật của Chúa.”
Cụm từ nầy có thể dịch thành "Ngài là cớ để sự vinh hiển đến trên Y-sơ-ra-ên, tức dân sự Ngài".
Câu này có thể được nói ở thể chủ động. Tham khảo: “những lời Si-mê-ôn đã nói về Ngài.”
“nói với mẹ đứa trẻ, là Ma-ri”. Hãy đảm bảo là cách dịch này không khiến độc giả nghĩ Ma-ri là mẹ của Si-mê-ôn.
Si-mê-ôn dùng cách diễn đạt này để nói cho Ma-ri biết rằng lời mà ông sắp nói là cực kỳ quan trọng với bà.
Cụm từ nầy có thể dịch thành: “đã được định để khiến nhiều người trong Y-sơ-ra-ên vấp ngã xa khỏi Đức Chúa Trời hoặc dấy lên gần gũi với Đức Chúa Trời hơn”. Trong cách nói ẩn dụ nầy, vấn đề xây khỏi Đức Chúa Trời và kéo đến gần Ngài hơn được diễn đạt thành "vấp ngã” và “dấy lên”. Cụm từ nầy có thể được dịch là "Đức Chúa Trời đã chỉ định Ngài để khiến một vài người trong Y-sơ-ra-ên xây bỏ Đức Chúa Trời và những người khác thì đến gần với Đức Chúa Trời hơn".)
“vì có một sự điệp từ Đức Chúa Trời mà nhiều người sẽ chống nghịch”
Ẩn dụ nầy mô tả nỗi đau buồn khôn xiết mà Ma-ri sẽ trải qua. Cụm từ nầy có thể được dịch là "ngươi sẽ chịu đau buồn khôn xiết" hay "Nỗi đau buồn sẽ khiến ngươi đau đớn như thể một thanh gươm đâm thấu tim ngươi vậy" hay "lòng ngươi sẽ tan vỡ".
Cụm từ nầy có thể được dịch là "tư tưởng của nhiều người sẽ phải lộ ra" hay "việc ấy sẽ bày tỏ ra những điều người ta thực sự nghĩ về Đức Chúa Trời"
Câu này giới thiệu nhân vật mới trong câu chuyện.
"cũng có mặt ở sân đền thờ"
Đây là tên của một người nam.
Thành ngữ này có nghĩa là “rất già”.
"7 năm"
"sau khi bà đã kết hôn cùng chồng"
84 năm – Có thể hiểu: 1) bà đã là goá phụ trong 84 năm hay 2) bà là goá phụ và giờ đây đã 84 tuổi
Có lẽ đây là cách nói quá, nhằm ý bà đã dành rất nhiều thời gian trong đền thờ đến nỗi tưởng như bà chẳng hề rời khỏi đó. Cụm từ nầy có thể được dịch là "luôn ở trong đền thờ" hay có thể diễn đạt: "thường xuyên có mặt tại đền thờ"
"bằng sự kiêng ăn và sự cầu nguyện"
"approached them" or "went to Mary and Joseph"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "Ngài là Đấng sẽ cứu chuộc Giê-ru-sa-lem" hay "Đấng sẽ đem phước hạnh, ân điển của Đức Chúa Trời trở lại cùng Giê-ru-sa-lem". Ở đây cụm từ “sự cứu chuộc" được dùng đề chỉ về Đấng sẽ thực hiện công việc ấy.
Ma-ri, Giô-sép và Chúa Giê-su rời thành phố Bết-lê-hem và trở về thành Na-xa-rét để sinh sống.
Câu này có thể được nói ở thể chủ động. Tham khảo: “mà luật pháp của Chúa yêu cầu họ phải thực hiện.”
Cụm từ này có nghĩa là họ sống ở Na-xa-rét. Hãy đảm bảo là cụm từ này không khiến độc giả nghĩ rằng họ sở hữu thành phố này.
"ngày càng khôn ngoan" hay "học biết những điều khôn ngoan"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "Đức Chúa Trời chúc phước cho Ngài" hay "Đức Chúa Trời ở với Ngài theo phương thức đặc biệt"
Khi Chúa Giê-xu được 12 tuổi, Ngài đi cùng với gia đình Ngài lên thành Giê-ru-sa-lem. Đang khi Ngài ở đó, Ngài chất vấn và trả lời câu hỏi của các giáo sư trong đền thờ.
Đây là thông tin ngữ cảnh.
"cha mẹ của Chúa Giê-xu"
Thành Giê-ru-sa-lem nằm trên một ngọn đồi, vì vậy dân sự phải đi lên đó.
"như thường lệ” hoặc “như họ làm hàng năm”
"khi các ngày lễ qua rồi" hay "sau khi tổ chức lễ theo số ngày đã định rồi”
Đây là một tên khác của Lễ Vượt Qua, vì nó bao gồm việc ăn một bữa ăn theo nghi lễ.
"họ tưởng"
"họ đi trót một ngày" hay "họ đã đi được một ngày đường"
Cụm từ này được dùng để đánh dấu một sự kiện quan trọng trong câu chuyện. Nếu ngôn ngữ của dịch giả có cách diễn đạt này, hãy xem xét sử dụng theo cách đó.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "trong sân đền thờ" hay "tại đền thờ"
Từ này không có nghĩa là ở ngay trung tâm. Đúng hơn là, "trong vòng" hay "cùng với" hoặc "ở giữa...".
"các giáo sư trong đền thờ" hay "những người dạy về Đức Chúa Trời cho dân sự"
Họ không thể hiểu làm sao mà một cậu bé mười hai tuổi chưa từng được dạy về tôn giáo lại có thể trả lời rất hay vậy.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "về việc Ngài hiểu biết nhiều như thế" hay "vì Ngài hiểu biết nhiều về Đức Chúa Trời"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "về cách đối đáp khôn ngoan của Ngài" hay "Ngài trả lời suông sẻ mọi thắc mắc của họ"
"Khi Ma-ri và Giô-sép tìm thấy Chúa Giê-xu"
Đây là danh hiệu quan trọng dành cho Đức Chúa Trời.
Cụm từ nầy có thể dịch là "Sao con có thể làm vậy?". Có thể gọi đây là lời quở trách gián tiếp vì Chúa Giê-xu đã không cùng trở về cùng cha mẹ mình.
Từ này thường được dùng để biểu thị phần mở đầu của một sự kiện mới hoặc quan trọng. Từ này cũng có thể được dùng để cho biết hành động đó bắt đầu từ đâu. Nếu ngôn ngữ của dịch giả có một cụm từ được dùng theo cách này, hãy xem xét liệu cụm từ đó có thể được sử dụng tự nhiên ở đây không.
Chúa Giê-xu đáp lại hai câu hỏi từ sự khiển trách của cha mẹ, và Ngài bắt đầu nói về mục đích thiên thượng của Đức Chúa Cha trên Trời nhưng họ không hiểu.Cụm từ nầy có thể dịch là "Sao cha và mẹ cứ đi mấy chỗ khác tìm con làm chi?"
Chúa Giê-xu đặt câu hỏi lần thứ nhì này để cố gắng nói rằng cha mẹ Ngài lẽ ra nên biết về mục đích mà Cha Ngài đã sai Ngài đến. Tham khảo: “Cha mẹ lẽ ra nên biết…nhà.”
Khi được 12 tuổi, Chúa Giê-xu, Con Đức Chúa Trời, hiểu rằng Đức Chúa Trời là Cha thật sự của Ngài (không phải Giô-sép, chồng của Ma-ri).
Có thể hiểu: 1) "tại nhà Cha con" hay 2) "về việc Cha con”. Dù là trường hợp nào đi nữa thì khi Chúa Giê-xu phán: "Cha con" ấy là Ngài đang nói về Đức Chúa Trời. Nếu Ngài có ý nói "nhà", thì Ngài đang đề cập tới đền thờ. Nếu Ngài nói tới "việc" thì là Ngài đang đề cập đến công việc mà Đức Chúa Trời giao cho mình. Nhưng nếu câu tiếp theo cho thấy cha mẹ Ngài không hiểu những điều Ngài đang nói cùng mình thì tốt nhất là không giải thích gì thêm.
"Chúa Giê-xu theo Ma-ri và Giô-sép trở về nhà"
"vâng phục cha mẹ” hoặc “luôn vâng phục họ”
"ghi nhớ cẩn thận mọi việc nầy" hoặc "vui mừng khi nghĩ về mọi việc nầy". Kho báu là vật gì đó rất có giá trị hoặc quý giá. Ma-ri xem mọi việc làm cũng như mọi lời nói của con mình là quý giá vô cùng.
"ngày càng khôn ngoan và mạnh khoẻ hơn".Ý này nói về sự tăng trưởng vật lý.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "mọi người càng ngày càng yêu quý Ngài, còn Đức Chúa Trời thì ban phước cho Ngài càng hơn"
Giô-sép và Ma-ri đến thành Bết-lê-hem vì Giô-sép là dòng dõi của Đa-vít.
Thiên sứ hiện ra với mấy gã chăn chiên đang chăn giữ bầy chiên của họ.
Mấy gã chăn chiên đến thành Bết-lê-hem để gặp con trẻ mới ra đời.
Chúa Giê-xu chịu phép cắt bì vào ngày thứ tám sau khi ra đời.
Họ đem Ngài lên đền thờ để dâng Ngài cho Đức Giê-hô-va và dâng của lễ, là điều đã được truyền dạy trong luật pháp Môi-se.
Ngài chịu luỵ cha mẹ.
1 Năm thứ mười lăm dưới triều Sê-sa Ti-be-rơ, trong khi Bôn-xơ Phi-lát làm tổng đốc xứ Giu-đê, Hê-rốt làm vua chư hầu xứ Ga-li-lê, em trai ông là Phi-líp làm vua chư hầu Xứ Y-tu-rê và Tra-cô-nít, Ly-sa-ni-a làm vua chư hầu xứ A-bi-len; 2 trong thời gian An-ne cùng Cai-phe giữ chức thầy tế lễ thượng phẩm, có lời Đức Chúa Trời đến với Giăng, con trai Xa-cha-ri, trong hoang mạc. 3 Ông đi khắp các vùng quanh sông Giô-đanh, rao giảng phép báp-têm về sự ăn năn để được tha tội. 4 Như lời đã chép trong sách tiên tri Ê-sai: “Có tiếng người kêu lên trong hoang mạc: ‘Hãy dọn đường cho Chúa, làm thẳng các lối Ngài. 5 Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ được san phẳng, những lối cong quẹo sẽ được sửa cho ngay, và đường gập ghềnh sẽ được ban bằng. 6 Mọi người sẽ thấy sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời.’” 7 Vì thế, Giăng nói với đoàn dân đến để chịu ông làm báp-têm rằng: “Hỡi dòng giống rắn độc kia, ai đã cảnh báo để người biết mà chạy trốn cơn thịnh nộ sắp đến? 8 Hãy kết quả xứng đáng với sự ăn năn, và đừng tự nhủ: ‘Tổ phụ của chúng ta là Áp-ra-ham,’ vì tôi cho các người hay Đức Chúa Trời có thể biến những hòn đá này thành con cháu của Áp-ra-ham. 9 Cái rìu đã đặt kề gốc cây. Cây nào không sinh trái tốt thì phải bị đốn và quăng vào lửa.” 10 Dân chúng hỏi Giăng: “Vậy, chúng tôi phải làm gì?” 11 Ông đáp: “Ai có hai áo, hãy cho người không có; ai có thức ăn, cũng hãy làm như vậy.” 12 Một số người thu thuế cũng đến để chịu báp-têm và hỏi Giăng: “Thưa thầy, chúng tôi phải làm gì?” 13 Ông đáp: “Đừng thu hơn mức quy định.” 14 Một số binh lính cũng hỏi: “Còn chúng tôi thì sao? Chúng tôi phải làm gì?” Ông nói với họ: “Đừng dùng vũ lực chiếm đoạt tiền của người khác, cũng đừng vu khống ai. Hãy bằng lòng với đồng lương của mình.” 15 Vì bấy giờ dân chúng đều đang nóng lòng trông đợi Đấng Cứu Thế đến, nên ai cũng tự hỏi không biết Giăng có phải chăng. 16 Giăng trả lời mọi người: “Về phần tôi, tôi làm báp-têm cho anh em bằng nước, nhưng Đấng sắp đến có quyền năng hơn tôi, tôi không xứng đáng tháo dây giày cho Ngài. Ngài sẽ làm báp-têm cho anh em bằng Đức Thánh Linh và bằng lửa. 17 Tay Ngài cầm chỉa rê thật sạch sân lúa mình, và thâu lúa mì vào kho. Còn rơm rạ thì Ngài sẽ đốt sạch trong lửa chẳng bao giờ tắt.” 18 Giăng cũng dùng nhiều lời khuyên dạy khác để rao giảng tin lành cho dân chúng. 19 Ông cũng quở trách vua chư hầu Hê-rốt vì đã lấy vợ của em mình là Hê-rô-đia, và vì nhiều việc gian ác khác mà vua đã làm. 20 Nhưng Hê-rốt lại làm một việc độc ác khác nữa là bỏ tù Giăng. 21 Trong khi mọi người được Giăng làm báp-têm cho thì Chúa Giê-xu cũng chịu báp-têm. Lúc Ngài đang cầu nguyện thì trời mở ra. 22 Đức Thánh Linh ngự xuống trên Ngài qua hình dạng giống như chim bồ câu, đồng thời có tiếng từ trời phán rằng: “Con là Con yêu dấu của Ta. Ta rất hài lòng về Con.” 23 Khi Đức Chúa Giê-xu bắt đầu dạy dỗ thì Ngài được khoảng ba mươi tuổi. (Người ta cho rằng) Ngài là con trai của Giô-sép, con Hê-li. 24 Hê-li con Mát-tát. Mát-tát con Lê-vi. Lê-vi con Mên-chi. Mên-chi con Gia-nê. Gia-nê con Giô-sép. 25 Giô-sép con Ma-ta-thia. Ma-ta-thia con A-mốt. A-mốt con Na-hum. Na-hum con Ếch-li. Ếch-li con Na-ghê. 26 Na-ghê con Ma-át. Ma-át con Ma-ta-thia. Ma-ta-thia con Sê-mê-in. Sê-mê-in con Giô-sếch. Giô-sếch con Giô-đa. 27 Giô-đa con Giô-a-nan. Giô-a-nan con Rê-sa. Rê-sa con Xô-rô-ba-bên. Xô-rô-ba-bên con Sa-la-thi-ên. Sa-la-thi-ên con Nê-ri. 28 Nê-ri con Mên-chi. Mên-chi con A-đi. A-đi con Cô-sam. Cô-sam con Ên-ma-đan. Ên-ma-đan con Ê-rơ. 29 Ê-rơ con Giô-suê. Giô-suê con Ê-li-ê-se. Ê-li-ê-se con Giô-rim. Giô-rim con Mát-thát. Mát-thát con Lê-vi. 30 Lê-vi con Si-mê-ôn. Si-mê-ôn con Giu-đa. Giu-đa con Giô-sép. Giô-sép con Giô-nam. Giô-nam con Ê-li-a-kim. 31 Ê-li-a-kim con Mê-lê-a. Mê-lê-a con Men-na. Men-na con Mát-ta-tha. Mát-ta-tha con Na-than. Na-than con Đa-vít. 32 Đa-vít con Gie-sê. Gie-sê con Ô-bết. Ô-bết con Bô-ô. Bô-ô con Sanh-môn. Sanh-môn con Na-ách-son. 33 Na-ách-son con A-mi-na-đáp. A-mi-na-đáp con Át-min. Át-min con A-rơ-ni. A-rơ-ni con Ếch-rôm, Ếch-rôm con Pha-rê. Pha-rê con Giu-đa. 34 Giu-đa con Gia-cốp. Gia-cốp con Y-sác. Y-sác con Áp-ra-ham. Áp-ra-ham con Tha-rê. Tha-rê con Na-cô. 35 Na-cô con Sê-rúc. Sê-rúc con Rê-hu. Rê-hu con Bê-léc. Bê-léc con Hê-be. Hê-be con Sa-la. 36 Sa-la con Cai-nam. Cai-nam con A-bác-sát. A-bác-sát con Sem. Sem con Nô-ê. Nô-ê con Lê-méc. 37 Lê-méc con Mê-tu-sê-la. Mê-tu-sê-la con Hê-nóc. Hê-nóc con Giê-rệt. Giê-rệt con Ma-ha-la-ên. Ma-ha-la-ên con Kê-nan. 38 Kê-nan con Ê-nót. Ê-nót con Sết. Sết con A-đam. A-đam con Đức Chúa Trời.
Như tiên tri Ê-sai đã tiên tri, Giăng bắt đầu rao giảng tin lành cho dân chúng.
Các câu này chứa thông tin bối cảnh để thuật lại điều xảy ra khi người anh họ Ngài là Giăng bắt đầu chức vụ mình.
Cụm từ nầy đánh dấu một phần mới của câu chuyện.
Tham khảo: Thời gian trong Kinh Thánh
Đây là tên của hai người đàn ông.
Tên gọi của của một số vùng lãnh thổ.
Hai người nầy cùng phục vụ với chức vụ thầy tế lễ thượng phẩm. An-ne là thầy lễ thượng phẩm, và người Do Thái vẫn tiếp tục thừa nhận ông mặc dù sau đó người La-mã bổ nhiệm con rể ông là Cai-phe thay thế vị trí của ông.
Danh từ “báp-tem” và “sự ăn năn” được định như những hành động. Cụm từ nầy có thể được dịch là "giảng dạy mọi người phải chịu báp-têm để tỏ lòng ăn năn về tội lỗi mình".
"để tội lỗi họ sẽ được tha" hay "để Đức Chúa Trời sẽ tha tội cho họ". Ăn năn để được tha tội.
Trước giả Lu-ca trích một phân đoạn mà tiên tri Ê-sai đã nói về Giăng Báp-tít.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "Việc nầy xảy đến như lời tiên tri Ê-sai đã chép" hay "Giăng làm ứng nghiệm những lời tiên tri Ê-sai đã chép". Các câu 4-6 trưng dẫn từ sách tiên tri Ê-sai
Phần nầy viết theo phong cách thi ca của người Do Thái, thường dùng những từ giống nhau để lặp đi lặp lại các cụm từ quan trọng. Vì thể mà cụm từ "Hãy dọn sẵn đường Chúa" chính là một cách nói khác của "Làm thẳng các lối Ngài".
Ẩn dụ con đường ý nói "Hãy ăn năn và sẵn sàng cho ngày Cứu Chúa đến"
"con đường" hoặc “nẻo đường”
Hình ảnh về con đường này cùng là ẩn dụ với ý nghĩa: "Phải luôn ở tư thế sẵn sàng để đón Chúa ngự đến"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "Họ sẽ lấp đầy mọi chỗ trũng trên đường”. Khi dọn đường để đón một nhân vật quan trọng sắp đến, người ta sẽ dùng đất lấp đầy những chỗ thấp để con đường được bằng phẳng. Đây là một phần trong ẩn dụ đã được nói đến trong câu trước.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "Họ sẽ lấp đầy mọi chỗ trũng trên đường”. Khi dọn đường để đón một nhân vật quan trọng sắp đến, người ta sẽ dùng đất lấp đầy những chỗ thấp để con đường được bằng phẳng. Đây là một phần trong ẩn dụ đã được nói đến trong câu trước.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "Người ta sẽ ban bằng mọi đồi núi" hay "Người ta sẽ ban bằng mọi chỗ gồ lên trên đường"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "học biết cách Đức Chúa Trời cứu dân sự ra khỏi tội lỗi"
"để Giăng làm phép báp-têm cho họ"
Đây là một ẩn dụ. Những loài rắn độc rất nguy hiểm và chúng đại diện cho sự gian ác. Cụm từ nầy có thể được dịch là "Hỡi các ngươi là loài rắn độc!" hay "Các ngươi gian ác như loài rắn độc"
Cụm từ nầy bắt đầu cho một câu hỏi tu từ. Thực ra, Giăng đang quở trách dân sự vì một mặt dân sự đòi ông làm phép báp-têm cho mình để khỏi bị Đức Chúa Trời hình phạt, nhưng mặt khác họ lại cứ phạm tội. Câu hỏi nầy có thể được dịch là: "Các ngươi chẳng thể nào tránh khỏi cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời bằng cách nầy đầu" hay "Các ngươi cho rằng chỉ cần chịu phép báp-têm là có thể tránh khỏi cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời sao?"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "khỏi án phạt sắp xảy đến" hay "khỏi cơn thạnh nộ sắp đến của Đức Chúa Trời" hoặc "vì Đức Chúa Trời sắp sửa hình phạt các ngươi". Cụm từ "cơn thạnh nộ" được dùng để nói về sự hình phạt của Đức Chúa Trời, vì cơn thạnh nộ Ngài đi trước rồi sẽ tới sự hình phạt.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "Hãy kết quả thể nào để chứng tỏ các ngươi đã săn năn" hay "Hãy làm ra những việc lành tỏ ra rằng các ngươi đã xây khỏi tội lỗi mình". Trong ẩn dụ nầy, cách xử xự của một người được ví sánh với quả. Giống như một cái cây sẽ phải ra trái phù hợp với giống của nó, thì một người tuyên bố mình đã ăn năn khỏi tội lỗi cũng phải sống một đời sống công chính.
"nhủ thầm" hay "nói thầm" hoặc "tưởng"
"Áp-ra-ham là tổ phụ chúng ta" hay "Chúng ta là dòng dõi của Áp-ra-ham". Nếu không hiểu rõ lý do tại sao họ lại nói vậy thì bạn có thể them thông tin ngầm hiểu vào: “như vậy Đức Chúa Trời sẽ không hình phạt chúng ta".
Thành ngữ này có nghĩa “sanh ra những đứa con của Áp-ra-ham” hoặc “khiến nhiều người trở nên dòng dõi của Áp-ra-ham”
Chắc chắn Giăng đang nói đến những hòn đá nằm dọc Sông Giô-đanh.
Ẩn dụ nầy có ý nói rằng án phạt sắp sửa bắt đầu. Cụm từ nầy có thể được dịch là "Giống như thể cái búa đã để kề gốc cây" hay "Đức Chúa Trời giống như một người kia đã kề búa mình nơi gốc cây"
Đây là một mệnh đề bị động. Cụm từ nầy có thể được dịch thành một mệnh để chủ động: "Ngài sẽ đốn hạ những cây nào không cho trái tốt”
“lửa” ẩn dụ cho sự trừng phạt.Cụm từ nầy có thể được dịch thành mệnh để chủ động "quăng nó vào lò lửa".
Giăng bắt đầu trả lời các câu hỏi mà những người trong đám đông hỏi ông.
"hỏi ông và nói" hay “hỏi Giăng"
"trả lời họ, mà rằng" hoặc "trả lời cho họ" hoặc "nói"
"làm y như vậy". Cụm từ nầy có thể được dịch là "ban phát đồ ăn cho người nào không có ".
"để Giăng đã làm phép báp-têm cho họ"
"Đừng đòi thêm tiền" hay "Dừng ngay việc thu nhiều tiền hơn”. Những người thu thuế nầy đang thu tiền nhiều hơn so với mức quy định. Họ phải thôi làm như thế để làm bằng chứng cho sự ăn năn của mình.
Mệnh đề này ở thể bị động chỉ ra mức thu thuế đến từ chính quyền La-Mã."Mức các anh đã được La-Mã ban quyền để thu”
"những người đàn ông phục vụ trong quân đội"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "Ông đã dạy cho đoàn dân đông và những người thu thuế biết điều họ phải làm. Còn chúng tôi là những binh lính phải làm gì?" Cụm từ “chúng tôi” không bao gồm Giăng.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "Cũng vậy, đừng vu khống ai để lấy tiền của họ" hoặc "Đừng vu cáo một người vô tội đã làm một việc gì đó bất hợp pháp". Những người lính nầy đang đưa giả những lời buộc tội không đúng với nhiều người hòng đoạt tiền của họ”
"Hãy bằng lòng về tiền công của mình” hoặc “Hãy bằng lòng với những điều mình được trả công"
Cụm từ nầy cũng nói đến những người đã đến với Giăng lúc đó. Có thể dịch là "vì những người đó".
"Ta dùng nước làm phép báp-têm" hoặc “Ta làm phép báp-têm bằng nước"
Có thể dịch là "thậm chí không đủ quan trọng để tháo dây giày Ngài". Mở dây giày là bổn phận của những người nô lệ. Giăng đang nói rằng Đấng sắp ngự đến cao trọng đến nỗi Giăng thậm chí còn không xứng đáng để làm nô lệ cho người.
"giày" hay "dép" hoặc "dép da"
Ẩn dụ nầy so sánh phép báp-têm thường thấy dìm một người trong nước với phép báp-têm thuộc linh đem con người vào mối liên hệ với Đức Thánh Linh và lửa.
Ở đây điều nầy đề cập đến quyền phép của Đức Chúa Trời.
Như một người nông dân sẵn sàng tách lúa mì khỏi trấu, thì Chúa Cứu Thế cũng sẵn sàng đoán xét con người. Tham khảo: “Tay Ngài đang cầm chỉa vì Ngài sẵn sàng.”
Loại công cụ dùng để hất đống lúa mì lên không để tách hạt lúa ra khỏi rơm rạ. Những hạt lúa nặng hơn sẽ rơi ngược xuống đất còn số vỏ trấu hoặc rơm rạ không cần đến sẽ bị gió thổi đi. Nó cũng giống với cái chĩa ba.
Tham khảo cách dịch: "nền đất của mình" hay "nền đất nơi Ngài phân lúa ra khỏi rơm rạ"
Cụm từ nầy có thể được dịch là “Đoạn, Ngài sẽ thu lúa”
Rơm rạ không dùng được cho việc gì, nên người ta sẽ đem nó đi đốt.
Câu chuyện thuật lại sự việc sẽ xảy ra với Giăng nhưng hiện tại thì chưa xảy ra.
"dùng nhiều lời thúc giục khác”
"lên án vua chư hầu Hê-rốt rằng vua đã phạm tội”. Hê-rốt chỉ là một vua chư hầu, chớ không phải vua thật sự. Ông chỉ được giới hạn cai trị vùng Ga-li-lê mà thôi.
"vì Hê-rốt đã cứu vợ của em ruột mình"
"Vua sai binh lính bắt Giăng bỏ vào ngục"
Chúa Giê-xu bắt đầu chức vụ của Ngài bằng việc chịu báp-têm.
Ở đây, từ nầy được sử dụng ở đây để mở đầu một phần mới của câu chuyện. Nếu ngôn ngữ bạn dùng có cách giới thiệu khác thì bạn nên xem xét áp dụng ở đây.
Cụm từ "hết thảy dân chúng" chì về những người đang ở cùng với Giăng. Cụm từ nầy có thể được dịch là "khi Giăng đang làm phép báp-têm cho mọi người".
Cụm từ nầy có thể được dịch là "Giăng cũng đã làm phép báp-têm cho Chúa Giê-xu"
"bầu trời mở ra". Vệc nầy không chỉ đơn thuần là các đám mây biến mất, nhưng nếu vậy sẽ không làm rõ được ý nghĩa của nó. Có lẽ câu này nhằm ý có một lổ hỗng xuất hiện trên bầu trời.
"Đức Thánh Linh ngự xuống trên Chúa Giê-xu"
"trong hình dáng như chim bồ câu"
Đức Chúa Cha phán với “Con yêu dấu Ngài” là Chúa Giê-xu, Đức Chúa Con, đang khi Đức Thánh Linh ngự trên Ngài. Ba Ngôi Đức Chúa Trời đồng yêu thương nhau và làm việc với nhau là Cha, Con, và Thánh Linh.
Đây là một danh hiệu quan trọng dành cho Chúa Giê-xu, Con Đức Chúa Trời.
Lu-ca liệt kê các tổ phụ của Chúa Giê-xu qua dòng dõi của cha về phần xác của Ngài, là Giô-sép.
Ở đây, từ nầy được dùng để đánh dấu sự thay đổi sang phần thông tin bối cảnh nói về thời của Chúa Giê-xu và tổ tiên của Ngài. Phần nầy kết thúc ở Lu-ca 3:37. Nếu ngôn ngữ bạn dùng có cách để thông báo cho người đọc biết tiếp theo sẽ là thông tin bối cảnh thì nên dùng ở đây.
"Giê-xu nầy" hay "con người Giê-xu nầy"
Tham khảo cách dịch: "30 tuổi"
"Người ta biết đến Ngài là con Giô-sép" hay "Người ta nghĩ rằng Ngài là con của Giô-sép" hay "Người ta cho rằng Ngài là con của Giô-sép"
Từ “con” là thông tin ngầm hiểu. Về câu chữ, thì phân đoạn nầy chỉ đưa ra "của Hê-li, của Mát-tát, của Lê-vi…" nhưng bảng liệt kê này có thể được dịch thành "ông là con của Hê-li, Hê-li là con của Mát-tát, Mát-tát là con của Lê-vi…" hoặc "Giô-sép con Hê-li, Hê-li con Mát-tát, Mát-tát con Lê-vi" hay "cha của Hê-li là Mát-tát, cha của Mát-tát là Lê-vi …" Hãy xem xét cách người ta thường dùng để liệt kê gia phả trong ngôn ngữ của bạn rồi có thể áp dụng cho toàn bộ bảng liệt kê ở đây.
Một số dịch giả lại bắt đầu một câu với "Giô-sép là con của Hê-li" hay "Cha của Giô-sép là Hê-li".
Hãy sử dụng cách dùng từ giống nhau như đã dùng trong các câu trước. Tham khảo: “là con của Ma-ta-thia, con của A-mốt…Giô-đa” hoặc “Giô-sép là con của Ma-ta-thia, Ma-ta-thia là con của A-mốt…Giô-đa” hoặc “Cha của Giô-sép là Ma-ta-thia, cha của Ma-ta-thia là A-mốt…Giô-đa.”
Hãy sử dụng cách dùng từ giống nhau như đã dùng trong các câu trước. Tham khảo: “là con của Giô-a-nan, con của Rê-sa…Lê-vi” hoặc “Giô-đa là con của Giô-a-nan, Giô-a-nan là con của Rê-sa…Lê-vi” hoặc “Cha của Giô-đa là Giô-a-nan, cha của Giô-a-nan là Rê-sa…Lê-vi.” Đây là phần nối tiếp trong danh sách các tổ phụ của Chúa Giê-xu.
Cụm từ nầy có thể được dịch là “...con Si-mê-ôn, Si-mê-ôn con Giu-đa…” hay “Lê-vi con Si-mê-ôn, Si-mê-ôn con Giu-đa…” hoặc “cha của Lê-vi là Si-mê-ôn, cha của Si-mê-ôn là Giu-đa….”. Áp dụng cách diễn dạt như với những câu trước.
Cụm từ nầy có thể được dịch là “...là con của A-mi-na-đáp, A-mi-na-đáp là con của Át-min...” hay “Lê-vi con A-mi-na-đáp, Si-mê-ôn là con của Át-min...” hay “cha của Na-ách-sôn là A-mi-na-đáp, cha của A-mi-na-đáp là Át-min”. Áp dụng cách diễn dạt như với những câu trước.
Cụm từ nầy có thể được dịch là “...con Cai-nam, Cai-nam con A-bác-sát...” hay “Lê-vi là con Cai-nam, Cai-nam là con A-bác-sát...” hay “cha của Sa-la là Cai-nam, cha của Cai-nam là A-bác-sát....”. Áp dụng cách diễn dạt như với những câu trước.
Cụm từ nầy có thể được dịch là: "A-đam được Đức Chúa Trời dựng nên" hay "A-đam là người ra từ Đức Chúa Trời" hoặc "Chúng ta có thể nói A-đam là con Đức Chúa Trời"
Giăng đã giảng phép báp-têm về sự ăn năn để được tha tội.
Giăng nói ông sẵn sàng dọn đường cho Chúa.
Giăng bảo họ phải kết quả xứng đáng với sự ăn năn.
Giăng nói cây ấy phải bị đốn hạ rồi quăng vào lửa.
Sau khi Giăng làm phép báp-têm cho Chúa Giê-xu, các từng trời mở ra và Đức Thánh Linh lấy hình chim bò câu giáng xuống.
Chúa Giê-xu khoảng 30 tuổi khi Ngài bắt đầu dạy dỗ.
1 Rồi Chúa Giê-xu đầy dẫy Đức Thánh Linh từ sông Giô-đanh trở về, Ngài được Đức Thánh Linh đưa vào hoang mạc 2 trong bốn mươi ngày, và chịu ma quỷ cám dỗ tại đó. Suốt thời gian này, Ngài không ăn gì cả nên khi thời gian ấy đã mãn thì Ngài đói. 3 Ma quỷ nói với Ngài: “Nếu ông là Con Đức Chúa Trời thì hãy ra lệnh cho đá này biến thành bánh đi.” 4 Chúa Giê-xu đáp: “Có lời chép: ‘Người ta sống không chỉ nhờ bánh mà thôi.’” 5 Rồi ma quỷ lại đem Ngài lên một nơi cao, chỉ cho Ngài tất cả các vương quốc trên thế gian trong chốc lát. 6 Nó nói với Ngài: “Tôi sẽ cho ông quyền cai trị hết thảy những vương quốc ấy, cùng sự nguy nga, lộng lẫy cặp theo. Tôi có thể làm được điều ấy vì chúng đã được giao cho tôi và tôi muốn cho ai tùy ý. 7 Vậy nếu ông cúi xuống thờ lạy tôi, thì tất cả sẽ là của ông.” 8 Nhưng Chúa Giê-xu trả lời: “Có lời chép: ‘Con phải thờ phượng Chúa là Đức Chúa Trời của con, và chỉ hầu việc một mình Ngài mà thôi.’” 9 Kế đến, ma quỷ đưa Ngài lên Giê-ru-sa-lem, để Ngài trên đỉnh cao nhất của đền thờ và nói: “Nếu ông là Con Đức Chúa Trời, hãy gieo mình xuống đi. 10 Vì có lời chép: ‘Ngài sẽ truyền lệnh cho các thiên sứ Ngài chăm sóc con, bảo vệ con.’ 11 và: ‘Họ sẽ nâng con trên tay, để chân con không vấp phải đá.’” 12 Chúa Giê-xu đáp: “Có lời phán: ‘Ngươi không được thử Chúa là Đức Chúa Trời của ngươi.’” 13 Khi đã cám dỗ Chúa Giê-xu xong, ma quỷ bỏ đi chờ dịp khác. 14 Chúa Giê-xu trở về Ga-li-lê với quyền năng của Thánh Linh, tin đồn về Ngài lan truyền khắp các vùng lân cận. 15 Ngài giảng dạy trong các nhà hội, và mọi người đều khen ngợi Ngài. 16 Một ngày kia Ngài đến thành Na-xa-rét, là nơi Ngài đã lớn lên. Đến ngày Sa-bát, theo thường lệ, Ngài vào đền thờ và đứng dậy đọc Kinh Thánh. 17 Người ta trao cho Ngài cuộn sách tiên tri Ê-sai, Ngài mở sách ra và gặp chỗ chép thế này: 18 “Thần Linh của Chúa ngự trên ta, vì Ngài đã xức dầu cho ta để rao giảng tin lành cho người nghèo. Ngài đã sai ta rao báo sự phóng thích cho kẻ bị giam cầm, khiến kẻ mù được sáng, kẻ bị áp bức được tự do, 19 để rao ra năm thi ân của Chúa.” 20 Rồi Ngài đóng sách lại, trao trả cho nhân viên nhà hội, và ngồi xuống. Tất cả mọi người trong nhà hội đều nhìn Ngài chăm chăm. 21 Ngài nói với họ: “Hôm nay, lời Kinh Thánh mà anh em vừa nghe đã được ứng nghiệm.” 22 Mọi người ở đó đều nghe thấy Ngài nói và họ rất đỗi ngạc nhiên về những lời đầy ân sủng ra từ môi miệng Ngài. Họ bàn tán: “Không phải con trai Giô-sép đây sao?” 23 Chúa Giê-xu nói với họ: “Chắc anh em sẽ dùng câu tục ngữ này để nói với tôi: ‘Ơi này, thầy thuốc, hãy tự chữa cho mình đi. Những việc chúng tôi nghe nói Thầy làm tại Ca-bê-na-um thì Thầy cũng thử làm tại quê nhà mình tại đây đi.’” 24 Ngài nói tiếp: “Tôi nói thật với anh em, không có đấng tiên tri nào được chấp nhận tại quê nhà của mình”. 25 Nhưng tôi bảo thật, vào thời tiên tri Ê-li, khi cả xứ gặp nạn đói lớn vì trời bị đóng chặt, không mưa suốt ba năm rưỡi, lúc ấy trong dân Y-sơ-ra-ên có nhiều quả phụ. 26 Nhưng Ê-li không được sai đến với một người nào trong số họ, mà lại đến với một quả phụ ở Sa-rép-ta, gần thành Si-đôn. 27 Trong thời tiên tri Ê-li-sê, cũng có nhiều người Y-sơ-ra-ên mắc bệnh phong hủi, nhưng chỉ có Na-a-man, một người Sy-ri, được chữa lành.” 28 Nghe những lời ấy, mọi người trong nhà hội hết sức tức giận. 29 Họ đứng dậy bắt Ngài ra ngoài thành và đưa đến chỗ bờ vách của ngọn đồi mà thành phố tọa lạc trên đó, để ném Ngài xuống. 30 Nhưng Ngài đi qua ngay giữa họ mà rời khỏi đó. 31 Rồi Ngài xuống thành Ca-bê-na-um, thuộc miền Ga-li-lê. Vào ngày Sa-bát, Ngài dạy dỗ dân chúng trong nhà hội. 32 Họ rất ngạc nhiên trước sự dạy dỗ của Ngài vì lời Ngài dạy đầy uy quyền. 33 Hôm ấy, trong nhà hội có một người bị uế linh ám, la lớn lên rằng: 34 “Giê-xu Na-xa-rét, chúng tôi có liên quan gì đến Ngài? Ngài đến để hủy diệt chúng tôi sao? Tôi biết Ngài là ai rồi! Ngài là Đấng Thánh của Đức Chúa Trời!” 35 Chúa Giê-xu quở trách quỷ rằng: “Hãy im đi và ra khỏi người này!” Quỷ quật mạnh người ấy xuống đất ngay giữa họ và ra khỏi mà không gây thương tích gì. 36 Mọi người đều kinh ngạc và cứ bàn tán mãi về việc ấy. Họ nói rằng: “Mấy lời này là thế nào vậy? Ông ấy dùng uy quyền và năng lực mà ra lệnh cho uế linh khiến chúng phải ra khỏi.” 37 Vậy, tin đồn về Ngài lan truyền khắp nơi trong vùng lân cận. 38 Sau đó, Chúa Giê-xu ra khỏi nhà hội và vào nhà của Si-môn. Lúc này, mẹ vợ của Si-môn đang sốt cao, người ta thay ba cầu xin Chúa. 39 Ngài cúi xuống quở cơn sốt và nó lìa khỏi bà. Bà liền đứng dậy và bắt tay phục vụ mọi người. 40 Lúc mặt trời lặn, dân chúng đem đến cho Chúa Giê-xu những người đau ốm mắc đủ thứ bệnh tật. Ngài đặt tay trên từng người và chữa lành cho họ. 41 Các quỷ cũng bị đuổi ra khỏi nhiều người, chúng la lớn lên rằng: “Ông là Con Đức Chúa Trời!” Chúa Giê-xu quở trách quỷ không cho chúng nói vì chúng biết Ngài là Chúa Cứu Thế. 42 Tảng sáng, Ngài đi vào nơi thanh vắng. Đoàn dân đông đi tìm Ngài và đến chỗ Ngài đang ở. Họ cố giữ Ngài lại, không cho đi. 43 Nhưng Ngài nói với họ: “Tôi còn phải rao giảng tin lành về vương quốc Đức Chúa Trời cho nhiều nơi khác nữa, vì đó là lý do tôi được sai đến đây.” 44 Rồi Ngài tiếp tục rao giảng trong các nhà hội khắp miền Giu-đê.
Ma quỷ đến trước mặt Chúa Giê-xu đặng cám dỗ Ngài phạm tội sau khi Ngài đã kiêng ăn được 40 ngày.
Tiếp theo phần Giăng đã làm phép báp-têm cho Chúa Giê-xu. Cụm từ nầy có thể được dịch là "Sau khi Đức Chúa Giê-xu đã chịu phép báp-têm rồi".
Cụm từ nầy có thể được dịch bằng giọng chủ động như "Đức Thánh Linh hướng dẫn Ngài"
Tham khảo cách dịch: "40 ngày"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "bị ma quỷ cám dỗ không vâng phục Đức Chúa Trời". Chúng ta không biết rõ Ngài bị cám dỗ trong suốt quãng thời gian bốn mươi ngày đêm đó hay chỉ vào cuối khoảng thời gian đó mà thôi. Cụm từ nầy có thể được dịch sang thể chủ động "tại đó ma quỉ cám dỗ Ngài "
"Ngài" chỉ Chúa Giê-xu.
Có lẽ ma quỷ đang thách thức Chúa Giê-xu chứng minh mình là Con của Đức Chúa Trời.
Có thể ma quỉ đang thực sự một cầm hòn đá trong tay hoặc hắn chỉ đang chỉ vào một hòn đá gần đó.
Tham khảo cách dịch: "Môi-se đã viết trong Kinh Thánh". Trưng dẫn từ sách Phục-truyền Luật-lệ ký
Cụm từ nầy có thể được dịch là "người ta không thể sống chỉ nhờ bánh" hay "Chẳng phải chỉ có bánh mới khiến người ta sống". Từ "bánh" được dùng để chỉ về đồ ăn nói chung. Vấn đề là đồ ăn không đủ để duy trì sự sống cho một người. Người ta cần phải vâng phục Đức Chúa Trời. Chúa Giê-xu đang trưng dẫn Kinh Thánh để chỉ ra lý do tại sao Ngài không hoá đá thành bánh.
"a high mountain"
"trong chốc lát" hay "tức khắc"
"Vậy nên”
Cụm từ nầy có thể được dịch là "nếu ngươi quỳ xuống trước mặt ta" hay "nếu ngươi chịu sấp mình xuống để thờ lạy ta" hoặc "nếu ngươi chịu thờ lạy ta bằng cách sấp mình xuống trước mặt ta"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "Ta sẽ ban cho ngươi tất cả những nước nầy"
"đáp lại hắn" hay "trả lời hắn"
Tham khảo cách dịch: "Môi-se có chép trong Kinh Thánh". Chúa Giê-xu đang trưng dẫn trong Phục-truyền Luật-lệ ký
Chúa Giê-xu đang trưng dẫn một điều luật trong Kinh Thánh để nói lý do tại sao Ngài không thờ lạy ma quỉ.
Từ nầy chỉ những người trong thời Cựu Ước, là những người đã nhận Luật Pháp của Đức Chúa Trời. Bạn có thể sử dụng hình thức số ít 'ngươi' (you) vì mỗi người ai cũng phải vâng theo luật pháp ấy, hoặc bạn có thể sử dụng hình thức số nhiều 'các ngươi' vì hết thảy mọi người đều phải vâng theo luật pháp ấy.
Từ nầy đề cập đến Giê-hô-va Đức Chúa Trời.
Đây là đỉnh của mái đền thờ. Nếu có ai trợt chơn hay nhảy từ chỗ đó xuống thì sẽ bị thương nghiêm trọng hoặc chết.
Ma quỉ có lẽ đang thách thức Chúa Giê-xu minh chứng Ngài là Con Đức Chúa Trời, chỉ duy nhất và là con độc sanh. Sa-tan đích thân đối mặt với Chúa Giê-xu và cám dỗ Ngài vào tội lỗi.
Đây là một danh hiệu quan trọng dành cho Chúa Giê-xu.
"hãy nhảy xuống đất đi"
Tham khảo cách dịch: "Tác giả sách Thi-thiên có chép”. Ma quỉ chỉ trưng dẫn một phần của Thi-thiên (Thi-thiên 91:10-12) nhằm cố gắng thuyến phục Chúa Giê-xu nhảy xuống khỏi đền thờ.
"Chúa" nói đến Đức Chúa Trời.
Tham khảo cách dịch: "Môi-se đã nói" hay "Môi-se đã nói trong Kinh Thánh". Chúa Giê-xu đang trưng dẫn Phục-truyền Luật-lệ ký.
Cụm từ nầy có thể được dịch thành "Đừng thử Chúa là Đức Chúa Trời ngươi". Chúa Giê-xu đã trưng dẫn Kinh Thánh để giải thích lý do tại sao Ngài nhảy xuống từ nóc đền thờ để thử Đức Chúa Trời. Mạng lịnh nầy dành cho dân sự của Đức Chúa Trời.
"đến dịp khác"
Chúa Giê-xu trở về Ga-li-lê, giảng dạy ở nhà hội, và nói với dân sự rằng Ngài đang làm trọn lời tiên tri của Ê-sai.
Cụm từ nầy có thể được dịch thành "và Đức Thánh Linh đã ban quyền phép cho Ngài". Đức Chúa Trời đã ở cùng Chúa Giê-xu theo một cách đặc biệt để khiến Chúa Giê-xu có thể làm được những việc mà con người thường không thể làm được.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "người ta đồn những việc về Chúa Giê-xu ra" hay "người nầy nói với người kia về Chúa Giê-xu" hoặc "sự hiểu biết về Ngài được truyền từ người nầy sang người kia". Những kẻ đã nghe Chúa Giê-xu giảng đi nói cho những người khác biết về Ngài, và rồi những người khác đó lại đi nói cho thêm nhều người khác nữa biết về Ngài.
Chỉ về đến các khu vực hay những nơi xung quanh xứ Ga-li-lê.
"ai nấy đều nói ra những việc lớn về Ngài" hay "hết thảy mọi người đều làm chứng tốt về Ngài"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "nơi cha mẹ Ngài đã nuôi lớn Ngài" hay "nơi Ngài lớn lên" hoặc "nơi Ngài sinh sống khi còn nhỏ”
"Như Ngài vẫn thường làm". Ngài vẫn thường đi đến nhà hội vào ngày Sa-bast.
Cụm từ nầy có thể được dịch thành thể chủ động, như “Ngườ ta trao cho Ngài cuộn sách tiên tri Ê sai "
Nói về sách Ê-sai được viết trên một cuộn giấy. Ê-sai đã viết ra những lời nầy đã nhều năm về trước, và có người khác đã chép chúng lại trên một cuộn giấy.
"chỗ trong cuộn giấy có chép rằng” hoặc “có chỗ trong cuộn giấy chép rằng”
"Đức Chúa Trời ở cùng ta theo phương cách đặc biệt".
Cụm từ nầy có thể được dịch là "cho những kẻ đang chịu cảnh tù đày biết rằng họ sẽ được tha" hay "giải phóng những tù binh chiến tranh".
"tuyên bố kẻ mù sẽ được nhìn thấy” hay "ban sự sáng cho kẻ mù" hoặc "khiến cho kẻ mù lại được nhìn thấy"
"trả tự do cho những người bị ngược đãi"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "loan báo đây là năm mà Chúa sẽ tỏ ra sự nhân từ Ngài" hay "nói cho mọi người biết rằng Chúa đã sẵn sàng xuống phước cho dân sự Ngài"
Cụm từ này nói đến người làm công trong nhà hội, là người chịu trách nhiệm bảo quản và tôn trọng các cuộn Kinh Thánh khi đem ra và cất vào.
"tập trung về Ngài" hay "nhìn Ngài"
Cụm từ nầy có thể được dịch thành “Trong khi các ngươi còn đang nghe những lời tiên tri trong sách nầy thì nó đã được ứng nghiệm rồi”. Chúa Giê-xu tuyên bố rằng qua các công việc cũng như lời giảng của mình, Ngài đã làm ứng nghiệm lời tiên tri đó.
"ngạc nhiên về những lời đầy ơn mà Ngài đang nói". Ở đây, từ "đầy ơn" có thể chỉ vế cách trình bày suôn sẻ và hùng hồn của Chúa Giê-xu. Hoặc cụm từ có ý nói rằng Chúa Giê-xu đang nói về ân điển của Đức Chúa Trời.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "Chẳng phải người nầy chỉ là con của Giô-sép thôi sao?” hoặc “Người nầy là con Giô-sép mà!” hoặc "Cha của ông ta là Giô-sép thôi!" Dân chúng đinh ninh Giô-sép là cha của Chúa Giê-xu. Giô-sép chẳng phải là nhà lãnh đạo tôn giáo, vậy nên người ta mới lấy làm lạ khi thấy con trai ông lại đi rao giảng về những điều cha mình đã làm.
Na-xa-rét là thành phố mà Chúa Giê-xu đã lớn lên.
Chúa Giê-xu đã quở trách dân chúng vì từ chối tin theo Ngài chỉ vì họ tưởng mình đã biết về Ngài.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "chính thành của mình" hay "quê nhà”
Chúa Giê-xu nhắc những người đang nghe lời Ngài giảng trong nhà hội, nhớ lại lời tiên tri Ê-li đã nói.
"Ta thành thật nói cùng các ngươi". Mệnh đề nầy được dùng để nhấn mạnh tầm quan trọng, tính chân thật và chính xác cho lời tuyên bố theo sau.
Bà goá là người nữ có chồng đã qua đời.
Cụm từ nầy có thể được dịch thành "khi Ê-li còn nói tiên tri trong Y-sơ-ra-ên". Những người đang nghe Chúa Giê-xu giảng dạy chắc hẳn phải biết Ê-li là tiên tri của Đức Chúa Trời. Nếu như độc giả của bạn không biết thông tin ngầm hiểu nầy thì bạn có thể nêu rõ luôn, như trong bản dịch UDB.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "khi chẳng có mưa từ trời xuống" hay "khi chẳng có mưa chi hết". Đây là một ẩn dụ trong đó bầu trời được phác họa như trần nhà đã bị đóng chặt để ngăn không cho nước từ trên cao rơi xuống đất như mưa.
"khi thức ăn bị thiếu hụt trầm trọng" hay "khi người ta không có đủ thức ăn". Nạn đói diễn ra trong một thời gian dài khi mùa màng không cung ứng đủ thức ăn cho con người.
Dân chúng sống trong thị trấn Sa-rép-ta là dân ngoại, chớ không phải dân Do thái. Cụm từ nầy có thể được dịch là “một bà goá ngoại bang sinh sống tại Sa-rép-ta". Những người đang nghe Chúa Giê-xu sẽ hiểu rằng dân Sa-rép-ta là dân ngoại.
Người Sy-ri tức là người xuất thân từ nước Sy-ri. Dân Sy-ri là dân ngoại, không phải người Do thái. Cụm từ nầy có thể được dịch là "Na-a-man là dân ngoại đến từ xứ Sy-ri".
Cụm từ nầy có thể được dịch là "buộc Ngài phải rời khỏi thành".
"đỉnh vách đá”
Từ “ngay” ở đây có nghĩa tương tự với từ “gần như”.Nó không có nghĩa cản trở Chúa rời khỏi đám đông. “Qua ngay chính giữa họ” hoặc “ở giữa đám đông đang cố giết Ngài”.
“rời khỏi”.Chúa Giê-xu tiếp tục cuộc hành trình thay vì đi đến nơi đám đông ép Ngài phải đi.
Chúa Giê-xu đi đến thành Ca-bê-na-um, dạy dỗ trong nhà hội tại đó, và đuổi quỉ ra khỏi một người đàn ông.
"Chúa Giê-xu đi xuống núi". Ca-bê-na-um nằm ở độ cao thấp hơn so với Na-xa-rét.
Bởi lúc đó, Chúa Giê-xu đã có mặt tại xứ Ga-li-lê rồi nên cụm từ nầy có thể được dịch là "Ca-bê-na-um, một thành khác trong xứ."
"rất đỗi ngạc nhiên" hay "bị ấn tượng"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "lời Ngài đầy uy quyền" hay "Ngài phán giống như một người có thẩm quyền"
Từ này được dùng để biểu thị phần giới thiệu nhân vật mới trong câu chuyện, trong trường hợp này là người bị quỉ ám.
"người bị ám bởi một tà linh "
"người kêu lớn tiếng". Một số ngôn ngữ thì có thành ngữ cho ý này, ví dụ như: “La muốn bể phổi”
Đây là câu trả lời gây chiến, có nghĩa là: “Hỡi Giê-xu người Na-xa-rét, chúng ta có liên quan gì đến ngươi?” Hoặc “Chúng ta chẳng liên quan gì đến ngươi cả, hỡi Giê-xu người Na-xa-rét!” Tham khảo: “Ngươi không có quyền làm phiền chúng ta, hỡi Giê-xu người Na-xa-rét!”
"Chúa Giê-xu mắng tà linh, mà rằng" hay "Chúa Giê-xu nghiêm khắc phán cùng ma quỉ"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "để người nầy yên" hay "không quầy rầy người nữa"
Đây là câu hỏi mang tu từ. Dân chúng đang tỏ ra kinh ngạc quá đỗi khi thấy Chúa Giê-xu quyền ra lệnh cho ma quỉ phải ra khỏi một người. Cụm từ nầy có thể được dịch là "Những lời nầy thật đáng kinh ngạc” hoặc “những lời của ông ta thật đáng kinh ngạc!"
"Người có quyền phép ra lệnh cho tà ma"
Đây là lời nhận xét về việc đã xảy ra sau câu chuyện nối tiếp theo các sự kiện trong câu chuyện đó.
"danh tiếng của Chúa Giê-xu bắt đầu lan truyền” hoặc “dân chúng đồn ra những tin tức về Chúa Giê-xu”
Chúa Giê-xu vẫn ở tại Ca-bê-na-um, nhưng giờ đây Ngài đang ở tại nhà của Si-môn, tại đó Ngài đã chữa lành cho bà gia của Si-môn và nhiều người khác.
Trong một số ngôn ngữ người ta sẽ nói "bà bị ốm và da bà rất nóng"
Bà gia - "mẹ vợ của Si-môn"
Từ “vậy” biểu thị cho một sự kiện đã xảy ra theo sau sự kiện trước đó. Trong trường hợp này, người ta thay mặt cho bà gia của Si-môn mà cầu xin Chúa chữa lành cho bà.
"nghiêm khắc ra lệnh cho cơn rét" hay "ra lệnh cho cơn rét lìa khỏi bà" (Tham khảo bản dịch UDB). Cụm từ nầy có thể được dịch là "ra lệnh cho da bà phải mát trở lại" hay "ra lệnh căn bệnh phải lìa khỏi bà"
Ma quỷ sợ Chúa Giê-xu vì Ngài là Con Đức Chúa Trời.
"gào thét" hay "la lớn"
Đây là danh hiệu quan trọng dành cho Chúa Giê-xu.
"nghiêm khắc phán với ma quỷ"
"không cho phép chúng"
Chúa Giê-xu tiếp tục giảng ở các nhà hội khác trong xứ Giu-đê
"Khi mặt trời mọc" hay "lúc bình minh"
"nơi hoang vắng" hay "nơi không có ai sinh sống" hoặc "nơi không có người"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "đến với những người ở các thành khác"
Có thể dịch thành mệnh đề chủ động: "Đây chính là lí do Đức Chúa Trời đã sai ta đến đây"
Đức Thánh Linh đưa Chúa Giê-xu vào trong đồng vắng.
Ma quỉ bảo Chúa Giê-xu hoá đá thành bánh.
Ma quỉ tỏ ra cho Chúa Giê-xu mọi nước thế gian.
Ngươi đừng thử Chúa là Đức Chúa Trời ngươi.
Hắn bảo Chúa Giê-xu nhảy xuống từ nơi đó.
Ngươi đừng thử Chúa là Đức Chúa Trời ngươi.
Họ tức giận lắm và muốn quăng Ngài xuống sườn núi.
Chúa Giê-xu đặt tay lên từng người và chữa lành cho họ.
1 Chúa Giê-xu đứng bên bờ hồ Ghê-nê-xa-rết, còn dân chúng thì tụ tập quanh Ngài để nghe lời của Đức Chúa Trời. 2 Ngài thấy hai chiếc thuyền đang neo ven bờ hồ. Các ngư dân đã xuống nước giặt lưới. 3 Chúa Giê-xu lên một trong hai chiếc thuyền ấy, là thuyền của Si-môn, và bảo ông chèo ra xa bờ một chút. Rồi Ngài ngồi xuống và dạy dỗ dân chúng. 4 Khi giảng xong, Ngài nói với Si-môn: “Hãy chèo thuyền ra vùng nước sâu mà thả lưới.” 5 Si-môn thưa: “Thưa thầy, chúng tôi đã làm việc suốt đêm mà chẳng bắt được gì, nhưng nghe lời thầy, tôi sẽ thả lưới.” 6 Khi thả lưới xuống, họ bắt được nhiều cá đến độ lưới hòng đứt. 7 Họ ra hiệu cho các bạn chài ở chiếc thuyền kia đến giúp. Những người đó đến và kéo cá lên đầy hai thuyền đến nỗi thuyền gần chìm. 8 Thấy vậy, Si-môn Phi-e-rơ liền quỳ xuống nơi chân Chúa Giê-xu mà thưa rằng: “Lạy Chúa, xin lìa khỏi tôi, vì tôi là người tội lỗi.” 9 Ấy là vì ông rất đỗi ngạc nhiên vì mẻ lưới họ đánh bắt được, cũng như tất cả đồng bạn mình. 10 Trong số họ có Gia-cơ và Giăng, các con trai của Xê-bê-đê. Chúa Giê-xu nói với Si-môn: “Đừng sợ, vì từ nay trở đi, con sẽ đánh lưới người.” 11 Sau khi đưa thuyền vào bờ, họ bỏ tất cả mà theo Ngài. 12 Ngài đến một thành kia, tại đó có một người bị phong hủi. Khi thấy Chúa Giê-xu, anh sấp mặt xuống cầu xin Ngài rằng: “Lạy Chúa, nếu muốn, Ngài có thể khiến con được sạch.” 13 Chúa Giê-xu đưa tay ra chạm vào anh và nói: “Tôi muốn, hãy sạch đi.” Lập tức, bệnh phong hủi biến mất. 14 Ngài dặn anh đừng nói cho ai biết nhưng lại bảo: “Hãy đi trình diện với thầy tế lễ và dâng của lễ về việc anh được sạch, theo luật pháp Môi-se, để chứng thực cho họ.” 15 Nhưng tin đồn về Ngài càng lan truyền ra xa hơn nữa, khiến đông đảo dân chúng kéo đến để nghe Ngài dạy dỗ và để được Ngài chữa bệnh. 16 Nhưng Ngài thường lánh vào nơi thanh vắng để cầu nguyện. 17 Một ngày kia, trong lúc Ngài giảng dạy thì cũng có những người Pha-ri-si và giáo sư luật ngồi nghe. Họ đến từ khắp các ngôi làng trong miền Ga-li-lê và Giu-đê, cũng như từ thành Giê-ru-sa-lem. Quyền năng chữa lành bệnh tật của Chúa ở trong Ngài. 18 Lúc ấy, có mấy người đến khiêng một người bại liệt nằm trên chiếu; họ tìm cách đưa anh vào bên trong đặt trước mặt Chúa Giê-xu. 19 Nhưng vì có quá đông người nên họ không thể đưa anh vào được. Vậy là họ trèo lên nóc nhà, rồi dòng cả người lẫn chiếu qua mái ngói xuống giữa đám đông, ngay phía trước Chúa Giê-xu. 20 Thấy đức tin của họ, Ngài nói: “Này anh, tội lỗi anh đã được tha.” 21 Các giáo sư luật và người Pha-ri-si bắt đầu thắc mắc: “Ông ta là ai mà dám nói lời phạm thượng vậy? Ngoài Đức Chúa Trời ra, ai có quyền tha tội?” 22 Nhưng Chúa Giê-xu biết họ đang nghĩ gì, nên Ngài đáp lại họ: “Sao các ông thắc mắc trong lòng như vậy? 23 Câu nào dễ nói hơn: ‘Tội lỗi anh đã được tha’ hay ‘Hãy đứng dậy và đi?’ 24 Nhưng để các ông biết rằng Con Người ở trên đời này có quyền tha tội. Tôi bảo anh: ‘Hãy đứng dậy, thu dọn chiếu đi về nhà.’” 25 Lập tức, người bại liệt đứng dậy trước mặt họ, nhặt chiếu mình lên; và anh trở về nhà, tôn vinh Đức Chúa Trời. 26 Mọi người đều kinh ngạc và tôn vinh Đức Chúa Trời. Họ vô cùng sợ hãi và nói rằng: “Hôm nay chúng ta đã thấy những việc lạ thường.” 27 Sau những việc ấy, Chúa Giê-xu rời khỏi đó và thấy một người thu thuế tên Lê-vi đang ngồi tại trạm thu thuế. Ngài nói với ông: “Hãy theo tôi!” 28 Lê-vi liền đứng dậy, bỏ hết tất cả mà theo Ngài. 29 Rồi Lê-vi chuẩn bị một bữa đại tiệc tại nhà để khoản đãi Chúa Giê-xu; cũng có nhiều người thu thuế cùng những người khác ngồi ăn chung với họ. 30 Nhưng những người Pha-ri-si và giáo sư dạy luật phàn nàn với các môn đồ của Chúa, rằng: “Sao các ông lại ăn uống chung với bọn thu thuế và kẻ tội lỗi?” 31 Chúa Giê-xu đáp lại họ: “Người khỏe mạnh thì không cần thầy thuốc, chỉ người đau ốm mới cần mà thôi. 32 Tôi đến không phải để kêu gọi người công bình ăn năn, mà là kêu gọi kẻ có tội.” 33 Họ thưa với Ngài: “Các môn đồ của Giăng thường kiêng ăn và cầu nguyện, các môn đồ của người Pha-ri-si cũng vậy. Còn môn đồ Thầy thì ăn uống.” 34 Chúa Giê-xu đáp: “Có ai bắt những người đi cùng chú rể kiêng ăn khi chàng còn ở với họ không? 35 Nhưng sẽ có ngày chú rể được đem đi khỏi họ, khi ấy, họ sẽ kiêng ăn.” 36 Ngài cũng kể cho họ nghe một ẩn dụ: “Không ai xé một mảnh áo mới để vá vào cái áo cũ. Làm vậy sẽ hỏng chiếc áo mới, và miếng vá mới cũng không phù hợp với chiếc áo cũ. 37 Cũng không ai chứa rượu mới trong bầu da cũ vì rượu mới sẽ làm cho vỡ bầu, chảy hết rượu ra ngoài, và bầu da cũng bị hỏng. 38 Rượu mới phải chứa trong bầu da mới. 39 Người đã uống rượu cũ rồi cũng không muốn uống rượu mới vì nói rằng: ‘Rượu cũ ngon hơn.’”
Chúa Giê-xu đứng trên thuyền của Si-môn Phi-e-rơ để giảng bên hồ Ghê-nê-sa-rết.
Cụm từ nầy được dung ở đây để mở đầu một phần mới trong câu chuyện. Nếu ngôn ngữ của bạn có cách khác thì nên áp dụng ở đây.
Họ đang làm sạch lưới đánh cá để có thể sử dụng trong lần đánh bắt tiếp theo.
"bảo Phi-e-rơ chèo thuyền ra xa bờ một chút"
Ngồi là tư thế giảng dạy thường thấy ở một giáo sư.
"Ngài ngồi trên thuyền mà dạy dỗ dân chúng”. Chúa Giê-xu ngồi trên chiếc thuyền ở cách xa bờ một chút mà giảng cho dân chúng đang ở trên bờ.
"khi Chúa Giê-xu giảng dạy dân chúng xong"
Nguyên bản gốc của từ “Chủ” (master) nầy trong tiếng Hi-Lạp không có nghĩa như từ “chủ” thường thấy. Từ “Chủ” (master) trong nguyên ngữ Hi-Lạp chỉ về một người có thẩm quyền, không người sở hữu nô lệ.Bạn cũng có thể dịch thành “Ông Chủ” hoặc “Quản Đốc” hoặc dùng từ thường dùng để chỉ một người có thẩm quyền như “Ngài”.
"vì lời Ngài" hay "vì Ngài bảo tôi làm việc nầy"
Lúc nầy, họ đang ở quá xa bờ để có thể gọi ai đó, vì vậy họ đã làm hành động nào đó, có thể là vẫy tay.
“mấy chiếc thuyền sắp chìm”. Nếu cần thiết để giúp người đọc hiểu hơn thì có thể trình bày luôn phần thông tin ngầm hiểu: “mấy chiếc thuyền gần chìm vì nặng do cá quá nhiều”
Có thể hiểu: 1) "sấp mình xuống nơi chân Chúa Giê-xu" hay 2) "nằm xuống chỗ nơi chân Chúa Giê-xu” hay 3) "quì xuống trước mặt Chúa Giê-xu". Không phải Phi-e-rơ ngẫu nhiên sấp mình xuống. Ông làm như vậy để tỏ sự hạ mình cũng như bày tỏ lòng tôn trọng dành cho Chúa Giê-xu.
Từ ngữ ở đây nói tới "người" ý nói "một người nam trưởng thành", chứ không phải là “con người” nói chung.
Từ “đánh lưới” ở đây được dùng như một ẩn dụ nói về việc gom người ta đi theo Chúa Cứu Thế. Cụm từ nầy có thể được dịch với ẩn dụ như trong “ngươi sẽ đánh lưới người”. Cụm từ nầy cũng có thể được dịch không cần ẩn dụ như trong “ngươi sẽ nhóm người ta lại” hoặc “ngươi sẽ đem người ta vào”
Chúa Giê-xu chữa lành một người phong ở một thành phố mà trước giả không ghi lại tên.
Cụm từ này đánh dấu một sự kiện mới trong câu chuyện.
"người ấy sấp mình xuống đất" (Tham khảo bản dịch UDB) hay "người ấy quì xuống và mặt người chạm đất"
"nếu Chúa muốn"
Câu trích dẫn gián tiếp, có thể dịch sang câu mệnh lệnh trực tiếp "Không được kể với ai". Phần thông tin ngầm hiểu "rằng ngươi đã được chữa lành"
Luật pháp quy định một người sau khi đã được sạch phải dâng một loại của lễ đặc trưng. Việc nầy nhằm công nhận người ấy đã được sạch về mặt nghi thức, và lại có thể tham dự vào các lễ nghi tôn giáo.
"để làm bằng chứng cho các thầy tế lễ" hay "hầu cho các thầy tế lễ sẽ biết rằng ngươi thực sự đã được lành". Các thầy tế lễ trong đền thờ sẽ đối diện với một thực tế là Chúa Giê-xu đã chữa lành bịnh phung của người nầy.
"các tin tức về Chúa Giê-xu". Có thể hiểu một là "tin đồn về việc Chúa Giê-xu chữa lành cho người đàn ông nọ" hay "tin đồn về việc Chúa Giê-xu chữa lành con người"
"tin đồn về Ngài càng ngày càng vang xa" hay "người ta cứ đồn về Ngài ở nhiều nơi khác"
"những nơi vắng vẻ" hay "những nơi yên tĩnh" hoặc "những nơi không có người"
Một ngày nọ khi Chúa Giê-xu đang giảng trong một ngôi nhà, một số người đem một người bại đến để Chúa chữa lành.
Ở đây, cụm từ này được sử dụng để mở đầu một phần mới trong câu chuyện. Nếu ngôn ngữ bạn dùng có cách để mở đầu một câu chuyện thì có thể xem xét sử dụng nó ở đây.
Đây là những nhân vật mới trong câu chuyện. Có thể ngôn ngữ bạn dùng có cách giới thiệu đây là những nhân vật mới. Tham khảo cách dịch: “Có mấy người đàn ông khiêng đến” hoặc “Có mấy người đàn ông khiên”
Cụm từ nầy có thể được dịch là "tấm lót để ngủ" hay "giường" hoặc "cáng" hoặc “ghế dài”.
"không thể tự cử động"
Đối với một số ngôn ngữ, thì câu văn nghe sẽ tự nhiên hơn khi hoán đổi trật tự từ. "Nhưng vì người ta đông quá nên họ không tìm được cách nào để đưa người vào trong. Vì vậy...."
Những ngôi nhà ở đây có mái bằng phẳng, một số nhà còn có thang bắc lên hay cầu thang ở bên ngoài để đi lên được dễ dàng.
"ngay trước mặt Chúa Giê-xu" hoặc “gần ngay trước mặt Chúa Giê-xu”
Đây là cách nói chung chung mà người ta thường dùng khi nói chuyện với một người mà họ chẳng biết tên. Cách nói nầy không bất lịch sự nhưng đồng thời cũng không bày tỏ sự tôn trọng đặc biệt nào cả. Một số ngôn ngữ có thể dịch thành "bạn" hay "anh" hoặc "ông".
"ngươi đã được tha tội" hay "ta tha tội ngươi" (Tham khảo bản dịch UDB)
"ngươi đã được tha tội" hay "ta tha tội ngươi" (Tham khảo bản dịch UDB)
Câu hỏi tu từ nầy cho thấy họ đã kinh ngạc và giận dữ như thế nào về những lời của Chúa Giê-xu. Cụm từ nầy có thể được dịch là "Người nầy đang nói phạm đến Đức Chúa Trời" hay "Hắn nói như thế là đang phạm đến Đức Chúa Trời" hoặc "Hắn nghĩ mình là ai mà dám phạm đến Đức Chúa Trời như thế?"
Câu hỏi tư từ nầy có thể được dịch là "Ngoài Đức Chúa Trời, chẳng có có quyền tha tội” hay "Đức Chúa Trời là Đấng duy nhất có quyền tha tội". Phần thông tin ngầm hiểu ở đây là nếu một người tuyên bố tha tội nghĩa là người đó có ý nhận mình là Đức Chúa Trời.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "Các ngươi không nên tranh cãi điều nầy trong lòng" hay "Các ngươi không nên nghi ngờ về việc ta có quyền tha tội"
Đây là thành ngữ chỉ một bộ phận của con người có thể suy nghĩ. Trong một số ngôn ngữ thì lươc bỏ từ này sẽ khiến câu văn tự nhiên hơn.
Chúa Giê-xu sử dụng câu hỏi tu từ nầy để chuẩn bị tư tưởng cho những người nầy, giúp họ có thể liên hệ quyền tha tội của Ngài với phép lạ chữa bệnh mà Ngài sắp thực hiện đây. Câu hỏi nầy có thể được dịch thành: “Nói: “Tội ngươi đã được tha” không thôi thì dễ lắm, nhưng chỉ một mình Đức Chúa Trời mới có thể khiến người bại này nầy 'đứng dậy mà đi"
Chúa Giê-xu đang phán với các thầy thông giáo và người Pha-ri-si. Từ "các ngươi" ở dạng số nhiều.
Chúa Giê-xu đang nói về chính mình.
Chúa Giê-xu đang nói với kẻ bại. Chữ "ngươi" ở số ít.
"ngay tức khắc" hay "ngay lúc đó"
"rất sợ hãi" hay "đầy kinh hãi"
"những việc lạ lùng" hay "những việc kỳ lạ"
Sau khi Chúa Giê-xu ra khỏi nhà đó, Ngài gọi Lê-vi đi theo Ngài, ông một người thâu thuế Do Thái. Lê-vi chuẩn bị một bữa tiệc đãi Chúa Giê-xu, chính việc này làm các thầy thông giáo và người Pha-ri-si khó chịu.
Cụm từ nầy đề cập đến những việc xảy ra trong các câu trước.
Nghĩa là "chú ý đến một người thâu thuế" hay "nhìn kỹ người thâu thuế"
"quầy thu thuế" hay "trạm thu thuế". Đây là một cái quầy hoặc cái bàn kê ngay bên đường, dân chúng sẽ phải nộp thuế cho chính quyền tại đó.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "Hãy làm môn đồ ta" hay "Hãy đến và theo ta như thầy của ngươi"
"từ bỏ công việc thu thuế của người"
Trong bữa ăn, Chúa Giê-xu nói với người Pha-ri-si và thầy thông giáo.
"tại nhà Lê-vi"
Cụm từ nầy có thể được dịch thành "tại bàn" hay "ngồi tại bàn". Trong một bữa tiệc, cách người Hi-lạp dùng bữa là nằm nghiêng trên một chiếc ghế dài, tay trái đặt trên mấy cái gối chống phần người trước lên.
"với các môn đồ của Chúa Giê-xu"
Người Pha-ri-si và các thầy thông giáo dùng một câu hỏi tu từ để tỏ thái độ không đồng tình về việc các môn đồ của Chúa Giê-xu ăn uống chung với những kẻ có tội. Từ "các ngươi" ở dạng số nhiều. Cụm từ nầy có thể được dịch là "Các ngươi không nên ăn uống với những kẻ có tội!"
"thầy thuốc" hay "bác sĩ"
"những nhà lãnh đạo tôn giáo nói với Chúa Giê-xu"
Chúa Giê-xu dùng câu hỏi tu từ nầy khiến người nghe nghĩ đến tình huống mà mình vốn đã biết . Cụm từ nầy có thể được dịch là "Chẳng ai bảo khách dự tiệc cưới chàng rể phải kiêng ăn trong khi chàng rễ vẫn còn ở với họ"
"khách" hay "bạn bè". Những người nầy là bạn bè chung vui với người đang thành hôn.
"Nhưng ngày nào đó" (Tham khảo bản dịch UDB) hay "Nhưng chẳng bao lâu nữa"
Đây là một ẩn dụ. Chúa Giê-xu đang phán về chính Ngài. Cụm nầy sẽ rõ ý hơn khi thêm vào câu "Cũng như vậy, môn đồ của ta không thể kiêng ăn đang khi ta vẫn còn đang ở với họ"
Chúa Giê-xu kể một câu chuyện cho các thầy thông giáo và người Pha-ri-si đang ở nhà Lê-vi nghe.
"Không ai xé" hay "Người ta chẳng bao giờ xé”
"repair"
"không phù hợp” hay "không giống với”
"Chẳng ai đổ" (Tham khảo bản dịch UDB) hay "Người ta sẽ chẳng bao bao giờ đổ”
"nước nho ép". Từ nầy chỉ rượu vẫn chưa lên men.
Đây là túi làm từ da thú. Chúng cũng được gọi là "túi rượu" hay "túi da" (Tham khảo bản dịch UDB).
"khi rượu mới lên men và nở ra, nó sẽ làm nứt bầu da cũ vì bầu da cũ không còn khả năng giãn nở nữa". Những người ngồi nghe Chúa Giê-xu giảng biết phần thông tin ngầm nói về việc rượu lên men và nở ra.
"rượu sẽ chảy khỏi bầu"
"bầu mới" hay "túi rượu mới". Từ nầy nói đến những túi rượu chưa được sử dụng lần nào.
"rượu đã lên men"
Sẽ dễ hiểu hơn khi thêm vào: "và vì thế mà người không muốn thử rượu mới". Đây là một ẩn dụ đối chiếu nhằm làm rõ sự tương phản giữa những lời dạy cổ hũ của các nhà lãnh đạo tôn giáo với những sự giảng dạy mới của Chúa Giê-xu. Vấn đề ở đây là những người đã quen với lối giảng dạy cổ hũ sẽ không muốn nghe những điều mới mà Chúa Giê-xu đang giảng dạy.
Hãy chèo ra ngoài sâu, thả lưới mà đánh cá.
Si-môn muốn Chúa Giê-xu lìa khỏi ông vì Si-môn biết mình là người có tội.
Nhiều đoàn dân đông đến với Chúa Giê-xu.
Hỡi người, tội lỗi ngươi đã được tha.
Cái áo mới sẽ rách đi, và không phù hợp với cái áo cũ.
Bầu da cũ sẽ nứt đi và rượu mới sẽ chảy mất.
1 Vào một ngày Sa-bát nọ, khi Chúa Giê-xu đang đi ngang qua những cánh đồng lúa mì, các môn đồ Ngài ngắt bông lúa, lấy tay vò rồi ăn. 2 Nhưng có mấy người Pha-ri-si thắc mắc: “Sao các ông lại làm việc bị cấm trong ngày Sa-bát như vậy?” 3 Chúa Giê-xu trả lời họ: “Các ông chưa từng đọc về việc vua Đa-vít đã làm khi vua và những người theo mình bị đói sao? 4 Vua vào nhà Đức Chúa Trời và lấy bánh cung hiến mà ăn, và chia cho những người đi cùng mình ăn nữa, dù theo luật pháp, chỉ có thầy tế lễ mới được phép ăn bánh ấy.” 5 Ngài nói tiếp: “Vậy, Con Người là Chúa của ngày Sa-bát.” 6 Vào một ngày Sa-bát khác, Chúa Giê-xu vào nhà hội và dạy dỗ dân chúng. Tại đó có một người bị teo bàn tay phải. 7 Các giáo sư luật và người Pha-ri-si chăm chú theo dõi để xem Ngài có chữa lành người bệnh vào ngày Sa-bát không, hầu có cớ mà buộc tội Ngài. 8 Nhưng Ngài biết họ đang nghĩ gì, nên Ngài nói với người bị teo tay rằng: “Hãy dậy và đứng giữa mọi người đây.” Người đó đứng dậy và làm theo lời Ngài. 9 Chúa Giê-xu nói với họ: “Cho tôi hỏi, trong ngày Sa-bát thì được làm lành hay làm dữ, cứu người hay hại người?” 10 Ngài đảo mắt nhìn mọi người, rồi nói với người teo tay: “Hãy giơ tay ra.” Anh làm theo và tay anh được chữa lành. 11 Nhưng họ nỗi giận và bàn với nhau để biết có thể làm gì với Chúa Giê-xu. 12 Trong khoảng thời gian đó, Chúa Giê-xu lên núi và cầu nguyện. Ngài cầu nguyện thâu đêm với Đức Chúa Trời. 13 Sáng hôm sau, Ngài gọi các môn đồ đến và chọn mười hai người, gọi là “sứ đồ.” 14 Các sứ đồ gồm có: Si-môn (được Ngài đặt tên là Phi-e-rơ) và em trai là Anh-rê, Gia-cơ, Giăng, Phi-líp, Ba-thê-lê-my, 15 Ma-thi-ơ, Thô-ma, Gia-cơ con trai A-phê, Si-môn, cũng được gọi là Xê-lốt, 16 Giu-đa con trai Gia-cơ, và Giu-đa Ích-ca-ri-ốt, là kẻ về sau sẽ phản Ngài. 17 Rồi Chúa Giê-xu cùng họ từ trên núi xuống đến một chỗ đất bằng. Rất đông các môn đồ của Ngài đang ở đó cùng với đoàn dân đông đến từ Giu-đê, Giê-ru-sa-lem cũng như vùng duyên hải Ty-rơ và Si-đôn. 18 Họ đến để nghe Ngài giảng dạy và để được Ngài chữa bệnh. Những người bị uế linh quấy nhiễu cũng được chữa lành. 19 Mọi người trong đoàn dân đều cố chạm vào Ngài vì quyền năng chữa bệnh từ Ngài phát ra, và Ngài chữa lành cho tất cả mọi người. 20 Rồi Ngài nhìn các môn đồ và nói: “Phước cho anh em là người nghèo, vì vương quốc Đức Chúa Trời thuộc về anh em. 21 Phước cho anh em là kẻ đói khát, vì sẽ được no đủ. Phước cho anh em là kẻ đang than khóc, vì sẽ được vui cười. 22 Phước cho anh em khi anh em vì cớ Con Người mà bị người ta thù ghét, cô lập và bị người ta đối xử với tên tuổi của mình như kẻ bất hảo. 23 Hãy hân hoan và nhảy lên mừng rỡ vì chắc chắn anh em sẽ được phần thưởng rất lớn ở trên trời, vì tổ phụ của họ cũng đã đối xử với các đấng tiên tri như vậy. 24 Nhưng khốn cho anh em là những người giàu có! Vì anh em đã hưởng được nguồn an ủi của mình rồi. 25 Khốn cho anh em là những người đang no nê, vì sau này anh em sẽ đói. Khốn cho anh em là những người đang cười! Vì sau này anh em sẽ khóc lóc và thở than. 26 Khốn cho anh em khi được mọi người khen ngợi! Vì tổ phụ của họ cũng đối đãi với các tiên tri giả như vậy. 27 Nhưng, tôi nói với anh em đang nghe tôi đây, hãy yêu kẻ thù và đối xử tốt với những người ghét anh em. 28 Hãy cầu phước cho người nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi anh em. 29 Ai vả vào má bên này của anh em, hãy đưa luôn má bên kia cho họ. Ai cướp đoạt áo ngoài của anh em, thì cũng đừng cố giữ lại áo trong làm gì. 30 Ai xin gì hãy cho. Ai chiếm hữu vật gì của anh em thì đừng đòi lại. 31 Anh em muốn người ta làm gì cho mình, hãy làm điều đó cho họ. 32 Nếu anh em chỉ yêu người yêu mình, thì có gì đáng khen? Vì ngay cả người tội lỗi cũng yêu kẻ yêu mình. 33 Nếu anh em chỉ đối tốt với những người đối tốt với mình thì có gì đáng khen? Những người tội lỗi cũng làm như vậy. 34 Nếu anh em chỉ cho mượn để rồi mong người ta trả lại thì có gì tốt? Ngay cả người có tội cũng cho người có tội mượn, và mong được trả lại đủ số. 35 Nhưng hãy yêu kẻ thù của mình và đối xử tốt với họ. Hãy cho họ mượn và đừng nghĩ đến việc đòi lại, thì phần thưởng của anh em sẽ rất lớn. Anh em sẽ là con của Đấng Chí Cao, vì chính Ngài vẫn nhân từ đối với kẻ vô ơn, người độc ác. 36 Hãy có lòng thương xót, cũng như Cha anh em là Đấng hay thương xót. 37 Đừng xét đoán ai thì anh em sẽ không bị đoán xét. Đừng lên án ai thì anh em sẽ không bị lên án. Hãy tha thứ thì anh em sẽ được tha thứ. 38 Hãy cho đi thì anh em sẽ được cho lại. Họ sẽ đong thật nhiều – nhận, lắc cho đầy tràn – và đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em dùng chuẩn nào để lường thì người ta cũng sẽ dùng chuẩn đó mà lường lại cho anh em.” 39 Rồi Ngài cũng kể cho họ một ẩn dụ: “Người mù có dẫn đường cho người mù khác được không? Nếu làm vậy, chắc chắn cả hai sẽ rơi xuống hố. 40 Môn đồ giỏi hơn thầy mình, nhưng nếu được huấn luyện đầy đủ, môn đồ sẽ giống như thầy. 41 Sao anh em thấy mẩu rơm bé tí trong mắt anh em mình mà không thấy khúc cây trong mắt mình? 42 Sao anh em có thể nói với anh em mình rằng: ‘Anh ơi, để tôi lấy mẩu rơm trong mắt anh ra’ khi chính anh em còn chẳng thấy khúc cây trong mắt mình? Đồ đạo đức giả! Trước hết hãy lấy khúc cây trong mắt mình ra đã, rồi mới nhìn thấy rõ mà lấy mẩu rơm trong mắt anh em mình. 43 Vì cây tốt thì không sinh trái xấu, mà cây xấu cũng không sinh trái tốt. 44 Xem trái thì biết cây. Vì không ai đi thu hoạch trái vả trong bụi gai, hay đi hái nho nơi bụi tầm xuân. 45 Người thiện do điều thiện tích lũy trong lòng mà sinh ra việc thiện, còn người ác do điều ác chất chứa trong lòng mà sinh ra việc ác. Vậy, do lòng đầy tràn mà miệng nói ra. 46 Sao anh em gọi tôi: ‘Lạy Chúa, lạy Chúa,’ mà không làm theo lời tôi dạy? 47 Tôi cho anh em biết, người đến với tôi, nghe và vâng giữ lời tôi sẽ thế nào. 48 Người ấy giống như một người xây nhà, đào đất xuống thật sâu và đặt móng nhà trên vầng đá. Khi nước lụt tràn đến, dòng nước ập vào nhà ấy, nhưng không thể lay động được, vì nhà đã được lập nền vững chắc. 49 Còn người nghe lời tôi mà không làm theo thì giống như kẻ xây nhà trên đất mà không có nền móng. Khi nước lũ đổ ập vào nhà ấy thì nó liền bị sập và hư hại hoàn toàn.”
Bấy giờ Chúa Giê-xu và các môn đồ Ngài đi ngang qua một ruộng lúa trong khi đó một số người Pha-ri-si bắt đầu chất vấn các môn đồ về việc họ đang làm trong ngày Sa-bát, mà thiếu theo luật pháp của Chúa, thì ngày đó phải được dành riêng cho Chúa.
Đại từ “các ông” ở đây là số nhiều, nói đến các môn đồ.
Ở đây, cụm từ này được dùng để mở đâu cho một phần mới trong câu chuyện. Nếu ngôn ngữ của bạn có cách thức để diễn đạt ý nầy, bạn có thể xem xét sử dụng nó ở đây.
Trong trường hợp nầy, đây là những phần đất rộng lớn mà người ta đã gieo hột giống lúa mì và chúng sẽ phát triển lên tại đó.
Đây là phần cao nhất của cây lúa_ loại cây thân cỏ. Phần nầy chứa những hạt lúa đã chín của cây.
Cụm từ nầy có thể được dịch là: “Sao ngươi bứt bông lúa trong ngày Sa-bát?" Đây là câu hỏi tu từ, ngụ ý: "Bứt bông lúa trong ngày Sa-bát là trái với luật pháp của Đức Chúa Trời!" Chữ "các ngươi" ở dạng số nhiều, chỉ các môn đồ.
Đây là phần đầu của một câu hỏi tu từ. Chúa Giê-xu đang nhẹ nhàng quở trách họ vì không chịu học hỏi từ đó. Cụm từ nầy có thể được dịch là "Chắc chắn các ngươi đã đọc" (Tham khảo bản dịch UDB) hay "Các ngươi nên học hỏi từ những gì các ngươi đã đọc"
"bánh thánh" hay "bánh đã được dâng cho Đức Chúa Trời"
Cụm từ nầy có thể được dịch là: "Ta, Con Người". Chúa Giê-xu đang nói về mình.
"chủ của ngày Sa-bát". Cụm từ nầy có thể được dịch là "có quyền quyết định điều gì dân sự có thể làm trong ngày Sa-bát” (Tham khảo bản dịch UDB)
Các thầy thông giáo và người Pha-ri-si dòm ngó khi Chúa Giê-xu chữa lành cho một người bị teo bàn tay phải vào ngày Sa-bát.
Bấy giờ là một ngày Sa-bát khác và Chúa Giê-xu đang ở trong nhà hội.
Cụm từ nầy được dùng để mở đầu một phần mới trong câu chuyện. Nếu ngôn ngữ của bạn có cách để diễn đạt ý nầy, bạn có thể xem xét sử dụng nó ở đây.
Bàn tay của người nầy bị tổn thương thể nào đó khiến người không thể duỗi thẳng tay được. Có lẽ nó gần như bị dồn lại thành như nắm đấm vậy, khiến bàn tay người nhỏ hơn và nhăn nheo.
"theo dõi Chúa Giê-xu cách cẩn thận"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "vì họ muốn tìm ra"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "trước mặt mọi người" (Tham khảo bản dịch UDB). Chúa Giê-xu muốn người nầy đứng ra chỗ mà mọi người đều có thể nhìn thấy người.
"cùng những người Pha-ri-si"
Đây là một phần trong câu hỏi tu từ. Chúa Giê-xu muốn người Pha-ri-si suy nghĩ và thừa nhận rằng việc chữa bệnh trong ngày Sa-bát là hợp pháp. Cụm từ nầy có thể được dịch là "Điều nào là hợp pháp? Làm việc lành" hay "Luật pháp Môi-se cho phép chúng ta làm gì?"
"nên giúp đỡ hay làm hại ai đó"
"giơ tay ngươi ra" hay "giang rộng tay ngươi ra"
"được chữa lành"
Sau khi đã cầu nguyện thâu đêm, Chúa Giê-xu chọn mười hai môn đồ.
Cụm từ nầy được dùng ở đây mở đầu một phần mới của câu chuyện. Nếu ngôn ngữ của bạn có cách thức diễn đạt khác thì bạn có thể xem xét áp dụng ở đây.
"trong khoảng thời gian đó" hay "không lâu sau đó" hoặc "một ngày không lâu sao đó”
"Đức Chúa Giê-xu đi lên"
"Ngài chọn mười hai người trong bọn họ" hay "Ngài chọn mười hai người trong vòng các môn đồ"
"và Ngài gọi họ là “sứ đồ"” hay "Ngài chỉ định họ làm các sứ đồ" hoặc "Ngài lập họ làm sứ đồ"
Cụm từ giới thiệu tên nầy được thêm vào bản dịch ULB để làm rõ nội dung của bản danh sách nói về điều gì. Có thể một vài dịch giả không đưa cụm từ nầy ra.
"Anh-rê em Si-môn"
có thể hiểu: 1) "người Xê-lốt" hay 2) "người nhiệt huyết". Ý nghĩa đầu tiên ngụ ý rằng ông là thành viên trong nhóm những người muốn giải phóng dân Do thái ra khỏi ách thống trị của người Lamã. Cụm từ nầy có thể được dịch là "người yêu nước" hay "người theo chủ nghĩa dân tộc". Ý nghĩa thứ hai cho thấy rằng ông là người sốt sắng muốn làm vinh hiển Đức Chúa Trời. Cụm từ nầy có thể được dịch là "sôi nổi".
Cụm từ nầy có thể được dịch là "phản bội bạn mình" hay "nộp bạn mình cho kẻ thù" hay "đặt bạn mình vào tình thế nguy hiểm khi đi thông tin cho kẻ thù biết về người đó"
Dù đặc biệt Chúa Giê-xu đang nói với các môn đồ Ngài, nhưng có nhiều người cũng ở đó lắng nghe Ngài.
"với mười hai người mà Ngài đã chọn" hay "với mười hai sứ đồ của Ngài"
Cụm từ nầy có thể được dịch sang thể chủ động là "và để Chúa Giê-xu chữa bệnh cho mình". Nếu như vẫn chưa rõ để người đọc hiểu rằng Chúa Giê-xu thực sự đã chữa lành cho họ, thì bạn có thể trình bày rõ ràng như sau: “và Chúa Giê-xu đã chữa lành cho họ"
"bị tà linh quấy phá". Cụm từ nầy cũng có thể được dịch thành "bị tà linh điều khiển" hay "bị tà linh cầm giữ”. Tham khảo bản dịch UDB để xem cách dịch với câu chủ động.
Cụm từ nầy có thể được dịch sang thể chủ động như "Chúa Giê-xu cũng chữa lành". Nếu nói rằng người ta đã được chữa lành khỏi các tà linh nghe không tự nhiên thì bạn có thể dịch thành "Chúa Giê-xu đã giải phóng họ” hoặc “Chúa Giê-xu khiến các tà linh lìa khỏi họ”
Cụm từ nầy có thể được dịch là "Ngài có quyền phép để chữa lành cho người ta"
Cụm từ nầy được lặp đi lặp lại ba lần. Mỗi lần như vậy, cụm từ này cho thấy Đức Chúa Trời đang ban ơn cho ai đó hoặc hoàn cảnh của họ là khả quan hoặc suôn sẻ.
"Các ngươi là những người nghèo khó sẽ nhận lãnh ơn của Đức Chúa Trời" hay "Các ngươi là những người nghèo khó sẽ có lợi" hay "Thật lấy làm tốt thay cho các ngươi là những người nghèo khó" hoặc "Ích lợ thay cho các ngươi là những người nghèo khó"
Một số ngôn ngữ không có từ mô tả vương quốc, thì có thể dịch là, “vì Đức Chúa Trời là vua của các ngươi” hoặc “vì Đức Chúa Trời là Đấng cai trị của các ngươi.”
"vương quốc của Đức Chúa Trời thuộc về các ngươi". Cụm từ nầy nghĩa 1) "các ngươi thuộc về vương quốc của Đức Chúa Trời" hay 2) "các ngươi sẽ có thẩm quyền trong vương quốc của Đức Chúa Trời". Nếu ở bạn không có từ nào để chỉ về “kingdom” (vương quốc) thì các thể nói: “Đức Chúa Trời là vua các ngươi" hay "Đức Chúa Trời là người cai trị ngươi""
"các ngươi sẽ vui cười " hay "các ngươi sẽ được vui mừng"
“Các ngươi nhận được ơn của Đức Chúa Trời” hay “các ngươi có lợi” hoặc “Thật tốt cho các ngươi”
"xua đuổi các ngươi" hay "chối bỏ các ngươi"
Tham khảo cách dịch: "chối bỏ các ngươi"
"bởi vì Con Người" hay "vì các ngươi hiệp với Con Người" hoặc "vì họ chối bỏ Con Người"
"khi họ làm những việc ấy" hay "khi điều đó xảy ra"
"trả công hậu hĩnh" hay "những phần thưởng lớn vì cớ điều đó"
Cụm từ nầy được lặp đi lặp lại ba lần. Cụm từ nầy trái ngược với "phước cho các ngươi". Mỗi lần như vậy, nó cho thấy cơn giận của Đức Chúa Trời nhằm thẳng vào dân sự, hoặc một điều gì đó tiêu cực hoặc xấu đang chờ đợi họ.
“Thật khủng khiếp dường bao cho các ngươi là những kẻ giàu có” hay "hoạn nạn sẽ đến với các ngươi là người kẻ giàu có". Cụm từ nầy có thể được dịch là “Hỡi những kẻ giàu có, đáng buồn thay cho các ngươi” hoặc “Hỡi những kẻ giàu có, các ngươi sẽ có rầu rĩ dường bao”
"điều an ủi anh em” hoặc “điều làm anh em thỏa mãn” hoặc “điều làm anh em vui”
"những kẻ bao tử đã no đầy" hay "những kẻ hiện ăn uống no say"
"những kẻ hiện đang vui vẻ"
“Kinh khiếp thay cho các ngươi” hay “Hoạn nạn sẽ xảy đến cùng các ngươi” hoặc “Các ngươi sẽ phải buồn bã dường nào” hoặc “Các ngươi sẽ phải rầu rĩ”
Nghĩa là "Khi hết thảy mọi người" hay "Khi ai nấy"
"khen tặng các tiên tri giả"
Chúa Giê-xu tiếp tục nói với các môn đồ Ngài và đoàn dân đông cũng đang lắng nghe Ngài.
Phải liên tục thực hiện từng mạng lịnh trong số bốn mạng lệnh nầy, không phải chỉ một lần là đủ.
"quan tâm đến kẻ thù mình" hay "làm ơn cho kẻ thù"
"kẻ nào thường rủa sả mình"
"những kẻ hay ngược đãi mình"
"Nếu ai đánh"
"một bên má của ngươi"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "hãy xoay mặt để người vả luôn má bên kia"
"đừng ngăn họ giật lấy"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "Nếu ai xin ngươi điều gì, hãy cho họ điều đó”
"đừng buộc người" hay "đừng yêu cầu"
Trong một số ngôn ngữ, câu văn nghe sẽ tự nhiên hơn khi đảo trật tự từ trong câu. "Các ngươi nên làm cho người ta những điều các ngươi muốn họ làm cho mình" hay "Hãy đối xử với người ta theo cách các ngươi muốn họ đối xử với mình".
Đây là câu hỏi tu từ. Có thể dịch thành lời tuyên bố "Các ngươi sẽ chẳng nhận được ơn gì cho điều đó” hoặc "Làm thế thì các ngươi sẽ được khen ngợi gì?” hay "Có ai cho rằng các ngươi đã làm một việc thật đặc biệt chăng?" hoặc "Các ngươi sẽ nhận được phần thưởng gì chứ?"
"các ngươi sẽ nhận được phần thưởng lớn" hay "các ngươi sẽ được trả công hậu hỉnh" hoặc "các ngươi sẽ nhận được nhiều sự ban cho tốt lành vì cớ việc ấy"
Cụm từ "con của" là cách nói văn vẻ mang nghĩa là "giống như". Cụm từ nầy ý nói rằng những người yêu kẻ thù mình đang làm giống Đức Chúa Trời. Cụm từ nầy có thể được dịch là "Các ngươi cư xử giống như con cái của Đức Chúa Trời Chí Cao" hay "các ngươi sẽ giống như Đức Chúa Trời Chí Cao". Phải chắc chắn rằng từ "con cái" ở dạng số nhiều để không bị nhầm lẫn với danh hiệu "Con Đức Chúa Trời" thuộc về Chúa Giê-xu.
"những kẻ không hề cảm tạ Ngài và kẻ gian ác"
Cụm nầy nói về Đức Chúa Trời. Có thể diễn đạt rõ hơn:"Cha các ngươi ở trên trời".
"Đừng xét đoán người khác" hay "Đừng chỉ trích người khác"
Tham khảo: “Vì vậy"
Chúa Giê-xu không nêu rõ ai sẽ không đoán xét họ. Có thể hiểu: 1) "Đức Chúa Trời sẽ không đoán xét các ngươi" hay 2) "Không ai đoán xét các ngươi". Cả hai cách dịch đều nêu rõ ai sẽ không đoán xét họ.
"Đừng lên án ai"
Chúa Giê-xu không nếu rõ ai sẽ không lên án họ. Có thể hiểu: 1) "Đức Chúa Trời sẽ không lên án các ngươi" hay 2) "Không ai lên án các ngươi". Cả hai bản dịch nầy đều nêu rõ ai sẽ không lên án họ.
Chúa Giê-xu không nói rõ ai sẽ tha thứ. Có thể hiểu: 1) "Đức Chúa Trời sẽ tha thứ các ngươi" hay 2) "Họ sẽ tha thứ các ngươi". Bản dịch thứ nhứt nêu rõ ai sẽ tha thứ cho họ.
Chúa Giê-xu không nói cụ thể ai sẽ cho. có thể hiểu: 1) “ai đó sẽ cho lại các ngươi” hay 2) "Đức Chúa Trời sẽ ban lại các ngươi". Cả hai bản dịch nầy đều nêu rõ người cho.
Có thể đảo ngược vị trí trong câu và chuyển sang thể chủ động. "Họ sẽ đổ đầy vạt áo ngươi sau khi đã nhận xuống và lắc cho đến khi đầy tràn ra ngoài”. Chúa Giê-xu dùng ẩn dụ về người buôn gạo ban cho một số lượng gạo lớn. Có thể dùng phép so sánh để dịch câu nầy. "như một người người ép chặt gạo xuống, lắc và đổ nhiều gạo đến nỗi tràn ra ngoài, họ sẽ rời rộng ban cho các ngươi như vậy”
"một lượng lớn"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "Người ta cũng sẽ dùng đấu đó mà đong lại cho các ngươi " hay "Người ta sẽ đong lại cho các ngươi bằng đúng tiêu chuẩn đó”
Chúa Giê-xu lồng vào một số ví dụ để làm rõ điểm Ngài đang nói.
Chúa Giê-xu đặt ra câu hỏi nầy để khiến đoàn dân nghĩ đến điều mà họ đã biết sẵn. Cụm từ nầy có thể được dịch là "Người mù không thể dắt người mù, có đúng vậy không?" hay "Chúng ta đều biết rằng người mù không thể dắt một người mù khác".
Một số nơi có lẽ chọn dịch là: "nếu như vậy"
Đây là một câu hỏi tu từ, có thể dịch thành "Lẽ nào cả hai sẽ không té xuống hố sao?" hay "Cả hai người sẽ té xuống cái hố" (Tham khảo bản dịch UDB).
Cụm từ nầy một là nói 1) "môn đồ không hiểu biết hơn thầy mình" hay 2) "môn đồ không có quyền hơn thầy mình". Cụm từ nầy có thể được dịch là "môn đồ không trội hơn thầy mình".
"môn đồ nào đã được huấn luyện tốt". Cụm từ nầy có thể được dịch sang thể chủ động: "môn đồ nào đã xong khóa huấn luyện” hoặc “môn đồ nào đã được thầy truyền đạt đầy đủ kiến thức”
Đây là ẩn dụ cho hành động xét nét hoặc xét đoán người khác. Cụm từ nầy có thể được dịch giống như một sự sánh trong bản dịch UDB. "Sao các ngươi để ý ... Việc đó giống như ..."
Cụm từ nầy có thể được dịch là "mảnh vụn" hoặc "hạt bụi".
Ở đây cụm từ nầy chỉ về những anh em đồng huơng Do thái hoặc một người anh em cũng đi theo Chúa Giê-xu.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "cây đòn gỗ" hay "tấm ván"
Chúa Giê-su so sánh con người với hai loại cây tốt và cây xấu.
"bởi vì". Từ nầy liên kết sự thật rằng tính cách của chúng ta rồi sẽ bị phô bày như một lí do tại sao chúng ta không nên đoán xét anh em mình.
"cây khoẻ"
“bị thối". Từ nầy có thể được dịch là "xấu".
"nhận ra ". Cụm từ nầy có thể được dịch với một động từ chủ động, như "người ta biết cây" hay "người ta nhận biết một cây"
Loại trái ngọt. Cây vả không có gai.
một loại cây hay cây bụi có gai
Loại trái có vị ra từ dây nho. Cây nho không có gai.
Một loại dây leo hoặc cây bụi có gai.
Chúa Giê-xu so sánh tư tưởng của con người với của cải trên đất.
"người lành". Chữ "lành" ở đây đề cập đến công bình hay sự nhơn đức về mặt đạo đức. Từ ngữ "người" ở đây đề cập đến một người, nam hay nữ. Cụm từ nầy có thể được dịch là "người lành" hay "người nhơn đức".
"những việc lành người giữ ở trong lòng" hay "những gì người đánh giá cao"
Tham khảo: “sống đời sống thiện lành” hoặc “sống đời sống bày tỏ điều thiện.”
"những việc lành"
"những gì người nghĩ trong lòng tác động người nói ra với miệng mình" hay "những gì người đánh giá cao trong lòng quyết định điều người thốt ra nơi miệng mình". Cụm từ nầy có thể được dịch mà không cần tham khảo đến miệng và lòng, tỉ như "những gì một người nói ra cho thấy những gì người thường xuyên suy nghĩ đến" hay "những gì người suy nghĩ đến tác động những điều người nói ra"
*Ẩn dụ nầy so sánh một người cất nhà trên vầng đá với một người sống đời sống mình chiếu theo sự dạy dỗ của Chúa Giê-xu.
"cái nền" hay "nâng đỡ"
Đây là vầng đá rộng, cứng đặt sâu ở dưới đất.
"đào nền nhà cho sâu đủ để dựng lên" hay "xây nhà trên vầng đá". Một số xã hội có thể không quen thuộc với việc xây nhà trên nền đá. Trong các trường hợp đó, cụm từ nầy có thể được dịch theo một cách tổng quát hơn, tỉ như "đặt nền nhà vững chắc trên đất cứng".
"nước chảy nhanh" hay "sông"
"đổ sầm vào"
"vì người kia đã cất chắc chắn"
Ẩn dụ nầy so sánh một người cất nhà không có nền với người không vâng theo sự dạy của Chúa Giê-xu.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "nhưng người không đào sâu xuống và dựng nền trước tiên"
"cái nền" hay "nâng đỡ"
"dòng nước chảy nhanh" hay "sông"
"đổ sầm vào"
"sụm xuống" hay "nát rời ra"
Họ đang bức gié lúa, lấy tay vò đi và ăn.
Người nào nghèo khó, đói khát, khóc lóc, và bị ghét vì cớ Con Người sẽ được phước.
Người nào nghèo khó, đói khát, khóc lóc, và bị ghét vì cớ Con Người sẽ được phước.
Họ sẽ yêu thương kẻ thù của họ và làm lành cho người nào ghét họ.
Họ sẽ yêu thương kẻ thù của họ và làm lành cho người nào ghét họ.
Ngài lấy nhân từ và lòng thương xót đối đãi họ.
Những gì phát ra từ tấm lòng của người lành là điều thiện.
Những gì phát ra từ tấm lòng của kẻ ác là điều ác.
Người ấy nghe lời của Chúa Giê-xu mà không vâng theo lời ấy.
1 Sau khi Chúa Giê-xu nói xong mọi điều Ngài phán bảo với dân chúng thì Ngài vào thành Ca-bê-na-um. 2 Đầy tớ của một viên đội trưởng được ông rất yêu quý đang bệnh nặng, sắp chết. 3 Khi nghe nói về Chúa Giê-xu, ông liền nhờ các trưởng lão người Do Thái đến gặp Ngài, xin Ngài đến cứu sống đầy tớ mình. 4 Họ đến gần và khẩn khoản nài xin Ngài, rằng: “Ông ấy xứng đáng được Thầy giúp đỡ, 5 vì ông ta thương yêu dân tộc chúng ta, và đã từng xây nhà hội cho chúng ta.” 6 Vậy là Chúa Giê-xu lên đường đi với họ. Nhưng khi Ngài gần đến nơi, viên đội trưởng nhờ mấy người bạn ra thưa với Ngài rằng: “Lạy Chúa, tôi không dám phiền Ngài, vì tôi không xứng rước Ngài vào nhà. 7 Vì lý do này mà tôi thậm chí thấy mình không xứng đáng để đến gặp Ngài, nên xin Ngài chỉ phán một lời thì đầy tớ tôi sẽ được lành. 8 Vì chính tôi là thuộc cấp của người khác và tôi cũng có lính dưới quyền của mình. Tôi nói với tên này: ‘Hãy đi,’ thì nó đi, và nói với tên khác rằng: ‘Hãy đến’ thì nó đến, và nói với tôi tớ tôi rằng: ‘Hãy làm việc này,’ thì nó làm.” 9 Nghe thấy vậy, Chúa Giê-xu rất ngạc nhiên về viên đội trưởng. Ngài quay sang đoàn dân đông đang đi theo mình và nói: “Tôi nói cho anh em biết, tôi chưa từng thấy người nào có đức tin lớn như vậy trong cả xứ Y-sơ-ra-ên.” 10 Những người được sai đi trở về nhà thì thấy người đầy tớ đã khỏe mạnh. 11 Sau đó ít lâu, Chúa Giê-xu đến một thành nọ có tên là Na-in. Các môn đồ và đoàn dân đông đi theo Ngài. 12 Đến gần cổng thành thì họ thấy người ta đang khiêng một người chết đi ra, đó là con trai duy nhất của một góa phụ. Có khá nhiều người trong đoàn đưa tang cùng đi với bà. 13 Nhìn thấy bà, Chúa vô cùng xúc động vì cảm thương bà, nên Ngài nói với bà: “Đừng khóc.” 14 Rồi Ngài tiến đến chạm tay vào cán gỗ khiêng xác chết, thì những người khiêng dừng lại. Ngài nói: “Này cậu trai, tôi truyền cho cậu, hãy dậy.” 15 Người chết ngồi dậy và bắt đầu nói. Chúa Giê-xu giao cậu lại cho mẹ. 16 Tất cả mọi người đều sợ hãi. Họ cứ mãi ngợi khen Đức Chúa Trời rằng: “Một đấng tiên tri vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta” và “Đức Chúa Trời đã đoái xem dân Ngài.” 17 Tin đồn về Chúa Giê-xu lan ra khắp cả xứ Giu-đê và các vùng phụ cận. 18 Các môn đồ của Giăng thuật lại cho ông nghe về mọi điều đó. 19 Giăng cho gọi hai trong số các môn đồ của mình và sai họ đến cùng Chúa, hỏi Ngài: “Thầy có phải là Đấng phải đến, hay chúng tôi phải đợi Đấng khác?” 20 Hai người được sai đi đến gần Chúa Giê-xu và thưa: “Giăng Báp-tít sai chúng tôi đến hỏi Thầy rằng: ‘Thầy có phải là Đấng phải đến, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng khác?’” 21 Vào cùng giờ ấy, Ngài đang cứu chữa nhiều người khỏi các thứ bệnh tật và tà linh, cũng như khiến nhiều người mù được sáng mắt. 22 Chúa Giê-xu đáp: “Khi trở về, hãy thuật lại cho Giăng những gì các anh đã thấy và nghe. Người mù được sáng mắt, người què đi được, người phong hủi được sạch, người điếc nghe được, người chết sống lại, và người thiếu thốn được nghe tin lành. 23 Phước cho người nào không vì cớ những việc làm của tôi mà đánh mất long tin nơi tôi.” 24 Sau khi những sứ giả mà Giăng sai đến đã đi rồi, Chúa Giê-xu nói với đoàn dân đông về Giăng rằng: “Anh em đi xem gì ngoài hoang mạc, một cây sậy bị gió rung chăng? 25 Anh em đi xem gì nữa, một người ăn mặc đẹp chăng? Này, những người ăn mặc lộng lẫy và sống xa hoa thì ở trong cung vua. 26 Vậy, anh em đi xem gì, một đấng tiên tri chăng? Phải, tôi nói để anh em biết, ông ấy còn hơn một đấng tiên tri nữa. 27 Ấy là người mà lời sau đây nói đến: ‘Này, Ta sẽ sai sứ giả Ta đi trước mặt Con, Người sẽ dọn đường cho Con.’ 28 Tôi nói để anh em biết, trong số những người do phụ nữ sinh ra, không ai lớn hơn Giăng, nhưng người tầm thường nhất trong vương quốc Đức Chúa Trời còn lớn hơn ông ấy.” 29 Mọi người, kể cả các nhân viên thu thuế, nghe như vậy, đều công nhận rằng Đức Chúa Trời là công bình. Họ thuộc trong số những người đã chịu phép báp-têm của Giăng. 30 Còn những người Pha-ri-si và các chuyên gia kinh luật, vốn không chịu báp-têm của Giăng, thì chối bỏ sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời dành cho mình. 31 “Tôi sẽ so sánh những người thuộc thế hệ này với ai? Họ giống như gì? 32 Họ giống như bọn trẻ chơi đùa ngoài phố chợ, cứ ngồi đó gọi nhau, mà nói rằng: ‘Bọn tao thổi sáo mà chúng bay không nhảy múa. Bọn tao than vãn mà lũ chúng mày lại chẳng khóc.’ 33 Vì Giăng Báp-tít đến không ăn bánh, cũng chẳng uống rượu, thì các ông nói: ‘Ông ta bị quỷ ám.’ 34 Con Người đến ăn và uống thì các ông bảo: ‘Nhìn kìa, ông ta tham ăn, chè chén, làm bạn với phường thu thuế và người tội lỗi!’ 35 Nhưng sự khôn ngoan được biện minh nhờ kết quả của nó.” 36 Một người Pha-ri-si mời Chúa Giê-xu dùng bữa với mình. Ngài vào nhà người Pha-ri-si ấy và ngồi vào bàn ăn. 37 Trong thành ấy có một người phụ nữ tội lỗi. Chị nghe nói Chúa Giê-xu đang ngồi tại nhà người Pha-ri-si nọ nên tìm đến, đem theo một bình ngọc đựng dầu thơm. 38 Chị đứng đằng sau, nơi chân Chúa Giê-xu mà khóc, nước mắt thấm ướt chân Ngài. Chị lấy tóc mình mà lau, rồi cũng hôn chân Chúa, và xức dầu thơm lên. 39 Người Pha-ri-si đã mời Chúa Giê-xu thấy vậy, nghĩ thầm: “Nếu người này là nhà tiên tri, ông ta hẳn phải biết người đàn bà đang chạm đến mình là ai và thuộc hạng người nào– đó là một người tội lỗi.” 40 Chúa Giê-xu đáp lại với ông: “Ông Si-môn, tôi muốn nói với ông điều này.” Ông ta thưa: “Thưa thầy, xin cứ nói!” 41 Ngài đáp: “Một chủ nợ có hai con nợ, một người nợ năm trăm đơ-ni-ê, người kia nợ năm mươi đơ-ni-ê. 42 Vì họ không có tiền trả nên chủ nợ tha cho cả hai. Vậy, ai trong số hai người đó yêu mến chủ nợ nhiều hơn?” 43 Si-môn đáp: “Tôi nghĩ là người được tha nợ nhiều hơn.” Chúa Giê-xu nói: “Ông đoán đúng lắm.” 44 Ngài quay sang người phụ nữ và nói tiếp với Si-môn: “Ông thấy người phụ nữ này không. Tôi vào nhà ông, ông không lấy nước cho tôi rửa chân, nhưng chị dùng nước mắt thấm ướt chân tôi rồi lấy tóc mình mà lau. 45 Ông không hôn tôi, còn chị, từ lúc tôi vào, đã không ngừng hôn chân tôi. 46 Ông không xức dầu lên đầu tôi, còn chị thì dùng dầu thơm xức chân tôi. 47 Vì thế, tôi cho ông biết rằng người phụ nữ này phạm nhiều tội lắm và đã được tha hết, nên chị yêu mến nhiều, Còn người được tha thứ ít thì yêu mến ít.” 48 Rồi Ngài nói với người phụ nữ: “Tội lỗi chị đã được tha.” 49 Những người ngồi ở đó bắt đầu xôn xao: “Người này là ai mà dám tha tội?” 50 Còn Chúa Giê-xu thì nói với người phụ nữ: “Đức tin của chị đã cứu chị. Hãy đi bình an.”
Chúa Giê-xu vào thành Ca-bê-na-um tại đó Ngài chữa lành cho đầy tớ của viên đội trưởng.
Cụm từ nầy có thể được dịch là, “giảng cho những người đang đứng nghe” hay “cho dân chúng” hoặc “cho dân sự nghe”
"người mà thầy đội xem trọng" hay "người mà thầy đội thương mến"
"vì ông ta đã nghe nói về Chúa Giê-xu"
"cứu đầy tớ mình để nó đừng chết" hay "giữ cho đầy tớ mình khỏi chết"
"Thầy đội xứng đáng"
"đồng bào ta". Cụm từ nầy đề cập đến dân Do thái.
Tham khảo: “gần nhà”
"đừng tự phiền do đi đến nhà của tôi". Cụm từ nầy có thể được dịch là "tôi không muốn quầy rầy ông". Thầy đội đang nói năng lễ phép với Chúa Giê-xu.
"bước vào nhà tôi". "Bước vào nhà tôi" là một thành ngữ. Nếu ngôn ngữ của bạn có một thành ngữ ý nói "vào nhà tôi", hãy suy nghĩ thành ngữ ấy là tốt khi được sử dụng ở đây.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "chỉ ra lịnh thôi". Người đầy tớ hiểu rõ Chúa Giê-xu có thể chữa lành qua việc “phán”.
Cụm từ được dịch ở đây là "đầy tớ" thường được dịch là "con trai". Cụm từ nầy chỉ ra rằng đầy tớ hãy còn trẻ lắm, hay tỏ ra tình cảm của thầy đội dành cho nó.
Cụm từ được dịch ở đây là "đầy tớ" là cụm từ đặc thù nói tới một tôi tớ.
"Ngài rất ngạc nhiên về viên đội trưởng "
Chúa Giê-xu thốt ra cụm từ nầy để nhấn mạnh việc đáng kinh ngạc mà Ngài sắp sửa nói với họ.
Phần ám chỉ cho rằng Chúa Giê-xu trông mong dân Y-sơ-ra-ên phải có loại đức tin nầy, song họ không có. Ngài không mong dân Ngoại có loại đức tin nầy, tuy nhiên người nầy lại có. Bạn có thể thêm phần thông tin theo như Kinh Thánh có.
"người được viên sĩ quan Lamã sai đến cùng Chúa Giê-xu"
Chúa Giê-xu đến thành Na-in, tại đó Ngài chữa lành một người đã chết.
Cụm từ nầy được sử dụng ở đây để đánh dấu phần mở đầu cho chi tiết mới của câu chuyện. Nếu ngôn ngữ của bạn có cách mô tả nầy, bạn có thể xem xét sử dụng cách ấy ở đây.
Đây là tên của một thành phố.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "lối vào thành"
Chữ "khi" báo cho chúng ta phần giới thiệu người chết kia vào câu chuyện. Ngôn ngữ của bạn sẽ có cách giới thiệu việc nầy. Anh ngữ sử dụng "có một người chết...”.
Tham khảo: “người ta đang khiêng một người chết đi ra”
"con trai duy nhứt của một người đàn bà"
Đây là thông tin bối cảnh về người phụ nữ.
Đây là người đàn bà có chồng đã qua đời.
"cảm thấy đau buồn cho người"
Một số ngôn ngữ sẽ nói "rồi đi tới" hay "đến gần nhóm"
Đây là cái cán hoặc giường được sử dụng để chuyển thi hài ra nơi chôn cất. Không phải là thứ đựng thi thể ở trong.
Chúa Giê-xu phán câu nầy để nhấn mạnh thẩm quyền của Ngài. Nó có nghĩa là "hãy nghe Ta!"
"người đã chết". Người không phải mới chết; người đã chết.
Phần này nói đến kết quả của việc Chúa Giê-xu gọi người đã chết sống lại.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "sợ hãi bắt lấy từng người một" hay "hết thảy họ đều lo sợ"
Họ đang nói tới Chúa Giê-xu, chớ không phải nói tới vị tiên tri chưa xác định. Cụm từ nầy có thể được dịch là "Vị tiên tri lỗi lạc nầy"
"đã đến ở cùng chúng ta" hay "đã hiện ra cùng chúng ta" hoặc "chúng ta đã thấy"
"quan tâm đến"
“Tin đồn này” nói đến những việc mà người ta đã nói trong câu 16. Tham khảo: “Dân chúng đồn tin này về Chúa Giê-xu” hoặc “Người ta đồn với người khác về việc này của Chúa Giê-xu.”
"Lời nầy" hay "sứ điệp nầy"
Giăng sai hai môn đồ của ông đến hỏi Chúa Giê-xu.
"nói cho Giăng biết"
"mọi chuyện mà Chúa Giê-xu đã làm"
"(Giăng) sai họ đến cùng Chúa, bảo họ phải hỏi (Chúa Giê-xu)"
Đây chắc chắn là một cách người ta nói tới Đấng sẽ đến
"chúng tôi phải đợi" hay "chúng tôi phải trông Đấng hầu đến"
"lúc bấy giờ"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "buông tha người ta ra khỏi các tà linh"
"hạng người khốn khó"
"nói cho Giăng biết"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "Phước cho người nào tin ta không dứt vì cớ những việc làm của ta"
Một khi đây không phải là một nhân vật đặc biệt, cụm từ nầy có thể được dịch là "người nào" hay "bất kỳ ai" hoặc "hễ ai".
"tiếp tục”
"hoàn toàn tin cậy ta"
Chúa Giê-xu bắt đầu nói với đoàn dân về Giăng Báp-tít.
Chúa Giê-xu dùng cụm từ này trong ba câu hỏi để khiến người ta nghĩ về con người của Giăng Báp-tít. Tham khảo: “Các ngươi đi xem gì…gió? Tất nhiên là không!” hoặc “Chắc chắn các ngươi không đi xem…gió!”
Ẩn dụ nầy cũng có thể được dịch như một sự ví sánh: "một người giống như cây sậy bị gió rung". Có hai cách giải thích khả thi. 1) Loài sậy dễ bị gió rung, vì vậy nó có thể đề cập đến một người dễ bị tác động để đổi ý của mình. 2) Loài sậy tạo ra tiếng ồn khi gió thổi mạnh, cũng vậy nó có thể đề cập đến một người hay nói nhiều nhưng sự nói của người ấy chẳng kết quả nơi một việc gì quan trọng
"mặc quần áo đắt tiền". Hạng người giàu có ăn mặc loại quần áo nầy.
đền đài là ngôi nhà rộng rãi, đắt tiền có vua chúa ở trong đó.
"nếu các ngươi không đi ra để xem việc ấy, thế thì"
Chúa Giê-xu phán điều nầy để nhấn mạnh tầm quan trọng của những điều Ngài sẽ phán kế đó.
"không phải một tiên tri bình thường đâu" hay "quan trọng hơn tiên tri bình thường"
“Đấng tiên tri đó là Đấng mà các tiên tri đã viết về” hoặc “Giăng là người mà các tiên tri đã viết về từ đời xưa”
Trong câu này, Chúa Giê-xu đang trích dẫn lời của tiên tri Ma-la-chi và nói rằng Giăng là sứ giả mà Ma-la-chi đã nói đến.
“trước mặt ngươi” hoặc “đi trước mặt ngươi”
Từ “của ngươi” là từ số ít vì Đức Chúa Trời đang phán với Đấng Mê-si-a trong phần trích đó.
Chúa Giê-xu đang phán cùng đoàn dân đông, vì vậy "các ngươi" ở số nhiều. Chúa Giê-xu phán điều nầy để nhấn mạnh sự thật về việc đáng ngạc nhiên mà Ngài sắp sửa nói tới.
"giữa vòng những người cùng với người mà một người nữ sanh ra". Đây là lối nói đề cập đến mọi người. Cụm từ nầy cũng có thể được dịch là "trong mọi người đã từng sống"
Cụm từ nầy có thể được dịch một cách tích cực là "Giăng là người quan trọng nhất".
Câu này nói đến bất kỳ ai thuộc về vương quốc mà Đức Chúa Trời sẽ thiết lập.
"tình trạng thuộc linh cao cả hơn Giăng"
Lu-ca, trước giả của sách này, bình luận về cách người ta đáp ứng với Giăng và Chúa Giê-xu.
“họ nói rằng Đức Chúa Trời đã tỏ ra Ngài là Đấng công bình” hoặc “họ tuyên bố rằng Đức Chúa Trời đã hành động một cách công bình”
"họ chịu Giăng làm phép báptêm" hay "Giăng đã làm phép báp-têm cho họ"
Điều nầy dường như ám chỉ rằng vì họ đã chối bỏ phép báptêm của Giăng, đã không được sửa soạn về mặt thuộc linh để tiếp nhận ý chỉ của Đức Chúa Trời dành cho họ.
“những người Giăng không làm phép báptêm cho" hay "họ đã từ chối không chịu Giăng làm phép báptêm cho" hoặc "họ đã từ chối phép báp têm của Giăng"
"chọn bất tuân những gì Đức Chúa Trời đã dạy dỗ họ" hay "đã chọn không tin theo ý muốn của Đức Chúa Trời"
Chúa Giê-xu tiếp tục nói với đám đông về Giăng Báp-tít.
Chúa Giê-xu dùng các câu hỏi để đưa ra một sự so sánh. Tham khảo: “Ta sẽ so sánh dòng dõi này với cái gì? Họ giống như”
Những người hiện đang sống.
Sự ví sánh nầy là phần mở đầu sự so sánh của Chúa Giê-xu. Chúa Giê-xu đang nói rằng dân sự thuộc thế hệ nầy sống giống như con trẻ nầy không thấy thoả lòng với cách thức con trẻ kia xử sự.
Đây là một khu vực rộng thoáng, ở đó dân chúng sẽ đến mà mua đồ dùng của họ.
"nhưng không nhảy múa theo điệu nhạc"
"nhưng bay không khóc lóc với chúng ta"
“không ăn thức ăn.” Câu này không có nghĩa là Giăng không bao giờ ăn đồ ăn. Tham khảo: “thường kiêng ăn.”
Chúa Giê-xu đang trưng dẫn nững điều dân chúng đã nói về Giăng. Cụm từ nầy có thể được dịch như một trưng dẫn gián tiếp: "các ngươi nói rằng người mắc quỉ dữ" hay "các ngươi cáo người về việc mắc quỉ dữ"
Kể từ khi Chúa Giê-xu mong mỏi dân chúng ở đó hiểu rõ Ngài là Con Người, cụm từ nầy có thể được dịch là "Ta, Con Người"
Chúa Giê-xu đang trích lại lời người ta nói về Ngài là Con Người. Câu này có thể được nói gián tiếp là, “Các ngươi nói rằng Ta là người phàm ăn.”
"Ngài là kẻ ăn tham" hay "Ngài ăn nhiều thức ăn theo thói quen"
Có lẽ đây là một câu châm ngôn mà Chúa Giê-xu đang ứng dụng vào tình huống nầy, vì người nào chối bỏ cả hai: Ngài và Giăng Báp-tít đều không được khôn ngoan.
Một người Pha-ri-si mời Chúa Giê-xu đến ăn tại nhà mình.
Phong tục vào thời đó là những người đi xem đến dự những bữa ăn tối mà không ăn.
Đây là phần khởi sự của một câu chuyện mới và giới thiệu người Pha-ra-si vào trong câu chuyện.
"ngồi nơi bàn để ăn". Đây là phong tục dành cho một bữa ăn thoải mái như bữa tối dành cho đàn ông ăn trong khi nằm dài bên cái bàn.
"là người đã sống theo cách tội lỗi" hay "là người đã có tiếng sống một đời sống tội lỗi". Nàng có thể là một kỵ nữ.
Người này có thể đã phạm tội tà dâm. Tham khảo: “một người sống đời sống tội lỗi” hoặc “một người nổi tiếng vì đời sống tội lỗi.”
"cái bình bằng đá mỏng". Bình ngọc là một thứ đã mỏng màu trắng. Người ta chứa những thứ quí báu trong loại bình bằng ngọc như thế nầy.
"đựng đầy dầu thơm". Dầu thơm là loại dầu có mùi vị trong đó. Người ta xức dầu ấy trên mình hoặc phun trên quần áo để ngửi cho thơm.
"với mái tóc của nàng"
"người nói với lòng mình"
Người Pha-ri-si tưởng rằng Chúa Giê-xu không phải là một vị tiên tri vì Ngài cho phép người đàn bà tội lỗi rờ đến Ngài. Cụm từ nầy có thể được dịch là "rõ ràng Chúa Giê-xu không phải là một vị tiên tri. Nếu Ngài là tiên tri, ắt Ngài sẽ biết".
Đây là tên của người Pha-ri-si đã mời Chúa Giê-xu vào trong nhà của mình. Đây không phải là Si-môn Phi-e-rơ.
Nhằm nhấn mạnh lời Ngài sẽ phán với Si-môn người Pha-ri-si, Chúa Giê-xu kể cho ông nghe một câu chuyện.
"một chủ nợ kia có hai con nợ"
"tiền công của 500 ngày". "Đơ-ni-ê" là số nhiều.
"tiền công 50 ngày"
"Khi họ không có tiền để trả lại"
"chủ nợ tha nợ của họ" hay "chủ nợ huỷ nợ của họ"
Si-môn dè dặt nơi câu trả lời của mình. Cụm từ nầy có thể được dịch là "có lẽ".
"Ngươi nói đúng"
"đối diện với người đàn bà". Chúa Giê-xu đã hướng sự chú ý của Si-môn về người đàn bà bằng cách xây về phía nàng.
Đây là cách thức tỏ ra phép lịch sự dành cho khách mời. Chúa Giê-xu đang đối chiếu chỗ thiếu lịch sự của Si-môn với những hành động cực kỳ biết ơn của người đàn bà.
thái độ nầy có thể được tỏ ra một cách tích cực như "tiếp tục hôn chân ta"
"xức dầu lên đầu ta". Đây là cách tiếp đón một vị khách danh dự. Cụm từ nầy có thể được dịch là "tiếp đón ta bằng cách xức dầu lên đầu ta"
Mặc dù có lẽ đây là cách làm phổ thông, người đàn bà đã tôn kính Chúa rất nhiều bằng cách làm nầy.
Cụm từ nầy cũng có thể được dịch bằng giọng chủ động với "kẻ nhận được sự tha thứ nhiều" hay "là kẻ Đức Chúa Trời đã tha thứ nhiều"
"đã yêu mến nhiều đấng đã tha thứ cho nàng" hay "cũng đã yêu mến Đức Chúa Trời nhiều". Một số ngôn ngữ đòi hỏi rằng đối tượng của "yêu mến" được nói đến.
"Kẻ được tha ít" hay "hễ ai được tha ít". Trong câu nầy Chúa Giê-xu đưa ra một nguyên tắc bao quát. Tuy nhiên, Si-môn cần phải hiểu rằng Chúa Giê-xu đang nói rằng Si-môn đã yêu mến ít.
"ngươi đã được tha". Cụm từ nầy có thể bày tỏ với một động từ chủ động: "Ta tha tội cho người".
"Vì cớ đức tin ngươi, ngươi đã được cứu". Ý tưởng nói tới "đức tin" có thể được dịch với một động từ: "Vì ngươi tin, ngươi đã được cứu"
Đây là cách nói "tạm biệt" và thêm một lời chúc phước lúc đó. Cụm từ nầy có thể được dịch là "khi ngươi đi, đừng có lo lắng nữa" hay "nguyện Đức Chúa Trời ban bình an cho ngươi khi ngươi đi".
Thầy đội nói ông không đáng để Chúa Giê-xu đến tận nhà ông.
Chúa Giê-xu phán rằng thậm chí trong Y-sơ-ra-ên Ngài không thấy ai có đức tin lớn như vậy.
Họ nói rằng có một tiên tri lớn đã dấy lên giữa vòng họ, và Đức Chúa Trời đã thăm viếng dân Ngài.
Họ nói: "Người mắc quỉ dữ.”
1 Ngay sau đó, Chúa Giê-xu đi đến các thành, các làng khác, rao giảng và công bố tin lành về vương quốc của Đức Chúa Trời, mười hai sứ đồ cùng đi với Ngài, 2 cũng có một số phụ nữ đã được Ngài chữa lành khỏi các thứ bệnh tật và tà linh. Họ gồm Ma-ri, cũng được gọi là Ma-đơ-len, là người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ dữ; 3 Gian-nơ, vợ Chu-xa, quản gia của Hê-rốt; Su-san-nơ; và nhiều phụ nữ khác. Những người phụ nữ này đã dùng tài vật riêng của mình để hỗ trợ cho Chúa Giê-xu và các môn đồ của Ngài. 4 Có một đoàn dân đông đến từ nhiều nơi khác nhau đã tụ tập lại, và Chúa Giê-xu kể cho họ nghe một ẩn dụ: 5 “Một người đi ra gieo giống. Lúc đang gieo, một số hạt giống rơi bên đường bị người ta dẫm lên và chim trời xuống ăn hết. 6 Một số hạt khác rơi nhằm vùng đất đá sỏi, nên vừa khi mọc lên thành cây thì cây bị khô héo, vì không đủ ẩm ướt. 7 Một số hạt khác rơi nhằm bụi gai, gai góc lớn lên cùng với hạt giống và làm cho chúng nghẹt ngòi. 8 Nhưng cũng có một số hạt rơi nhằm nơi đất tốt và kết quả gấp trăm lần hơn.” Sau khi nói xong những lời ấy, Ngài kêu lên: “Ai có tai mà nghe, hãy nghe.” 9 Sau đó, các môn đồ hỏi Ngài ẩn dụ ấy có ý nghĩa thế nào. 10 Chúa Giê-xu đáp: “Anh em được ban cho đặc ân hiểu được những sự huyền nhiệm của vương quốc Đức Chúa Trời, còn những người khác thì chỉ được học qua các ẩn dụ, để họ ‘nhìn mà không thực sự thấy, và nghe mà không thực sự hiểu.’ 11 Ẩn dụ ấy có nghĩa thế này: Hạt giống là lời Đức Chúa Trời. 12 Số hạt rơi bên đường đi là những người nghe lời Chúa, nhưng sau đó ma quỷ đến cướp lời ấy khỏi lòng họ, nên họ không không tin và không được cứu rỗi. 13 Những hạt rơi nhằm vùng đất đá sỏi là những người khi nghe lời Chúa thì vui mừng nhận lấy, nhưng không có rễ; họ chỉ tin trong một thời gian, khi thử thách đến, họ liền sa ngã. 14 Số hạt giống rơi nhằm bụi gai là những người nghe lời Chúa, nhưng bị những lo lắng, tiền của và lạc thú đời này làm cho nghẹt ngòi đi, khiến không đem lại kết quả gặt hái được. 15 Còn số hạt giống rơi nhằm nơi đất tốt là những người sau khi nghe đạo thì lấy lòng thành giữ chặt lấy và nhờ sự kiên trì mà kết quả. 16 Không ai thắp đèn rồi lấy bát úp lại hay để dưới gầm giường, nhưng đặt nó trên chân đèn để mọi người bước vào đều thấy ánh sáng. 17 Vì không có điều gì giấu kín mà không bị lộ ra, cũng chẳng có bí mật nào mà không bị phơi bày trước ánh sáng. 18 Vậy, hãy cẩn thận về cách anh em nghe, vì ai có sẽ được cho thêm; còn ai không có sẽ bị lấy luôn cả điều họ tưởng là mình có.” 19 Mẹ và các em trai của Chúa Giê-xu đến tìm Ngài, nhưng không thể đến gần Ngài được vì quá đông người. 20 Người ta báo với Ngài rằng: “Mẹ và các em trai của Thầy đang đứng bên ngoài, muốn gặp Thầy.” 21 Nhưng Chúa Giê-xu đáp: “Mẹ tôi và anh em tôi là Những người nghe lời Đức Chúa Trời và làm theo.” 22 Một ngày kia, Chúa Giê-xu và các môn đồ lên thuyền rồi thì Ngài bảo: “Chúng ta hãy sang bờ bên kia.” Họ chèo thuyền đi. 23 Trong lúc thuyền đang đi thì Ngài ngủ. Có một cơn bão với gió rất mạnh nổi lên trên biển hồ, nước vào khẳm thuyền, khiến họ thật nguy khốn. 24 Các môn đồ đến đánh thức Chúa Giê-xu và thưa rằng: “Thầy ơi! Thầy ơi! Chúng ta sắp chết!” Ngài thức dậy, quở gió và sóng dữ, thì chúng liền ngưng và im lặng như tờ. 25 Rồi Ngài nói với các môn đồ: “Đức tin của anh em đâu?” Ngạc nhiên và sợ hãi, họ hỏi nhau: “Người này là ai mà ra lệnh cho cả gió và nước, khiến chúng phải vâng theo?” 26 Họ đến vùng Giê-ra-sê, phía bên kia bờ hồ Ga-li-lê. 27 Khi Chúa Giê-xu lên bờ, có một người bị quỷ ám từ trong thành đi ra đón Ngài. Từ lâu anh ta không mặc quần áo, cũng không ở trong nhà mà sống trong các ngôi mồ. 28 Nhìn thấy Chúa Giê-xu, anh ta la lên và sấp mình xuống trước mặt Ngài. Rồi anh ta nói lớn: “Lạy Giê-xu, Con Đức Chúa Trời Chí Cao, tôi có liên can gì đến Ngài? Tôi van Ngài, xin đừng đày đọa tôi.” 29 Ấy là vì Chúa Giê-xu đang truyền cho uế linh ra khỏi anh ta, do nó đã nhiều phen chiếm hữu anh. Cho dù người ta có lấy xích và cùm mà xiềng anh lại và cắt người canh giữ, thì anh cũng bứt phá và bị quỷ đuổi vào hoang mạc. 30 Chúa Giê-xu hỏi nó: “Mày tên gì?” Nó thưa: “Quân Đoàn,” vì có nhiều quỷ ám vào người. 31 Chúng cứ van xin Ngài đừng đày chúng xuống vực. 32 Lúc ấy, có một bầy heo rất đông đang ăn trên đồi, nên các quỷ cầu xin Ngài cho chúng nhập vào bầy heo. Ngài cho phép. 33 Vậy, đàn quỷ ra khỏi người ấy và nhập vào bầy heo, khiến cả đàn từ trên đồi dốc lao xuống hồ và chết đuối. 34 Những người chăn heo thấy vậy thì chạy trốn và đồn tin này ra khắp thành phố lẫn vùng thôn quê. 35 Mọi người nghe tin đều đi ra xem chuyện đã xảy ra. Họ đến chỗ Chúa Giê-xu, thấy người bị quỷ ám đã được lành. Anh này ngồi ở chân Chúa Giê-xu, quần áo hẵn hoi, tâm trí bình thường, nên họ kinh sợ. 36 Những người đã chứng kiến sự việc kể lại cho những người khác nghe về việc người bị quỷ ám đã được giải thoát ra sao. 37 Tất cả dân trong vùng Giê-ra-sê và khu vực lân cận xin Chúa Giê-xu đi nơi khác, vì họ quá sợ hãi. Vậy là Ngài xuống thuyền quay trở về. 38 Người vừa được giải thoát khỏi đàn quỷ xin đi cùng Chúa Giê-xu nhưng Ngài cho anh về và bảo: 39 “Hãy trở về nhà và thuật lại những việc lớn lao mà Đức Chúa Trời đã làm cho anh.” Vậy là anh đi rao ra khắp thành phố mọi việc lớn lao mà Chúa Giê-xu đã làm cho mình. 40 Khi Chúa Giê-xu trở về, một đoàn dân đông ra đón Ngài vì họ đang chờ đợi Ngài. 41 Có một người quản lý nhà hội tên là Giai-ru tìm đến Ngài. Ông sấp mình xuống dưới chân Chúa Giê-xu và cầu xin Ngài đến nhà mình, 42 vì đứa con gái duy nhất mới mười hai tuổi của ông đang hấp hối. Trên đường đi, đám đông lấn ép Ngài tứ phía. 43 Tại đó cũng có một người phụ nữ bị bệnh rong huyết đã mười hai năm, đã tiêu tốn hết tiền của để chạy chữa nhưng không thầy thuốc nào chữa trị được cho chị. 44 Chị tiến đến đằng sau Chúa Giê-xu và chạm vào vạt áo của Ngài, thì lập tức, huyết liền cầm lại. 45 Chúa Giê-xu hỏi: “Ai đã chạm vào tôi?” Khi ai nấy đều chối, thì Phi-e-rơ lên tiếng: “Thưa Thầy, chỉ là đám đông lấn ép chung quanh Thầy đấy thôi.” 46 Nhưng Chúa Giê-xu nói: “Có người đã chạm vào Thầy, vì Thầy biết có năng lực từ Thầy phát ra.” 47 Khi thấy không thể che giấu việc mình đã làm được nữa, người phụ nữ run rẩy đến sấp mình xuống trước mặt Chúa Giê-xu và, trước sự chứng kiến của mọi người, chị trình bày lý do chạm vào Ngài và đã được lành tức thì ra sao. 48 Ngài nói với chị: “Hỡi con gái, đức tin của con đã chữa lành con, hãy đi bình an.” 49 Khi Ngài còn đang nói, có người từ nhà của viên quản lý nhà hội đến thông báo rằng: “Con gái ông đã mất, đừng làm phiền Thầy nữa.” 50 Nhưng khi nghe thấy thế, Chúa Giê-xu nói với ông: Đừng sợ, chỉ cần tin thì con gái ông sẽ được cứu sống.” 51 Đến nhà, Chúa Giê-xu không cho ai theo vào, ngoại trừ Phi-e-rơ, Giăng, Gia-cơ, cùng cha mẹ đứa bé. 52 Lúc này mọi người ở đó đều đang than khóc thương tiếc đứa bé, nhưng Ngài nói: “Đừng khóc lóc nữa, đứa bé không chết đâu, nó chỉ đang ngủ thôi.” 53 Nhưng họ cười nhạo Ngài, vì họ biết rằng đứa bé đã chết. 54 Ngài cầm tay đứa bé và gọi lớn tiếng: “Con ơi, hãy dậy đi.” 55 Linh đứa bé trở lại và lập tức nó ngồi dậy. Ngài bảo họ cho nó ăn. 56 Cha mẹ đứa bé vô cùng kinh ngạc, nhưng Ngài truyền dặn họ không được nói với ai về việc đã xảy ra.
Các câu này đưa ra thông tin bối cảnh về việc rao giảng của Chúa Giê-xu khi Ngài đang đi khắp xứ.
Cụm từ nầy được sử dụng ở đây để đánh dấu phần mở đầu chi tiết mới của câu chuyện.
Cụm từ nầy có thể được dịch với động từ chủ động: "những kẻ Chúa Giê-xu buông tha khỏi tà linh và chữa khỏi bịnh"
Ba phụ nữ được kể tên: Ma-ri, Gian-nơ, và Su-xan-nơ.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "Gian-nơ, vợ của Chu-xa, quản gia của Hê-rốt". Gian-nơ là vợ của Cha-xa, và Chu-xa là quản gia của Hê-rốt.
Chúa Giê-xu kể một câu chuyện ngụ ngôn về các loại đất cho đoàn dân nghe. Ngài giải thích ý nghĩa câu chuyện để các môn đồ Ngài hiểu.
Từ này đánh dấu phần khởi đầu của hành động trong câu chuyện.
Cụm từ nầy có thể được dịch là “Nhà nông kia đi ra để rải giống ngoài đồng”
Cụm từ nầy có thể được dịch là "Chúng bị dẫm lên thường xuyên đến nỗi không mọc lên được" hay với một động từ chủ động như trong Kinh Thánh.
"ăn hết chúng"
"hột giống bị khô rồi héo đi"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "đất rất khô"
Chúa Giê-xu kết thúc phần kể câu chuyện ngụ ngôn cho đoàn dân đông nghe.
Bụi gai chiếm hết chất dinh dưỡng, nước, và ánh nắng, vị vậy giống của nhà nông không thể lớn lên được.
"thành mùa gặt" hay "lớn lên nhiều hột"
Thật là tự nhiên khi có ngôn ngữ dàng đại từ ngôi thứ hai: "Ngươi có tai mà nghe, hãy nghe"
"hễ ai có thể nghe" hay "hễ ai nghe ta"
"hãy nghe cho rõ" hay "hãy khiến người chú ý những gì ta đã phán"
Chúa Giê-xu bắt đầu nói với các môn đồ Ngài.
Cụm từ nầy có thể được dịch với một động từ chủ động và phần thông tin ám chỉ rằng Đức Chúa Trời là Đấng ban cho. "Đức Chúa Trời đã ban cho các ngươi ân tứ thông hiểu" hay "Đức Chúa Trời đã khiến cho các ngươi có khả năng để thông hiểu"
Đây là những lẽ thật đã được giữ kín nhưng Chúa Giê-xu đã tỏ ra cho họ biết.
"mặc dù họ xem, họ sẽ không thấy". Nếu động từ đòi hỏi một đối tượng, cụm từ nầy có thể được dịch là "dù họ xem nhiều thứ, họ sẽ chẳng hiểu được chúng" hay "dù họ xem nhiều thứ đang xảy ra, họ sẽ không hiểu chúng có nghĩa gì"
"dù họ nghe, họ sẽ không hiểu". Nếu động từ đòi hỏi một đối tượng cụm từ nầy có thể được dịch là "dù họ nghe sự dạy, họ sẽ chẳng hiểu được lẽ thật"
Chúa Giê-xu bắt đầu giải thích cho các môn đồ Ngài nghe về ý nghĩa câu chuyện ngụ ngôn về các loại đất.
Cụm từ nầy ý nói rằng hắn khiến họ quên đi Lời của Đức Chúa Trời mà họ đã nghe.
Trong thí dụ, đây là ẩn dụ nói tới con chim ăn lấy hột giống.Hãy tìm cách sử dụng ngôn ngữ của bạn để giữ hình ảnh ấy.
Điều nầy ý nói ma quỉ tước đi ước muốn của họ muốn tin theo Lời của Đức Chúa Trời.
Cụm từ nầy có thể được dịch với một động từ chủ động: "e họ không tin với kết quả là Đức Chúa Trời cứu vớt họ". Kể từ khi đây là mục đích của ma quỉ, cụm từ nầy có thể được dịch là "vì ma quỉ suy nghĩ 'Họ không tin và không được cứu’"
"khi họ kinh nghiệm sự khó nhọc họ lui đi khỏi đức tin" hay "khi họ kinh nghiệm sự nhọc nhằn họ bèn thôi không tin nữa"
Những lo lắng và sự giàu có và sung sướng đời này làm cho họ nghẹt ngòi.Hạt giống bị ngăn trở nơi đất tốt giống như người nghe đạo bị những lo lắng, giàu có, và sự sung sướng đời này làm cho họ không trưởng thành được.
"những việc mà người ta hay lo lắng"
"những việc trong đời nầy mà người ta vui hưởng"
"họ không kết quả được". Ẩn dụ nầy có thể được dịch như một sự ví sánh: "cho nên, giống như cây kia trong lớn lên được và kết quả, họ không trưởng thành và tạo ra những việc lành được"
"Kết quả do bền đỗ". Ẩn dụ nầy có thể được dịch như một sự ví sánh: "giống như cây khoẻ tạo ra trái tốt, họ tạo ra nhiều việc lành do bền đỗ"
Chúa Giê-xu tiếp tục kể một câu chuyện ngụ ngôn khác và rồi Ngài kết thúc phần nói chuyện với các môn đồ Ngài khi Ngài nhấn mạnh về vai trò của gia đình Ngài trong công việc Ngài.
Từ này được dùng để đánh dấu phần khởi đầu của một câu chuyện ngụ ngôn khác.
"bàn" hay "kệ"
Cụm từ nầy có thể được dịch thật tích cực là "việc gì kín rồi cũng lộ ra".
Cụm từ nầy có thể được dịch là "và điều chi kín giấu sẽ được biết và bày ra trong sự sáng"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "cách các ngươi nghe những điều ta nói cho các ngươi biết" hay "cách các ngươi nghe Lời của Đức Chúa Trời"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "người nào có sự hiểu biết" hay "hễ ai nhận lãnh điều ta dạy dỗ"
"sẽ cho thêm người ấy". Cụm từ nầy có thể được dịch với một động từ chủ động: "Đức Chúa Trời sẽ cho thêm người ấy".
Cụm từ nầy có thể được dịch là "hễ ai không có sự hiểu biết" hay "hễ ai không nhận lãnh điều ta dạy dỗ"
Đây là các em của Chúa Giê-xu.
"người ta nói cho Ngài biết" hay "ai đó nói cho Ngài biết"
"chờ gặp Ngài" hay "họ muốn gặp Ngài"
Ẩn dụ nầy có thể được dịch như một sự ví sánh: "Những người ấy nghe đạo của Đức Chúa Trời và vâng theo đạo ấy đều là mẹ và anh em ta" hay "Người nào nghe đạo Đức Chúa Trời và vâng theo đạo ấy đối với ta rất quan trọng y như mẹ và anh em ta vậy".
Chúa Giê-xu và các môn đồ Ngài lên một chiếc thuyền bang qua Hồ Ga-li-lê. Các môn đồ được biết thêm về quyền năng của Chúa Giê-xu qua cơn bão nổi lên trên hồ.
Cụm từ nầy được sử dụng ở đây để đánh dấu phần khởi đầu chi tiết mới của câu chuyện. Nếu ngôn ngữ của bạn có cách thức để làm công việc nầy, bạn có thể xem xét sử dụng nó ở đây.
Đây là hồ Ghê-nê-xa-rết cũng còn được gọi là Biển Ga-li-lê.
"khi họ ra khơi"
"đã ngủ"
"giá rất mạnh thình lình dậy lên"
Từ ngữ Hi-lạp được dịch ở đây là “thầy” không phải là từ ngữ thông thường nói tới “Thầy”. Từ ngữ nầy đề cập một nhân vật có thẩm quyền, chớ không đề cập đến người làm chủ người khác. Bạn có thể dịch từ nầy là "Chủ" hay "Quản đốc" hoặc với một từ thường được sử dụng nói tới một người đang nắm quyền hành, tỉ như “Ngài”.
"nói nặng với"
"gió và song biển bèn dừng lại"
Đây là câu hỏi hùng biện. Chúa Giê-xu đang quở nặng họ vì họ không tin cậy Ngài đang chăm sóc họ. Cụm từ nầy có thể được dịch là "các ngươi đã có đức tin chưa" hay "các ngươi đã tin tưởng Ta"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "Đây là loại người gì vậy?"
Từ nầy có thể là khởi sự của một câu mới: "Ngài truyền dạy"
Chúa Giê-xu và các môn đồ Ngài lên bờ vùng Giê-ra-sê, tại đó Ngài đuổi nhiều tà ma ra khỏi người bị quỷ ám.
Giê-ra-sê là dân sống ở thành Giê-ra-sê.
"bên kia hồ đối với xứ Ga-li-lê"
"một người từ thành Giê-ra-sê"
"nhiều quỉ điều khiển người nầy"
Đây là thông tin bối cảnh về người bị quỷ ám.
"người đã không mặc quần áo"
Đây là chỗ chôn người chết, có lẽ là hang động. Kỳ thực, người nầy đã sống trong đó cho thấy rằng đây chẳng phải là những cái huyệt đào trong đất.
"khi người bị quỉ ám nhìn thấy Chúa Giê-xu"
"người hét lên" hay "người la hét"
“phủ phục xuống đất trước mặt Chúa Giê-xu”. Người không phủ phục như thế cách tình cờ đâu. Người làm thế vì người kinh hãi Chúa Giê-xu.
"người đã nói lớn tiếng" hay "người thét lên"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "Sao Ngài làm khổ tôi"
Đây là một danh hiệu quan trọng dành cho Chúa Giê-xu.
"nó đã ám người từ lâu". Cụm từ nầy có thể được dịch là "nhiều lần nó nhập vào người". Câu nầy và câu kế nói về việc ma quỉ đã làm nhiều lần trước khi Chúa Giê-xu đến gặp người.
Cụm từ nầy có thể được dịch với động từ chủ động: "dù người ta xiềng người bằng xích và giữ người lại"
Hãy dịch từ ngữ nầy với một từ đề cập đến một số lớn binh lính hay người ta. Cụm từ nầy có thể được dịch là "đạo quân lớn" hay "đội quân lớn"
"bỏ người nầy rồi đi xuống vực sâu"
"một bầy heo đông đang ăn cỏ gần đó trên núi"
"đang ăn cỏ trên đồi gần đó"
Từ “vậy” được dùng ở đây để đánh dấu sự kiện xảy ra nối tiếp sự kiện trước đó. Trong trường hợp này, Chúa Giê-xu đã đuổi đàn quỷ nhập vào bầy heo.
"chạy rất nhanh"
"họ mau mau chạy đi"
"thấy người mà ma quỉ mới ra khỏi"
"người đã mặc áo quần"
"người mạnh khoẻ" hay "ngươi cư xử cách bình thường"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "ngồi dưới đất, đang lắng nghe Chúa Giê-xu"
"họ sợ Chúa Giê-xu"
Đây là những người đã có mặt với người kia khi Chúa Giê-xu khiến ma quỉ lìa khỏi người.
“Chúa Giê-xu cứu người đàn ông đó khỏi sự điều khiển của ma quỷ" hoặc “Chúa Giê-xu chữa lành cho người ông đó.”
"khu vực đó" hay "khu vực có người Giê-ra-sê ở"
"họ trở nên rất sợ hãi." Hoặc tham khảo: “nỗi sợ hãi bao trùm họ.”
Có khi cần khởi sự câu nầy với "nhưng trước khi Chúa Giê-xu cùng các môn đồ Ngài rời đi, người nầy" hay "trước khi Chúa Giê-xu và các môn đồ Ngài ra khơi, người nầy"
"gia đình ngươi" hay "quê nhà ngươi"
Khi Chúa Giê-xu và các môn đồ Ngài trở về Ga-li-lê ở phía bên kia hồ, Ngài đã chữa lành cho đứa con gái 12 tuổi của người cai nhà hộ cũng như chữa lành người phụ nữ bị chứng mất huyết trong 12 năm.
Các câu này cung cấp thông tin bối cảnh về Giai-ru.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "đoàn đông vui mừng đón Ngài"
Từ ngữ "kìa" báo cho chúng ta biết Giau-ru là một nhân vật mới trong câu chuyện. Ngôn ngữ của bạn có thể có cách nói ra điều nầy. Anh ngữ dùng: "có một người tên là Giai-ru”
"một trong những lãnh đạo nhà hội địa phương" hay "lãnh đạo của những người đến nhóm lại ở nhà hội trong khu vực đó"
1) “sấp mình xuống nơi chân Chúa Giê-xu” hay 2) “phủ phục xuống đất nơi chân Chúa Giê-xu”. Giai-ru dkhông sấp mình xuống cách tình cờ đâu. Ông làm vậy như một dấu hiệu khiêm nhường và tôn trọng dành cho Chúa Giê-xu.
"nó sắp chết" hay "nó sắp sửa chết"
Một số nhà giải kinh trước tên cần phải nói rằng: "Vậy, Chúa Giê-xu đã đồng ý đi với người"
"dân chúng là đám đông siết chặt quanh Chúa Giê-xu"
"bịnh mất huyết". Có lẽ bà bị rong kinh, không phải theo chu kỳ. Một số xã hội có cách lịch sự khi đề cập đến tình huống nầy.
"nhưng không ai có thể chữa lành cho bà ta được"
"đụng đến vạt áo Ngài". Người nam Do thái mặc loại áo dài có tua như áo lễ, như đã được truyền trong Luật pháp của Đức Chúa Trời. Đây là chỗ mà bà ta đã rờ đến.
Từ ngữ Hi-lạp được dịch ở đây là “thầy” không phải là từ ngữ thông thường nói tới “Thầy”. Từ ngữ nầy đề cập một nhân vật có thẩm quyền, chớ không đề cập đến người làm chủ người khác. Bạn có thể dịch từ nầy là "Chủ" hay "Quản đốc" hoặc với một từ thường được sử dụng nói tới một người đang nắm quyền hành, tỉ như “Ngài”.
Bằng cách nói như vầy: Phi-e-rơ đang ám chỉ rằng bất kỳ ai đã rờ đến Chúa Giê-xu. Điều nầy ám chỉ thông tin có thể cụ thể nếu cần thiết như trong Kinh Thánh.
"Ta cảm thấy quyền phép chữa lành ra từ Ta". Chúa Giê-xu không mất đi quyền phép hay bị yếu đuối đâu, nhưng quyền phép của Ngài đã chữa lành cho người đàn bà kia.
"bà ta không thể giữ kín nữa vì bà ta là người đã chạm đến Chúa Giê-xu"
AT: "she came trembling with fear"
Ý nghĩa khả thi là 1) “bà ta sấp mình xuống trước mặt Chúa Giê-xu” hay 2) “bà ta phủ phục dưới đất nơi chân Chúa Giê-xu”. Bà ta không sấp mình xuống cách tình cờ đâu. Bà ta đã làm vậy như một dấu hiệu nói tới sự khiêm nhường và tôn trọng đối với Chúa Giê-xu.
"trước mặt" hay "khi nghe vậy" hoặc "trước mặt"
Đây là lối nói tử tế đối với người đàn bà. Ngôn ngữ của bạn có thể có cách nói khác để tỏ ra loại tử tế nầy.
"vì cớ đức tin ngươi, ngươi đã được lành rồi". Ý tưởng nói tới “đức tin” có thể được dịch với một động từ: “Vì ngươi tin, ngươi đã được lành”.
Đây là lối nói “tạm biệt” và ban cho một ơn phước cùng lúc. Cụm từ nầy có thể được dịch là “khi ngươi đi, đừng lo lắng chi hết” hay “nguyện Đức Chúa Trời ban cho ngươi sự bình an khi ngươi đi”.
"trong khi Chúa Giê-xu hãy còn phán với người đàn bà nầy"
Cụm từ nầy đề cập đến Giai-ru. Ông ta là lãnh đạo của nhà hội địa phương.
"Chúa Giê-xu trả lời cho Giai-ru". Chúa Giê-xu đã phán với người cai nhà hội, không phán với sứ giả.
"nó sẽ mạnh khoẻ" hay "nó sẽ sống lại"
Vì Chúa Giê-xu không đi một mình đến nhà ấy, cụm từ nầy đáng dịch là "khi họ đến tại nhà, Chúa Giê-xu."
"Ngài chỉ cho Phi-e-rơ, Giăng và Giacơ, và cha mẹ con ấy vào bên trong"
"hết thảy mọi người đều tỏ ra đau buồn, kêu khóc lớn tiếng vì đứa con gái đã chết rồi"
"Hỡi con gái gái nhỏ, hãy đứng dậy đi"
Cụm từ "thần linh" cũng có thể được dịch là "thở" hay "sự sống". Cụm từ nầy có thể được dịch là "nó bèn sống trở lại" hay "nó lại sống".
"hơi thở” hoặc “sự sống”
Hột giống là Lời của Đức Chúa Trời.
Họ là hạng người nghe đạo, nhưng rồi đi, để cho sự lo lắng, giàu sang, sung sướng đời nầy làm cho đạo phải nghẹt ngòi, đến nỗi không sanh trái nào được chín.
1 Chúa Giê-xu tập gọi hai sứ đồ lại, ban cho họ năng lực và uy quyền trừ mọi loại quỷ cũng như chữa là bệnh tật. 2 Ngài sai họ ra đi rao giảng về vương quốc Đức Chúa Trời và chữa lành cho người bệnh. 3 Ngài căn dặn họ: “Đừng đem gì theo khi đi đường – đừng đem theo gậy, túi xách, bánh trái hay tiền bạc – cũng đừng đem theo hai áo. 4 Khi anh em vào nhà nào, hãy ở lại đó cho đến khi đi nơi khác. 5 Đối với những người không tiếp anh em, thì khi rời khỏi thành ấy, hãy phủi bụi dưới chân để làm chứng cáo tội họ.” 6 Vậy là các môn đồ lên đường đi khắp các làng mạc, rao báo tin lành và chữa lành cho mọi người. 7 Lúc ấy, vua chư hầu Hê-rốt, nghe nói về mọi việc đang xảy ra và cảm thấy vô cùng bất an, vì người thì nói Giăng Báp-tít đã từ cõi chết sống lại, 8 kẻ thì bảo Ê-li xuất hiện, rồi cũng có người cho rằng một trong các đấng tiên tri thời xưa đã sống lại. 9 Hê-rốt nói: “Trẫm đã chặt đầu Giăng rồi, vậy thì người mà trẫm nghe nói đến này là ai thế kia?” Vậy là Hê-rốt tìm cách gặp Chúa Giê-xu. 10 Khi những môn đồ được sai đi trở về, họ thuật lại cho Ngài mọi việc mình đã làm. Ngài đưa họ cùng đi với một mình Ngài đến thành Bết-sai-đa. 11 Nhưng đoàn dân đông nghe biết được và đi theo Ngài. Ngài tiếp đón họ, giải bày cho họ về vương quốc Đức Chúa Trời và cứu chữa cho những người cần được chữa lành. 12 Gần tối, mười hai sứ đồ đến thưa với Ngài: “Xin Thầy giải tán đoàn dân để họ vào các làng và miền quê xung quanh đây mà tìm chỗ trọ và thức ăn, vì nơi này hoang vắng quá.” 13 Nhưng Ngài nói với họ: “Anh em phải cho họ ăn.” Họ thưa: “Chúng tôi chỉ có năm cái bánh và hai con cá, lẽ nào phải đi mua thức ăn cho bằng này người.” 14 Khi ấy có khoảng năm ngàn người đàn ông ở đó. Ngài nói với các môn đồ: “Hãy bảo họ ngồi xuống theo từng nhóm, mỗi nhóm năm mươi người.” 15 Họ làm theo lời Ngài, cả đoàn dân đều ngồi xuống. 16 Ngài lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, chúc tạ, rồi bẻ ra, trao cho các môn đồ phân phát cho đoàn dân. 17 Tất cả đều ăn no nê và họ lượm được mười hai giỏ đầy các mẩu bánh thừa. 18 Khi Chúa Giê-xu đang cầu nguyện riêng, có các môn đồ ở với Ngài, Ngài hỏi họ: “Người ta nói Thầy là ai?” 19 Họ thưa: “Giăng Báp-tít, nhưng có người khác nói Thầy là Ê-li, cũng có người nói Thầy là một trong các đấng tiên tri đời xưa sống lại.” 20 Ngài hỏi họ: “Còn anh em nói Thầy là ai?” Phi-e-rơ thưa: “Thầy là Chúa Cứu Thế, từ Đức Chúa Trời đến.” 21 Nhưng Chúa Giê-xu cấm tuyệt họ không được nói điều đó với ai, 22 và cho biết Con Người phải chịu khổ nạn, bị các trưởng lão, các thầy tế lễ cả và các thầy dạy luật chối bỏ, phải bị giết đi và đến ngày thứ ba phải sống lại. 23 Ngài nói với họ: “Nếu ai muốn theo Thầy thì phải từ bỏ chính mình, hằng ngày vác thập tự giá mình mà theo Thầy. 24 Ai cố cứu mạng sống mình thì sẽ mất, nhưng ai vì Thầy mất mạng sống mình, thì sẽ sống. 25 Một người nếu được cả thế giới mà đánh mất chính mình hay bị thiệt thân thì có ích gì? 26 Ai xấu hổ vì Thầy và lời của Thầy thì Con Người cũng xấu hổ vì người đó khi Ngài đến trong vinh quang của mình, cùng vinh quang của Cha và của các thiên sứ thánh. 27 Nhưng Thầy nói thật để anh em biết, một số người đang đứng đây sẽ không nếm trải sự chết trước khi thấy được vương quốc Đức Chúa Trời.” 28 Khoảng tám ngày sau khi Chúa Giê-xu nói các lời ấy, Ngài đưa Phi-e-rơ, Giăng và Gia-cơ cùng lên núi để cầu nguyện. 29 Khi Ngài đang cầu nguyện, diện mạo Ngài đổi khác, trang phục Ngài thì trở nên trắng và chói sáng. 30 Kìa, có hai người đang trò chuyện cùng Ngài, đó là Môi-se và Ê-li, 31 trông thật rạng rỡ vinh hiển. Họ nói về sự ra đi của Ngài, là điều sắp ứng nghiệm tại Giê-ru-sa-lem. 32 Lúc này Phi-e-rơ và hai sứ đồ đang có mặt với ông rất buồn ngủ. Nhưng khi tỉnh lại, họ thấy vinh quang của Chúa Giê-xu và hai người đang đứng với Ngài. 33 Khi hai người ấy từ giã Chúa Giê-xu, Phi-e-rơ thưa với Ngài: “Thưa Thầy, chúng ta ở đây tốt lắm, nên chúng tôi sẽ dựng ba cái trại: một cái cho Thầy, một cho Môi-se và một cho Ê-li.” Phi-e-rơ nói nhưng không hiểu mình đang nói gì. 34 Trong khi Phi-e-rơ đang nói, một đám mây xuất hiện và che phủ họ; ở giữa đám mây, họ rất sợ hãi. 35 Từ trong đám mây có tiếng nói vang lên: “Đây là Con Ta, là Người mà Ta đã chọn. Hãy nghe lời Người.” 36 Khi tiếng đó dứt thì chỉ còn lại một mình Chúa Giê-xu. Họ đều im lặng, và trong thời gian đó họ không kể với bất cứ người nào về những điều mình đã thấy. 37 Qua hôm sau, khi Chúa Giê-xu và ba môn đồ đã xuống núi, một đoàn dân đông đến gặp Ngài. 38 Trong đám đông có một người lớn tiếng thưa rằng: “Thưa Thầy, tôi van Thầy, xin xem giúp con trai tôi, tôi chỉ có mình nó. 39 Số là, nó bị uế linh khống chế, khiến nó bất chợt la hét, và co giật đến sùi bọt mép. Khó khăn lắm nó mới chịu lìa thằng bé, mỗi khi ra khỏi như vậy thì hành hạ thằng bé đến bầm dập. 40 Tôi đã cầu xin các môn đồ của Thầy đuổi quỷ ấy, nhưng họ không làm được.” 41 Chúa Giê-xu đáp: “Thế hệ vô tín, hư hoại các người, tôi phải ở với các người, chịu đựng các người đến bao giờ? Hãy đưa con anh lại đây.” 42 Trong khi đứa trẻ đang được đưa đến với Chúa, thì quỷ quật mạnh nó xuống đất và rung lắc nó dữ dội. Nhưng Chúa Giê-xu quở uế linh, chữa lành cậu bé và giao lại cho cha nó. 43 Ai cũng đều kinh ngạc trước quyền năng cao cả của Đức Chúa Trời. Nhưng trong khi mọi người vẫn còn đang ngạc nhiên trước những việc Chúa Giê-xu đã làm, thì Ngài nói với các môn đồ, 44 “Anh em hãy nghe cho kỹ những lời này, vì Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta.” 45 Nhưng họ không hiểu lời ấy có nghĩa gì; vì lời đó bị che khuất đối với họ nên họ chẳng hiểu được. Họ lại không dám hỏi Ngài vì sợ. 46 Rồi giữa họ nổi lên cuộc tranh luận để xem người nào trong số họ là lớn nhất. 47 Nhưng khi biết được ý tưởng trong lòng họ, Chúa Giê-xu đem một đứa trẻ để bên cạnh mình, 48 và nói với họ: “Người nào vì danh Thầy tiếp lấy một đứa trẻ thế này tức là tiếp Thầy, và người nào tiếp Thầy tức là tiếp Đấng đã sai Thầy. Vì người nhỏ nhất trong anh em chính là người cao trọng.” 49 Giăng lên tiếng: “Thưa Thầy, chúng tôi thấy có người đang nhân danh Thầy mà đuổi quỷ và chúng tôi đã cấm họ, vì họ không theo chúng ta.” 50 Nhưng Chúa Giê-xu nói với ông: “Đừng ngăn cấm họ, vì người nào không chống lại anh em tức là thuận với anh em.” 51 Gần đến ngày Ngài được đem lên trời, Ngài quyết định đi đến thành Giê-ru-sa-lem. 52 Ngài sai các sứ giả đi trước, vào một làng của người Sa-ma-ri để chuẩn bị cho Ngài. 53 Nhưng dân làng không tiếp Ngài vì Ngài muốn đi Giê-ru-sa-lem. 54 Gia-cơ và Giăng, là môn đồ của Ngài, thấy vậy liền thưa: “Lạy Chúa, Chúa có muốn chúng tôi truyền cho lửa từ trời xuống thiêu hủy họ không?” 55 Nhưng Ngài quay lại quở trách hai người. 56 Rồi Ngài cùng các môn đồ đi sang làng khác. 57 Trên đường đi, có người thưa với Chúa: “Tôi sẽ theo Thầy bất cứ nơi nào Thầy đi.” 58 Chúa Giê-xu nói với anh: “Cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ gối đầu.” 59 Rồi Ngài nói với một người khác: “Hãy theo Thầy.” Nhưng người ấy thưa: “Lạy Chúa, xin cho tôi về chôn cha tôi trước đã.” 60 Ngài nói với anh: “Hãy để kẻ chết chôn người chết của họ, còn anh hãy đi khắp nơi rao truyền vương quốc của Đức Chúa Trời.” 61 Một người khác nữa nói: “Lạy Chúa, tôi sẽ theo Ngài, nhưng hãy cho phép tôi về từ giã gia đình trước đã.” 62 Nhưng Chúa Giê-xu đáp: “Người nào đã cầm cày mà còn nhìn lại đằng sau thì không xứng hợp cho vương quốc của Đức Chúa Trời.”
Chúa Giê-xu nhắc nhở các môn đồ Ngài không phụ thuộc vào tiền hoặc những thứ khác của họ, Ngài ban cho họ quyền năng, và sai họ ra đi đến những nơi khác.
Hai cụm từ nầy được sử dụng chung với nhau để tỏ ra rằng 12 môn đồ có cải hai: khả năng và suyền chữa lành cho người ta. Hãy dịch mệnh đề nầy với sự kết hợp từ ngữ có cả hai ý tưởng nầy.
"bệnh tật". Cụm từ nầy đề cập đến những gì khiến cho người đau bịnh.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "sai họ đến các địa điểm khác" hay "bảo họ ra đi"
"Chúa Giê-xu phán cùng 12 môn đồ"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "Đừng đem gì theo với ngươi" hay "Đừng mang bất cứ thứ chi theo với người"
"trong chuyến đi" hay "khi các ngươi đi". Họ không cần phải đem gì theo cho cả chuyến hành trình của họ, khi họ đi từ làng nầy đến làng kia, và cho tới chứng họ trở lại với Chúa Giê-xu.
"cây gậy". Một cây gậy là một khúc cây dài được sử dụng để giữ thăng bằng khi leo lên cao hoặc lúc xuống dốc. Nó cũng có thể được sử dụng để bảo vệ chống lại những kẻ tấn công.
Một cái túi mà người đi đường dùng để đem theo những vật dụng cần thiết trong chuyến đi.
Tham khảo: “đồ ăn”
"bất kỳ nhà nào các người vào"
"cứ ở lại đó" hay "tạm trú trong nhà đó như khách mời"
"từ thành đó" hay "từ khu vực đó"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "đây là điều các ngươi sẽ làm về hạng người không tiếp rước các ngươi"
"họ rời khổ địa điểm Chúa Giê-xu đã ở"
"bất cứ đâu họ đi"
Trước giả thêm các câu này vào để đưa ra thông tin về vua Hê-rốt.
Từ này được dùng để đánh dấu phần ngắt quãng trong cốt truyện chính. Ở đây Lu-ca đưa ra thông tin bối cảnh về Hê-rốt.
Cụm từ nầy đề cập đến Hê-rốt An-ti-pa, là vị vua cai trị một phần tư xứ Y-sơ-ra-ên.
"chao đảo" hay "bị bối rối bởi nguồn tin" hay "bị rối trí" (UDB)
Cụm từ nầy có thể được dịch là "ta đã truyền cho binh lính chặt đầu Giăng rồi"
Dù các môn đồ quay trở lại với Chúa Giê-xu và họ đi đến Bết-sai-đa để dành thời gian ở với nhau, nhưng những đoàn dân đông cứ theo Chúa Giê-xu để được chữa lành và lắng nghe lời Ngài dạy. Ngài ban bánh và cá để giúp họ trước khi họ trở về nhà.
"12 sứ đồ Chúa Giê-xu đã sai đi"
"trở về nơi Chúa Giê-xu sinh sống"
"các sứ đồ nói cho Chúa Giê-xu biết"
Cụm từ đề cập đến sự dạy và sự chữa lành mà họ đã làm khi họ đến với các thành khác.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "Ngài đem họ theo với Ngài và họ cùng đi". Chúa Giê-xu và các sứ đồ Ngài đi tẻ ra.
Đây là danh xưng của một thành phố.
"Khi mặt trời lặn" hay "khi ban ngày kết thúc" hoặc "khi chiều xuống"
"bảo dân chúng đi đi"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "trừ phi chúng ta phải đi ra và mua đồ ăn" hay "trừ phi chúng ta đi mua đồ ăn". Hay bạn có thể mở ra một câu mới: "nếu Ngài muốn chúng ta cho họ ăn, chúng ta phải đi mua đồ ăn"
"độ 5.000 người". Con số nầy không bao gồm phụ nữ và trẻ con đang có mặt.
"bảo họ ngồi xuống"
"50 người mỗi hàng"
Các môn đồ bảo đoàn dân đông ngồi xuống thành từng nhóm, mỗi nhóm 50 người.
Chúa Giê-xu lấy bánh và cá.
Đây là con số đặc biệt nói tới bánh nướng. Cụm từ nầy có thể được dịch là "toàn bộ mấy cái bánh"
"trong khi ngước mắt" hay "sau khi ngước mắt"
Cụm từ nầy đề cập đến việc ngước lên, hướng lên bầu trời. Người Do thái đã tin rằng thiên đàng được đặt trên bầu trời.
"trao cho" hay "chuyển cho" hoặc "ban cho"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "họ đã có quá nhiều khi họ muốn ăn"
Chúa Giê-xu đang cầu nguyện cùng với các môn đồ Ngài, và họ bắt đầu nói về việc Ngài là ai. Chúa Giê-xu nói cho họ biết về sự chết và sự phục sinh của Ngài là những điều sẽ xảy đến và nói họ nên đi theo Ngài cho dù điều gì xảy ra.
Cụm từ nầy được sử dụng ở đây để đánh dấu phần khởi sự chi tiết mới của câu chuyện. Nếu ngôn ngữ của bạn có cách thức để làm công việc nầy, bạn có thể xem xét sử dụng nó ở đây.
"khi Chúa Giê-xu cầu nguyện"
Các môn đồ có mặt với Chúa Giê-xu, nhưng Ngài đã cầu nguyện theo cách riêng và riêng tư một mình Ngài.
"và họ trả lời Ngài bằng cách nói"
Một số ngôn ngữ thích thêm vào: "Có người nói thầy là Giăng Báp-tít"
"những người đã sống cách đây lâu lắm rồi"
"đã trở lại với sự sống"
"Chúa Giê-xu phán cùng các môn đồ Ngài"
"Phi-e-rơ trả lời và nói" hay "Phi-e-rơ trả lời bằng cách nói"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "Nhưng Chúa Giê-xu cảnh cáo và dặn dò họ" hay "Khi ấy Chúa Giê-xu cảnh cáo họ một cách mạnh mẽ".
"không cho nói với ai" hay "họ không nên nói cho ai biết". Đây là một trưng dẫn gián tiếp. Cách dịch khác: "Nhưng cảnh cáo họ, chúng ta dặn họ: Đừng nói cho ai biết"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "người ra sẽ khiến cho Con Người phải chịu khổ dữ lắm". Câu 22 cũng có thể dịch như một trưng dẫn trực tiếp như trong Kinh Thánh.
Tham khảo: “và các trưởng lão, thầy tế lễ cả, và thầy dạy luật sẽ chối bỏ Ngài”
Tham khảo: “và người ta sẽ giết Ngài."
"ba ngày sau khi chết" hay "nhằm ngày thứ ba sau khi chết"
"được làm cho sống lại một lần nữa" hoặc “người trở lại với cuộc sống”
Cụm từ nầy đề cập đến Chúa Giê-xu.
Cụm từ đề cập đến các môn đồ đã có mặt với Chúa Giê-xu.
"muốn theo Ta" hay "làm môn đồ ta" hoặc "đến với ta trong vai trò môn đồ"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "đừng nhượng bộ các ham muốn riêng của mình" hay "quên đi mọi ham muốn riêng của mình"
"nhấc thập tự giá của mình lên rồi mang nó theo mỗi ngày". Cụm từ nầy có nghĩa là "phải sẵn sàng chịu khổ mỗi ngày".Chúa Giê-xu muốn nói những người theo Ngài phải từ bỏ những điều mình muốn, chịu lụy và vâng phục Chúa Giê-xu đến chết.
"đi cùng với ta" hay "bắt đầu theo ta và cứ giữ việc theo ta"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "người ta sẽ được lợi gì chứ". Đây là chi tiết của câu hỏi hùng biện. Cụm từ nầy cũng có thể được dịch là "chẳng có ích cho người nào" hay "một người chẳng lãnh được điều chi tốt"
"nếu người ấy có được mọi sự trong thế gian"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "chính mình bị hư mất hoặc bị huỷ diệt"
"và những gì ta phán" hay "và những gì ta dạy dỗ"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "Con Người cũng sẽ hổ thẹn về họ"
Chúa Giê-xu đang phán về chính mình Ngài. Tham khảo cách dịch: "Ta, Con Người"
Chúa Giê-xu đang phán về chính mình Ngài ở ngôi thứ ba. Cụm từ nầy có thể được dịch trong ngôi thứ nhứt như "khi ta ngự đến trong sự vinh hiển mình"
Ở đây, Chúa Giê-xu đang đề cập đến một vài người mà Ngài đang nói chuyện với. Cụm từ nầy có thể được dịch là "một vài người trong các người hiện đang đứng đây".
Cụm từ nầy có thể được dịch là "sẽ nhìn thấy nước của Đức Chúa Trời trước khi họ qua đời"
Tám ngày sau khi Chúa Giê-xu đã nói với các môn đồ rằng một số người sẽ không chết trước khi họ thấy nước Đức Chúa Trời, Chúa Giê-xu đi lên núi để cầu nguyện với Phi-e-rơ, Gia-cơ và Giăng, là những người đang buồn ngủ trong khi Chúa Giê-xu hóa hình.
Cụm từ này được dùng để đánh dấu một sự kiện quan trọng trong câu chuyện. Nếu ngôn ngữ của dịch giả có cách diễn đạt này, thì có thể xem xét sử dụng ở đây.
Mệnh đề nầy được sử dụng ở đây để đánh dấu một sự kiện quan trọng trong câu chuyện. Nếu ngôn ngữ của bạn có cách thức để làm công việc nầy, bạn có thể xem xét sử dụng nó ở đây.
Cụm từ nầy đề cập đến những gì Chúa Giê-xu đã phán với các môn đồ Ngài trong mấy câu đứng trước.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "lên sườn của một ngọn núi". Họ lên bao xa thì không rõ ràng.
"chiếu sáng trưng và rực rỡ" hay "trắng rực và sáng láng" hoặc "trắng chói và sáng rực như tia chớp".
Từ ngữ “nầy” ở đây báo cho chúng ta biết phải chú ý đến phần thông tin đáng ngạc nhiên theo sau. Cụm từ nầy có thể được dịch là "thình lình có hai người nói chuyện" hay "thình lình hai người đang trò chuyện"
Mệnh đề tương đối nầy đang them phần thông tin về Môi-se và Ê-li. Cụm từ nầy có thể được dịch là "và họ trông thật vinh hiển"
"sự ra đi của Ngài" hay "cách mà Ngài sẽ lìa thế gian nầy". Cụm từ nầy có thể được dịch là "sự chết của Ngài"
Từ này được sử dụng đánh dấu để ngắt dòng câu chuyện.Ở đây Lu-ca đang nói thêm về Phi-e-rơ, Gia-cơ và Giăng.
Cụm từ nầy đề cập đến sự sáng láng rực rỡ bao quanh họ. Cụm từ nầy có thể được dịch là "họ nhìn thấy ánh sáng rực rỡ đến từ Chúa Giê-xu" hay "họ nhìn thấy sự rực rỡ sáng láng ra từ Chúa Giê-xu"
Cụm từ nầy đề cập Môi-se và Ê-li.
Từ ngữ nầy được sử dụng ở đây để đánh dấu chỗ mà hành động khởi sự. Nếu ngôn ngữ của bạn có cách thức để làm công việc nầy, bạn có thể xem xét sử dụng nó ở đây.
Từ ngữ được dịch ở đây là “thầy” không phải là từ ngữ thông thường nói tới “Thầy”. Từ ngữ nầy đề cập một nhân vật có thẩm quyền, chớ không đề cập đến người làm chủ người khác. Bạn có thể dịch từ nầy là "Chủ" hay "Quản đốc" hoặc với một từ thường được sử dụng nói tới một người đang nắm quyền hành, tỉ như “Ngài”.
"lều” hoặc “túp lều"
"trong khi Phi-e-rơ đang nói những việc nầy"
Các môn đồ trưởng thành nầy không e sợ mấy đám mây. Cụm từ nầy chỉ ra rằng có một loại sợ hãi bất thường đã đến trên họ với đám mây. Cụm từ nầy có thể được dịch là "họ lấy làm kinh hãi"
“Đám mây bao phủ lấy họ”
Nếu nói về một giọng nói đang nói là không tự nhiên, cụm từ nầy có thể được dịch là "Đức Chúa Trời đã phán với họ từ đám mây"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "Con ta, là người mà ta đã chọn" hay "Con ta, người được chọn". Cụm từ "được chọn" đang thêm phần thông tin nói về Con của Đức Chúa Trời. Nói như thế không có nghĩa là Đức Chúa Trời có nhiều hơn một người con. (Xem: thông tin về Các Tỉnh Từ ở
Đây là thông tin thuật lại điều đã xảy ra sau diễn biến của các sự kiện trong chính câu chuyện đó.
Cụm từ nầy đề cập đến những ngày cho tới lúc Chúa Giê-xu được cất lên trời sau khi sống lại hay những ngày trực tiếp sau khi Chúa Giê-xu đưa ra câu nói nầy.
Ngày kế tiếp sau khi Chúa Giê-xu đã hóa hình, Ngài chữa lành một cậu bé bị quỷ ám mà các môn đồ Ngài không thể nào đuổi được.
Cụm từ nầy được sử dụng ở đây để đánh dấu phần mở đầu chi tiết mới của câu chuyện. Nếu ngôn ngữ của bạn có cách thức để làm công việc nầy, bạn có thể xem xét sử dụng nó ở đây.
Từ ngữ "nầy" báo động cho chúng ta biết có nhận vật mới trong câu chuyện. Ngôn ngữ của bạn có thể có cách thực hiện điều nầy. Anh ngữ sử dụng "có một người trong đám đông…”
Từ ngữ "kìa" giới thiệu với chúng ta một tà linh trong câu chuyện của nhân vật nầy. Ngôn ngữ của bạn có thể có cách thực hiện điều nầy. Anh ngữ sử dụng "một quỉ ám nó…”
Ý nghĩa khả thi cho điều nầy là 1) "không thể bỏ con tôi được" hay 2) "thật là khó khi để con tôi như thế..."
Khi một người bị ám, họ có thể khó thở hay nuốt nước miếng. Điều nầy làm cho nước miếng cứ trào ra ở quanh miệng người. Nếu ngôn ngữ của bạn có cách thức để làm công việc nầy, bạn có thể xem xét sử dụng nó ở đây
"Chúa Giê-xu đáp khi trả lời"
Câu nầy được nói với đám dân đông nhóm lại ở đó, chớ không phải nói với các môn đồ.
Đây là câu hỏi hùng biện. Chúa Giê-xu không chờ đợi và trả lời. Ý nghĩa là "Ta đã làm nhiều việc như thế mà các ngươi vẫn không tin!"
Ở đây Chúa Giê-xu đang phán trực tiếp với người cha của đứa trẻ.
"trên đường đi tới" hay "trên đường"
"nói năng nó"
Chúa Giê-xu đã làm ra phép lạ, nhưng đám dân đông công nhận rằng Đức Chúa Trời là quyền phép ở đàng sau sự chữa lành.
“những gì Chúa giê-xu làm”
Tham khảo: “Hãy lắng nghe cẩn thận và ghi nhớ” hoặc “Các ngươi đừng quên điều này”
Ở đây, từ “tay” nói đến quyền lực hoặc sự cai trị. Tham khảo: “Người ta sẽ nộp Con Người vào tay chính quyền.”
Chúa Giê-xu đang phán về chính mình Ngài ở ngôi thứ ba. Tham khảo cách dịch: "Ta, Con Người".
Tham khảo: “họ không hiểu rằng Ngài đang nói về sự chết của Ngài”
"bị giao cho". Ở đây "nộp" đề cập đến quyền lực. Tham khảo cách dịch: "Người ta sẽ giao Con Người cho nhà cầm quyền"
Các môn đồ tranh luận xem rằng người nào là lớn nhất trong số họ.
"giữa vòng các môn đồ"
"suy nghĩ theo cách riêng" hay "xem xét trong tư tưởng của riêng họ"
Cụm từ nầy đề cập đến một người đang làm một việc gì đó như là đại biểu của Chúa Giê-xu. Tham khảo cách dịch: "vì cớ Ta"
Tham khảo: “tức là người đó cũng tiếp Thầy”
"Đức Chúa Trời, Đấng đã sai Ta" (UDB)
"Khi đáp lại, Giăng nói" hay "Giăng đáp lời Chúa Giê-xu". Giăng đã đáp ứng những gì Chúa Giê-xu đã nói về người cao trọng nhất. Ông không trả lời một câu hỏi. Ông muốn biết người đuổi quỉ nầy có đẳng cấp gì giữa vòng các môn đồ.
Từ ngữ được dịch ở đây là “thầy” không phải là từ ngữ thông thường nói tới “Thầy”. Từ ngữ nầy đề cập một nhân vật có thẩm quyền, chớ không đề cập đến người làm chủ người khác. Bạn có thể dịch từ nầy là "Chủ" hay "Quản đốc" hoặc với một từ thường được sử dụng nói tới một người đang nắm quyền hành, tỉ như “Ngài”."
Cụm từ nầy ý nói người đang nói với quyền phép và thẩm quyền của Chúa Giê-xu.
Tham khảo: “Hãy cứ để họ làm vậy”
Cụm từ nầy có thể được dịch là "nếu người nào không ngăn trở ngươi, họ đang giúp đỡ ngươi" hay "nếu có ai không làm ngược lại ngươi, người ấy đang làm thuận theo ngươi". Một số ngôn ngữ hiện đại có những câu nói mang ý nghĩa tương tự.
Bấy giờ rõ ràng là Chúa Giê-xu đã quyết định đi đến Giê-ru-sa-lem.
Cụm từ này được sử dụng ở đây để đánh dấu phần mở đầu của phần mới trong câu chuyện.
Cụm từ nầy được sử dụng ở đây để đánh dấu phần mở đầu chi tiết mới của câu chuyện. Nếu ngôn ngữ của bạn có cách thức để làm công việc nầy, bạn có thể xem xét sử dụng nó ở đây.
“nhất định” hoặc “quả quyết”
Đây là thành ngữ ý nói "chuẩn bị tâm tư" hay "quyết ý" hoặc "nhất quyết".
Cụm từ nầy ý nói thực hiện mọi sự chuẩn bị cho sự đến của Ngài trong khu vực, có lẽ bao gồm nói để giảng dạy, nơi để ở, và thức ăn.
"không chào đón Ngài" hay "không muốn Ngài đến đó ở”
"thấy rằng người Sa-ma-ri không tiếp đón Chúa Giê-xu"
Gia-cơ và Giăng đề nghị phương pháp xét đoán nầy vì họ vốn biết rõ rằng đây là cách các vị tiên tri như Ê-li đã xét đoán những kẻ chối bỏ Đức Chúa Trời.
"Chúa Giê-xu xây lại và quở Giacơ và Giăng". Chúa Giê-xu không phán xét người thành Sa-ma-ri, như các môn đồ trông mong.
This was not one of the disciples.
Chúa Giê-xu ám chỉ rằng nếu người ta muốn đi theo Ngài, người ấy quá mạnh đến nỗi không có nhà cửa chi hết. Phần thông tin ám chỉ cụ thể: "Vậy đừng mong rằng ngươi sẽ có một ngôi nhà"
Có những loại vật trong xứ tương tự như mấy con chó nhỏ. Chúng ngủ trong hang hay trong chỗ đào dưới đất.
"loài chim bao trên không trung"
Chúa Giê-xu đang nói tới chính mình Ngài ở ngôi thứ ba. Tham khảo cách dịch: "Ta, Con Người"
"không có chỗ đặt cái đầu xuống nằm" hay "không có chỗ để ngủ". Đây là phép cường điệu, Chúa Giê-xu đang nói tới điểm Ngài chẳng được hoan nghênh dù là ở đâu đi nữa.
Chúa Giê-xu tiếp tục nói chuyện với những người đến gặp Ngài dọc đường.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "Hãy làm môn đồ Ta" hay "Hãy làm môn đồ ta và hãy đến cùng ta"
"trước khi theo Ngài, hãy để tôi đi."
Khi con người chết thì không thể chôn người khác, điều này ám chỉ cái chết thuộc linh chôn vùi cái chết thuộc thể.
"tôi sẽ hiệp với Ngài trong vai trò một môn đồ" hay "tôi sẵn sàng bước theo Ngài" hay "tôi hứa theo Ngài"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "trước khi tôi làm việc ấy, con cho tôi nói lời giã từ" hay "cho phép tôi trước tiên nói cho họ biết rằng tôi sẽ ra đi"
"trong nhà tôi" hay "người sống trong nhà tôi"
Chúa Giê-xu nói ra câu nầy như một nguyên tắc bao quát áp dụng cho từng người. Tuy nhiên, ý nghĩa áp dụng cho con người là "các ngươi sẽ không xứng đáng với Vương quốc của ta nếu các ngươi nhắm vào con người trong quá khứ của ngươi thay vì nhắm vào việc bước theo Ta".
"sau khi đã khởi sự cày ruộng mình". Nhà nông sử dụng cái cày để sửa soạn ruộng mình thích ứng cho việc gieo giống. Nhiều cộng đồng không biết việc cày bừa có thể dịch từ ngữ nầy theo cách chung chung: "sau khi đã sửa soạn ruộng mình"
Người nào ngó lại đàng sau đang khi cày không thể cầm cày để đi cho thẳng được. Họ phải nhắm vào đáng trước để cày cho thẳng.
"thích đáng với" hay "thích nghi với"
Có người nói Chúa Giê-xu là Giăng Báp-tít đã sống lại từ kẻ chết, có người nói Êli đã xuất hiện, và có người nói một tiên tri đời xưa đã sống lại.
Ông đáp: "Thầy là Chúa Cứu Thế của Đức Chúa Trời.”
Người ấy phải chối bỏ mình, mỗi ngày vác lấy thập tự giá mà theo Chúa Giê-xu.
Môi-se và Êli đã hiện ra với Chúa Giê-xu.
Ngài tuyệt đối hướng mặt mình phải lên thành Giê-ru-sa-lem
1 Sau những việc ấy, Chúa chỉ định bảy mươi người nữa và sai phái từng đôi một đi trước Ngài vào tất cả các thành và những nơi Ngài định đến. 2 Ngài nói với họ: “Mùa gặt thật trúng, nhưng thợ gặt thì ít quá. Vậy hãy khẩn thiết cầu xin Chúa của mùa gặt sai thợ gặt vào mùa của Ngài. 3 Anh em hãy đi đi. Và này, Thầy sai anh em đi như chiên con ở giữa bầy sói. 4 Đừng đem theo túi tiền, giỏ xách, giày dép, và trong lúc đi cũng đừng chào hỏi ai cả. 5 Khi anh em vào nhà nào, trước hết hãy chào họ: ‘Nguyện sự bình an đến với nhà này.’ 6 Nếu nhà đó có người đáng được bình an, thì sự bình an của anh em sẽ ở trên người đó; còn nếu không, sự bình an ấy sẽ trở về với anh em. 7 Hãy ở lại nhà đó, dùng đồ ăn, thức uống họ cung cấp, vì người làm công đáng được hưởng công giá mình. Đừng bỏ nhà này sang nhà khác. 8 Khi anh em vào thành nào và được dân thành tiếp rước, hãy dùng thức ăn họ dọn cho anh em, 9 và chữa lành những người bệnh ở đó. Hãy nói với họ, ‘Vương quốc Đức Chúa Trời đã đến gần anh em.’ 10 Còn thành nào dân chúng không tiếp rước anh em, hãy đi ra ngoài đường và nói: 11 ‘Ngay cả bụi đất trong thành của các người bám ở chân chúng tôi cũng phủi sạch để các người thấy! Nhưng hãy biết rằng, vương quốc của Đức Chúa Trời đã đến gần.’ 12 Thầy nói để anh em biết, đến ngày phán xét thành Sô-đôm sẽ chịu hình phạt nhẹ hơn thành ấy. 13 Khốn cho ngươi, thành Cô-ra-xin! Khốn cho ngươi, thành Bết-sai-đa! Nếu những việc quyền năng đã làm ra giữa các ngươi được thực hiện tại thành Ty-rơ và Si-đôn, thì người dân của hai thành ấy đã mặc áo sô, ngồi trong tro bụi mà ăn năn từ lâu rồi. 14 Đến ngày phán xét, Ty-rơ và Si-đôn sẽ chịu hình phạt nhẹ hơn các ngươi. 15 Còn ngươi, Ca-bê-na-um, ngươi tưởng mình sẽ được tôn cao đến tận trời ư? Không, ngươi sẽ bị hạ xuống âm phủ. 16 Ai chịu nghe anh em tức là nghe Thầy, và ai chối bỏ anh em tức là chối bỏ Thầy, và ai chối bỏ Thầy tức là chối bỏ Đấng đã sai phái Thầy.” 17 Bảy mươi môn đồ trở về vui mừng thưa rằng: “Lạy Chúa, nhờ danh Chúa, ngay cả các quỷ cũng chịu khuất phục chúng tôi.” 18 Chúa Giê-xu đáp: “Thầy đã thấy Sa-tan từ trời sa xuống như ánh chớp. 19 Này, Thầy đã ban cho anh em thẩm quyền để giày đạp rắn, bò cạp và mọi quyền lực của kẻ thù. Không gì có thể làm hại anh em được. 20 Tuy nhiên, đừng chỉ vui mừng vì các quỷ phục tùng anh em, mà hãy vui mừng càng hơn vì tên của anh em đã được ghi trên thiên đàng.” 21 Cùng lúc ấy, Chúa Giê-xu rất vui mừng trong Đức Thánh Linh và nói: “Lạy Cha là Chúa của trời đất, Con ngợi khen Cha vì Ngài giấu kín những điều này trước những người khôn ngoan và thông thái, mà lại bày tỏ cho những người không có học thức, giống như trẻ thơ. Lạy Cha, phải, vì điều đó đẹp ý Ngài.” 22 “Cha đã giao phó mọi sự cho Con, không ai biết Con ngoại trừ Cha, cũng không ai biết Cha ngoại trừ Con, và người nào Con muốn bày tỏ cho.” 23 Quay sang các môn đồ, Ngài nói riêng với họ: “Phước cho những ai được thấy những điều anh em thấy. 24 Thầy bảo với anh em, nhiều đấng tiên tri và vua chúa ao ước được thấy những điều anh em thấy, được nghe những điều anh em nghe, mà chẳng được.” 25 Khi ấy, có một giáo sư luật đứng lên hỏi để thử Chúa Giê-xu: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được hưởng sự sống đời đời?” 26 Ngài đáp: “Trong luật pháp có chép điều gì? Ông đọc thấy thế nào?” 27 Ông ta đáp: “Con phải hết lòng, hết linh hồn, hết sức, hết trí hiểu mà kính mến Chúa là Đức Chúa Trời của con, và phải yêu người lân cận như mình.” 28 Chúa Giê-xu nói: “Ông trả lời đúng lắm. Hãy làm theo như vậy thì ông sẽ sống.” 29 Nhưng thầy ấy muốn tự thanh minh, nên thưa với Chúa Giê-xu: “Vậy ai là người lân cận tôi?” 30 Ngài đáp: “Có một người đi từ thành Giê-ru-sa-lem xuống thành Giê-ri-cô. Anh rơi vào tay bọn cướp, chúng lột sạch tài sản anh, đánh đập anh và bỏ mặc anh dở sống dở chết. 31 Tình cờ, một thầy tế lễ đi ngang qua đó, thấy người bị nạn liền tránh qua bên kia đường. 32 Tương tự như vậy, một người Lê-vi đi ngang, thấy nạn nhân và cũng tránh sang bên kia đường. 33 Nhưng có một người Sa-ma-ri đi đường, nhìn thấy nạn nhân thì động lòng thương xót. 34 Anh lại gần, lấy dầu và rượu xức các vết thương, băng bó lại. Rồi anh đỡ nạn nhân lên con vật mình cưỡi, đưa đến một quán trọ và chăm sóc người ấy. 35 Sang ngày hôm sau, anh lấy hai đơ-ni-ê đưa cho chủ quán và dặn: ‘Hãy chăm sóc anh ấy, nếu thiếu, khi trở về tôi sẽ trả cho ông.’ 36 Theo ông, ai trong ba người đó là người lân cận của người bị cướp?” 37 Thầy ấy đáp: “người đã tỏ lòng thương xót nạn nhân.” Chúa Giê-xu bảo ông: “Hãy đi và làm như vậy.” 38 Trên đường đi, Chúa Giê-xu và các môn đồ vào một làng kia, có một phụ nữ tên là Ma-thê tiếp đón Ngài vào nhà mình. 39 Cô có người em gái tên Ma-ri, ngồi dưới chân Chúa lắng nghe lời Ngài. 40 Nhưng Ma-thê quá bận bịu với việc chuẩn bị bữa ăn. Cô đến thưa với Chúa Giê-xu: “Lạy Chúa, Chúa không thấy em tôi để một mình tôi phục vụ sao? Xin bảo nó giúp tôi.” 41 Nhưng Chúa đáp lời cô: “Ma-thê ơi, Ma-thê, cô lo lắng về nhiều việc, 42 nhưng chỉ có một việc cần thiết mà thôi. Ma-ri đã chọn điều tốt nhất, là điều sẽ không bị lấy đi.”
Từ này được dùng để đánh dấu một sự kiện mới trong câu chuyện.
"70". Có bản dịch chép "bảy mươi hai" hay "72". Bạn có thể tạo một ghi chú chân trang để nhắc đến con số nầy.
"sai họ đi từng nhóm hai người" hay "sai họ đi với hai người trong mỗi nhóm"
Việc nầy xảy có trước khi họ đi ra. Cụm từ nầy có thể được dịch là "Đây là những gì Ngài đã phán cùng họ" hay "Trước khi họ đi ra Ngài phán cùng họ"
"Có mùa gặt lớn, nhưng không đủ con gặt để thu thập về". Ẩn dụ nầy ý nói rằng có nhiều người sẵn sang được đưa vào mùa gặt [[enobektkingdomofgod]])
Cụm từ nầy có thể được dịch là "hãy vào các thành" hay "hãy đến với người ta" hoặc "hãy đi đem về nhiều người".
Đây là sự ví sánh ý nói những người Chúa Giê-xu sai đi có thể bị tấn công bởi những kẻ mà họ gặp gỡ. Cụm từ nầy có thể được dịch là "khi ta sai các ngươi đi, người ta sẽ muốn hãm hại các ngươi giống như bầy sói tấn công bầy chiên vậy". Tên của các loài thú có thể được hoán đổi.
Bầy sói tương tự như bầy chó hoang. Chúng tấn công và ăn thịt các động vật khác, tỉ như chiên con. "Bầy sói" có thể được dịch với dạng di truyền như "bầy chó hoang" hay "chó dữ" hoặc với tên thú vật đặc biệt như con chó mà dân sự của bạn vốn biết rõ, tỉ như "sói đồng cỏ" hay "chó rừng"
"đừng đem túi tiền theo với các ngươi"
Chúa Giê-xu đang nhấn mạnh rằng họ đi mau đến các thành các làng và lo làm công việc mình. Ngài không bảo họ lỗ mãng đâu.
"Nguyện người sống trong nhà nầy nhận được sự bình an". Câu nầy vừa là lời chào vừa là lời chúc phước.
"một người được bình an". Đây là người mong muốn sự hoà thuận với Đức Chúa Trời và với người ta.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "người ấy sẽ có sự bình an mà người đã chúc cho người"
"nếu không có người nào đáng được bình an ở đó" hay "nếu chủ nhà không phải là người đáng được bình an"
"ngươi sẽ có sự bình an ấy"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "Cứ ngủ lại ở nhà đó". Chúa Giê-xu không nói rằng họ nên ở nhà đó suốt ngày đâu, nhưng họ nên ngủ ở cùng căn nhà mà mỗi tối họ ngủ ở đó.
Đây là nguyên tắc chung mà Chúa Giê-xu đem áp dụng cho những người Ngài sai phái. Một khi họ đã được dạy dỗ và chữa lành cho dân sự, người ta sẽ tiếp trợ cho họ với chỗ ở và thức ăn.
Cụm từ nầy ý nói "Đừng ngủ ở nhà khác mỗi đêm"
"nếu họ đón tiếp các ngươi"
"hãy băn bất cứ thứ gì họ trao cho các ngươi"
Cụm từ nầy đề cập đến sự thực là hoạt động của Nước Trời đã diễn ra ở chung quanh họ trong sự chữa lành của các môn đồ và sự dạy của Chúa Giê-xu. Cụm từ nầy cũng có thể được dịch là "các ngươi sẽ thấy Nước Trời đang ở cạnh các ngươi ngay lúc nầy đây"
"nếu họ từ chối các ngươi"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "giống như các ngươi đã chối bỏ chúng ta, chúng ta chối bỏ các ngươi. Thậm chí chúng ta chối bõ bụi từ thành các ngươi bám vào chân chúng ta". Kể từ khi Chúa Giê-xu sai phái số người đi ra cứ hai người một nhóm, hai người có thể nói điều nầy. Các thứ ngôn ngữ có cách thức tương tự “chúng ta” nên sử dụng cách nói đó.
Cụm từ nầy đưa ra một lời cảnh cáo. Ý nói "mặc dù các ngươi từ chối chúng ta, điều đó không làm thay đổ sự thực Vương quốc đang hiện hữu ở đây!"
"Nước của Đức Chúa Trời đang ở chung quanh bạn"
Chúa Giê-xu đang phán điều nầy với 70 người Ngài đã sai đi. Ngài phán điều nầy để tỏ ra rằng Ngài sắp sửa nói ra một việc quan trọng.
Cụm từ muốn nói "ngày ấy". Nhưng các môn đồ vốn hiểu rõ điều nầy đề cập đến thời điểm phán xét sau cùng đối với hạng tội nhân.
"Sôđôm sẽ không bị phán xét nghiệt ngã như thành ấy sẽ bị xét đoán". Cụm từ nầy ý nói "thành ấy sẽ bị xét đoán nghiệt ngã hơn thành Sôđôm"
Chúa Giê-xu phán giống như thể dân sự của hai thành Côraxin và Bếtsaiđa có mặt ở đó lắng nghe Ngài, nhưng họ không có mặt.
Chúa Giê-xu đang mô tả một tình huống có thể đã xảy ra trong quá khứ nhưng đã không diễn ra. Tham khảo “Nếu ai đó đã làm những việc lạ giữa những người trong thành Ty-rơ và Si-đôn là những việc mà ta đã làm”.
"hạng người gian ác sống ở đó sẽ tỏ ra họ hối tiếc về tội lỗi của họ"
"mặc áo gai và ngồi trong đống tro"
"Đức Chúa Trời sẽ hình phạt ngươi nặng nề hơn dân sự thành Ty-rơ và thành Si-đôn". Lý do cho sự việc nầy đưa đưa ra cụ thể hơn trong Kinh Thánh "vì các ngươi trong ăn năn và tin theo ta mặc dù các ngươi thấy ta làm ra nhiều phép lạ”.
"vào ngày sau rốt khi Đức Chúa Trời phán xét mọi người"
Giờ đây Chúa Giê-xu phán cùng người thành Ca-bê-na-um giống như thể họ đang lắng nghe Ngài, nhưng họ không có mặt.
Đây là câu hỏi hùng biện, trong đó Chúa Giê-xu quở dân thành Ca-bê-na-um vì sự kiêu ngạo của họ. Cụm từ nầy có thể được dịch với động từ chủ động "ngươi sẽ lên đến trời" hay "có phải ngươi tưởng rằng Đức Chúa Trời sẽ coi trọng ngươi sao?"
Được tôn lên cao là thành ngữ ý nói "sẽ được tôn trọng"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "khi ai nghe các ngươi, thì giống như thể họ đang nghe ta"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "khi ai từ chối các ngươi, thì giống nưh thể họ đang từ chối ta"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "khi ai từ chối ta, thì giống như thể họ đang từ chối Đấng đã sai ta"
Cụm từ nầy đề cập đến Đức Chúa Cha là Đấng đã chỉ định Chúa Giê-xu về phần việc đặc biệt nầy. Cụm từ nầy có thể được dịch là "Đức Chúa Trời, Đấng đã sai ta".
Một số ngôn ngữ cần phải nói rằng bảy mươi người thực sự đi ra y như Kinh Thánh chép. Đây là phần thông tin cụ thể đã được đưa ra.
Bạn có thể them chú thích chân trang "Một số bản dịch chép '72' thay vì là '70'"
Ở đây "danh" đề cập đến quyền phép và thẩm quyền của Chúa Giê-xu.
Chúa Giê-xu sử dụng sự vì sánh để mô tả cách thức Đức Chúa Trời đánh bại Sa-tan khi 70 môn đồ Ngài đi giảng đạo trong các thành các làng.
"quyền giày đạp rắn, và bò cạp". Ý nghĩa khả thi là 1) câu nầy đề cập đến loài rắn và bò cạp hay 2) loài rắn và bò cạp là ẩn dụ nói tới các tà linh. Kinh Thánh dịch câu nầy như đang đề cập đến các tà linh "ta đã ban cho các ngươi quyền tấn công các tà linh"
Cụm từ nầy ám chỉ rằng họ sẽ làm việc nầy mà không bị thương. Bạn có thể nói cụ thể hơn "đạp trên rắn và bò cạp mà không bị thương"
con vật nhỏ với hai càng và nọc độc nơi đuôi của nó
"ta đã ban cho các ngươi quyền chà nát quyền lực của kẻ thù" hay "ta đã ban cho các ngươi quyền đánh bại kẻ thù". Kẻ thù là Sa-tan.
"đừng chỉ vui mừng vì ma quỷ phục tùng các ngươi”
Cụm từ nầy có thể được dịch với động từ chủ động "Đức Chúa Trời đã ghi tên các ngươi trên thiên đàng" hay "tên các ngươi đã ghi trên danh sách những kẻ nào là công dân thiên quốc"
"Chủ Tễ trên mọi người và mọi vật trên trời dưới đất"
Cụm từ nầy đề cập đến sự dạy trước đây của Chúa Giê-xu về thẩm quyền của các môn đồ. Tốt nhứt là nói "những sự nầy" và để cho độc giả quyết định ý nghĩa.
"từ hạng người nào là khôn ngoan và thông biết". Cụm từ nầy có thể được dịch là "từ những người nghĩ họ khôn ngoan và thông sáng"
Câu này nói đến những người không nghĩ mình là khôn ngoan và sẽ sẵn sàng tiếp nhận lời dạy dỗ của Chúa Giê-xu.
"như trẻ thơ." Cách diễn đạt này nói đến những người biết rằng họ không khôn ngoan và không hiểu biết.
Tham khảo “vì điều này đẹp ý Ngài”
Cụm từ nầy có thể được dịch với động từ chủ động "Cha ta đã giao mọi sự cho ta"
Đây là những danh hiệu quan trọng mô tả mối quan hệ giữa Đức Chúa Trời và Chúa Giê-xu.
Chúa Giê-xu đang đề cập đến chính mình Ngài bằng ngôi thứ ba.
Từ ngữ được dịch là "biết" ý nói biết từ kinh nghiệm cá nhân. Đức Chúa Cha biết Chúa Giê-xu với cấp độ nầy.
Cụm từ nầy ý nói "Chỉ có Đức Chúa Cha mới biết Con là ai"
Từ ngữ được dịch là "biết" ý nói biết từ kinh nghiệm cá nhân. Chúa Giê-xu biết Đức Chúa Cha theo cách thức nầy
Cụm từ nầy ý nói "chỉ có Con mới biết Cha là ai"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "người nào biết Đức Chúa Cha chỉ khi nào Con muốn tỏ Cha ra cho họ"
Có thể việc này xảy ra ở một thời điểm sau đó. Tham khảo “Sau đó, khi các môn đồ đang ở với Ngài, Ngài nói”
Cụm từ nầy có thể được dịch là "thật lấy làm tốt cho người nào thấy những việc mà các ngươi đang thấy". Có lẽ câu nầy đề cập đến hết thảy những ai đã đến nghe Chúa Giê-xu giảng dạy.
"những việc các ngươi đã thấy ta làm"
"những điều các ngươi đã nghe ta nói"
Chúa Giê-xu trả lời câu hỏi của một giáo sư Do Thái bằng một câu chuyện, đây là người muốn thử Chúa Giê-xu.
Cụm từ "bấy giờ" báo cho chúng ta biết một nhân vật mới trong câu chuyện. Ngôn ngữ của bạn có thể có cách thức làm việc nầy. Anh ngữ sử dụng "có một thầy dạy luật …”
Từ này cho chúng ta biết có một nhân vật mới xuất hiện trong câu chuyện. Có thể ngôn ngữ của dịch giả có cách diễn đạt điều này.
"thách thức Chúa Giê-xu"
Chúa Giê-xu dùng câu hỏi để dạy giáo sư người Do Thái. Tham khảo “Hãy cho Ta biết Môi-se đã viết gì trong luật pháp.”
"Ngươi đọc gì trong đó?" hay "Ngươi hiểu sách luật chép gì không?"
Người này trích lại điều Môi-se chép trong luật pháp.
Hết thảy mọi sự nầy ý nói rằng một người phải kính mến Đức Chúa Trời một cách trọn vẹn với hết sức sống của họ.
Cụm từ nầy đề cập đến một thành viên trong cộng đồng của bạn. Cụm từ nầy có thể được dịch là "đồng bào của ngươi" hay "người sống trong cộng đồng của ngươi"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "nhưng thầy ấy muốn tìm cách xưng mình là công bình, vì vậy thầy ấy nói" hay "nhưng mong muốn tỏ ra mình là công bình, thầy ấy nói".
Cụm từ nầy có thể được dịch là "Để đáp trả, Chúa Giê-xu nói cho người biết câu chuyện nầy"
"bị cướp bao vây". Cụm từ nầy có thể được dịch với động từ chủ động "một số kẻ cướp tấn công ông ta"
"lấy hết mọi thứ ông ta có" hay "cướp hết mọi thứ của ông ta"
Đây không phải là việc mà bất kỳ ai đã sắp xếp.
Cụm từ nầy giới thiệu một nhân vật mới trong câu chuyện, không nói đích danh.
"khi thầy tế lễ thấy người bị thương". Thầy tế lễ là một người rất tôn giáo, vì vậy khan thính giả sẽ cho rằng ông sẽ cứu giúp kẻ bị thương. Một khi ông không giúp, cụm từ nầy có thể được dịch là "nhưng khi ông thấy người ấy" kêu gọi chú ý kết quả bất ngờ nầy.
Cụm từ nầy ám chỉ rằng ông ta không cứu giúp người kia. Cụ thể là "ông đi qua mà không giúp đỡ kẻ bị thương kia"
Cụm từ nầy giới thiệu một nhân vật mới trong câu chuyện mà không nêu đích danh. Chúng ta chỉ biết rằng đây là một người Samari. Người Do thái xem khinh người Samari và cho rằng mình sẽ chẳng cứu giúp người Do thái bị thương tích kia.
"khi người Samari thấy kẻ bị thương"
"ông ta cảm thấy đau buồn cho kẻ kia"
Một khi ông ta trước tiên lấy dầu và rượu xức cho kẻ bị thương kia, cụm từ nầy có thể được dịch là "người lấy dầu và rượu xức cho kẻ bị thương rồi dung áo quấn người lại". Rượu được sử dụng làm sạch vế thương, và dầu có lẽ được dung để ngăn nhiễm trùng.
Rượu được dùng để lau vết thương, và dầu chắc chắn được dùng để ngăn nhiễm trùng.
"thú vật của riêng ông ta". Đây là con thú mà ông ta sử dụng để chở hang hoá. Có lẽ đây là con lừa.
"tiền công hai ngày". "Đơ-ni-ê" là số nhiều.
"chủ quán trọ" hay "người lo liệu cho nhà quán"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "Ngươi nghĩ sao? Ai trong ba người nầy"
"tỏ ra mình đúng là người lân cận"
"lân cận với kẻ bị cướp tấn công"
Chúa Giê-xu đến thăm gia đình của Ma-thê, tại đó chị bà là Ma-ri chăm chú lắng nghe Ngài dạy dỗ.
Từ này được dùng để đánh dấu một sự kiện mới.
"Giờ đây khi Chúa Giê-xu và các môn đồ Ngài đi đường". Một khi điều nầy là chi tiết mới của câu chuyện, thật là tự nhiên trong một số ngôn ngữ nói đến "họ". Ngôn ngữ của bạn có thể có cách chỉ ra đây là chi tiết mới của câu chuyện.
Cụm từ nầy giới thiệu ngôi làng như một địa điểm mới, song không nêu đích danh.
Cụm từ nầy giới thiệu Ma-thê là một nhân vật mới. Ngôn ngữ của bạn có thể có cách thức giới thiệu nhân vật mới.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "ngồi dưới đất và lắng nghe Chúa dạy dỗ". Đây là chỗ đáng tôn trọng thường lệ dành cho học viên trong thời ấy.
Tham khảo “và lắng nghe Chúa dạy dỗ”
Ma-thê đang than phiền rằng Chúa cho phép Ma-ri ngồi nghe Ngài giảng dạy khi có rất nhiều việc phải lo làm. Nàng tôn trọng Chúa, vì vậy nàng sử dụng câu hỏi hùng biện để làm dịu đi sự than vãn của nàng. Cụm từ nầy có thể được dịch là "Dường như Ngài không quan tâm"
Chúa Giê-xu lặp lại tên của Ma-thê nhằm nhấn mạnh. Tham khảo “Hỡi Ma-thê” hoặc “Chị Ma-thê ơi”
Ý nghĩa khả thi là 1) "Ta không thể tước cơ hội nầy khỏi nàng được" hay 2) "nàng sẽ không đánh mất những gì nàng kiếm được khi nàng nghe ta rao giảng"
Chúa Giê-xu nức lòng với Đức Chúa Cha khi tỏ ra Nước Trời cho những kẻ vô học, như trẻ nhỏ vậy.
Người đi ngang qua.
Nàng mãi lo việc vặt, lo dọn bữa ăn.
1 Khi Chúa Giê-xu đang cầu nguyện tại một nơi nọ, thì một trong các môn đồ thưa với Ngài: “Lạy Chúa, xin dạy chúng tôi cầu nguyện, như Giăng đã dạy môn đồ mình.” 2 Chúa Giê-xu nói với họ: “Khi anh em cầu nguyện, hãy thưa rằng: ‘Lạy Cha, xin danh Cha được tôn thánh. Vương quốc Cha được đến. 3 Xin cho chúng con bánh ăn hàng ngày. 4 Xin tha tội cho chúng con, như chúng con cũng tha thứ cho người phạm lỗi với chúng con. Xin đừng đưa chúng con vào sự cám dỗ.’” 5 Chúa Giê-xu nói với họ: “Trong anh em có ai giữa đêm sang nhà một người bạn và nói: ‘Bạn ơi, cho tôi mượn ba ổ bánh, 6 vì một người bạn của tôi đi đường vừa ghé vào, mà tôi không có gì để dọn cho anh ấy,’ 7 rồi người kia trong nhà trả lời: ‘Đừng làm phiền tôi. Cửa đã đóng rồi, tôi và các con đều đã lên giường. Tôi không thể dậy lấy bánh cho anh được đâu’? 8 Thầy cho anh em biết, dù người ấy không dậy lấy bánh cho anh em vì tình nghĩa bạn bè, thì anh ta cũng sẽ dậy và lấy cho anh em số bánh mà anh em cần, vì anh em cứ dùng dằng mãi không chịu đi. 9 Thầy cũng cho anh em biết, hãy xin, sẽ được; hãy tìm, sẽ gặp; hãy gõ cửa, cửa sẽ mở cho. 10 Vì ai xin sẽ được; ai tìm sẽ gặp và cửa sẽ mở cho người nào gõ. 11 Có người cha nào trong anh em khi con mình xin cá mà lại cho rắn? 12 Hay con mình xin trứng mà lại cho bò cạp? 13 Vậy, nếu anh em vốn là ác mà còn biết cho con cái mình vật tốt thì Cha của anh em ở trên trời lẽ nào lại không ban Đức Thánh Linh cho những người xin Ngài sao?” 14 Sau đó, Chúa Giê-xu đuổi một con quỷ câm. Khi quỷ ra rồi thì người câm liền nói được, khiến đoàn dân đông rất kinh ngạc! 15 Nhưng một số người nói rằng: “Ông ta nhờ Bê-ên-xê-bun là chúa quỷ mà trừ quỷ.” 16 Những người khác thì thử Chúa nên xin Ngài làm một dấu lạ từ trời. 17 Chúa Giê-xu biết ý tưởng của họ nên Ngài nói với họ: “Nước nào tự chia rẽ thì sẽ suy vong, còn nhà nào tự chia rẽ thì sẽ tan hoang. 18 Nếu Sa-tan tự chia rẽ thì vương quốc của hắn tồn tại thế nào được? Vì các ông nói tôi nhờ Bê-ên-xê-bun mà đuổi quỷ. 19 Nếu tôi nhờ Bê-ên-xê-bun mà đuổi quỷ, thì những người theo các ông nhờ ai mà đuổi quỷ? Vì lẽ đó, họ sẽ là những người xét xử các ông. 20 Nhưng nếu tôi nhờ quyền năng của Đức Chúa Trời mà đuổi quỷ, thì vương quốc của Ngài đã đến với các ông rồi. 21 Khi một người mạnh sức được vũ trang đầy đủ bảo vệ nhà mình thì tài sản của người ấy sẽ được an toàn, 22 nhưng nếu có một người mạnh hơn đánh thắng anh ta, thì sẽ tước vũ khí và cướp sạch tài sản của anh ta. 23 Người nào không thuận với tôi là chống lại tôi, người không hiệp với tôi sẽ bị tan lạc. 24 Khi một uế linh ra khỏi một người, nó đi qua những nơi cằn cỗi để tìm chỗ nghỉ. Khi không tìm thấy, nó nói: ‘Ta sẽ trở về nhà ta, là nơi ta vừa ra khỏi.’ 25 Khi quay trở về, nhìn thấy nhà đã được quét dọn sạch sẽ, ngăn nắp, 26 nó liền đi và đưa về bảy quỷ khác dữ hơn cùng sống trong nhà đó. Nên số phận của người ấy về sau còn tệ hơn lúc trước.” 27 Khi Ngài nói những lời này, một phụ nữ giữa đám đông lên tiếng nói với Ngài: “Phước cho dạ đã cưu mang Thầy và vú đã cho Thầy bú.” 28 Nhưng Ngài đáp: “Đúng hơn thì phước cho ai nghe lời Đức Chúa Trời và vâng giữ lấy.” 29 Khi dân chúng tụ họp lại đông hơn, Ngài bắt đầu nói: “Thế hệ này là thế hệ gian ác. Họ tìm một dấu hiệu, nhưng sẽ không có dấu hiệu nào được ban cho họ ngoài dấu hiệu về Giô-na. 30 Vì Giô-na đã là dấu hiệu cho dân thành Ni-ni-ve thế nào thì Con Người cũng sẽ là dấu hiệu cho thế hệ này thể ấy. 31 Trong ngày phán xét Nữ Hoàng Nam Phương sẽ đứng dậy cùng với người của thế hệ này, và lên án họ, vì từ vùng đất thật xa xôi bà đã lặn lội đến để nghe lời khôn ngoan của vua Sa-lô-môn, và này, ở đây có Đấng còn cao trọng hơn Sa-lô-môn. 32 Trong ngày phán xét, dân thành Ni-ni-ve sẽ đứng dậy với thế hệ này, và sẽ lên án họ, vì dân thành ấy đã ăn năn khi nghe lời Giô-na rao giảng, và này, ở đây có một Đấng còn vĩ đại hơn Giô-na. 33 Không ai thắp đèn rồi để ở chỗ khuất hay ở dưới cái thùng, nhưng đặt nó trên chân đèn để mọi người bước vào đều thấy ánh sáng. 34 Mắt của anh em là đèn của thân thể. Nếu mắt tốt thì cả thân thể đều sáng, nhưng khi mắt kém thì cả thân thể sẽ tối tăm. 35 Vì vậy, hãy cẩn thận, đừng để ánh sáng trong anh em trở thành bóng tối. 36 Nếu cả thân thể của anh em tràn ngập ánh sáng, không có phần nào tối tăm, thì cả thân thể của anh em sẽ giống như khi anh em được đèn chiếu sáng.” 37 Khi Ngài nói xong, có một người Pha-ri-si mời Ngài về nhà dùng bữa, nên Chúa Giê-xu vào nhà người ấy và ngồi vào bàn. 38 Người Pha-ri-si rất ngạc nhiên khi thấy Ngài không rửa tay trước khi ăn. 39 Nhưng Chúa nói với ông: “Người Pha-ri-si các ông rửa bên ngoài cốc và chén, nhưng trong lòng đầy dẫy sự tham lam và gian ác. 40 Hỡi những kẻ kẻ thiếu suy nghĩ! Đấng đã làm ra bên ngoài chẳng lẽ không làm bên trong sao? 41 Hãy lấy những vật đựng bên trong mà cho người nghèo, khi ấy mọi thứ sẽ sạch sẽ cho các ông. 42 Nhưng khốn cho các ông là người Pha-ri-si, vì các ông dâng phần mười bạc hà, hồi hương và mọi thứ rau cỏ khác trong vườn, nhưng lại bỏ qua công lý và lòng yêu mến Đức Chúa Trời. Các ông cần phải hành xử một cách công minh và yêu mến Đức Chúa Trời bên cạnh những việc kia. 43 Khốn cho các ông là người Pha-ri-si, vì các ông thích ngồi những ghế đầu trong nhà hội và thích được người ta kính cẩn chào mình giữa chợ. 44 Khốn cho các ông, vì các ông giống như nấm mồ hoang, người ta đạp lên mà không biết.” 45 Một giáo sư luật thưa với Ngài: “Thưa Thầy, Thầy nói vậy là xúc phạm cả chúng tôi nữa.” 46 Chúa Giê-xu đáp: “Khốn cho các ông là những giáo sư luật! Các ông chất cho người ta những gánh nặng mang không nổi còn các ông thì thậm chí chẳng động ngón tay vào. 47 Khốn cho các ông, vì các ông xây bia tưởng niệm trên mộ các nhà tiên tri, trong khi chính tổ phụ các ông đã giết chết họ. 48 Như vậy, các ông là nhân chứng, đồng thời cũng tán thành việc làm của tổ phụ mình vì quả là họ đã giết các tiên tri mà các ông xây đài tưởng niệm cho. 49 Cũng vì lý do này mà Đức Chúa Trời là Đấng khôn ngoan phán rằng: ‘Ta sẽ sai các tiên tri và các sứ đồ đến với chúng nó, chúng sẽ bắt bớ và giết đi một số người giữa vòng họ.’ 50 Vậy, thế hệ này sẽ phải chịu trách nhiệm về máu của tất cả các tiên tri đã đổ ra từ khi sáng thế, 51 từ máu của A-bên cho đến máu của Xa-cha-ri, người đã bị giết ở giữa bàn thờ và nơi thánh. Phải, tôi cho các ông biết, thế hệ này sẽ phải chịu trách nhiệm. 52 Khốn cho các ông là giáo sư luật, vì các ông lấy đi chìa khóa của tri thức; chính các ông không vào, mà còn ngăn trở những người muốn vào.” 53 Sau khi Chúa Giê-xu đi khỏi, các thầy dạy luật và người Pha-ri-si chống đối và tranh cãi với Ngài đủ điều, 54 tìm cách gài bẫy Ngài trong lời Ngài nói.
Đây là mở đầu của phần tiếp theo trong câu chuyện. Chúa Giê-xu dạy các môn đồ Ngài cầu nguyện.
Cụm từ nầy được sử dụng ở đây để đánh dấu phần mở đâu chi tiết mới của câu chuyện. Nếu ngôn ngữ của bạn có cách thức làm việc nầy, bạn có thể xem xét sử dụng cách ấy ở đây.
“khi cầu nguyện xong". Tự nhiên hơn nữa khi nói rằng Chúa Giê-xu đã cầu nguyện trước khi nói “khi cầu nguyện xong"
Chúa Giê-xu, Con Đức Chúa Trời, truyền cho các môn đồ phải tôn kính danh Đức Chúa Cha bằng cách gọi Đức Chúa Trời là “Cha” khi cầu nguyện.
"Chúa Giê-xu phán cùng các môn đồ Ngài"
Đây là một danh hiệu quan trọng dành cho Đức Chúa Trời.
Tham khảo cách dịch: "nguyện mọi người tôn vinh Ngài" hay "hãy khiến mọi người tôn vinh danh Ngài". Ý nói: "chúng tôi muốn mọi người tôn vinh Ngài"
"Hãy thiết lập Nước của Ngài". Ý nói: "Chúng tôi muốn Ngài cai trị trên dân sự Ngài"
Chúa Giê-xu tiếp tục dạy các môn đồ Ngài cầu nguyện.
Bánh là thức ăn không đắt tiền mà người ta dung mỗi ngày. Cụm từ được sử dụng ở đây đề cập đến thức ăn chung. Có thể được dịch là "thức ăn chúng con cần mỗi ngày".
"Xin tha cho chúng tôi việc phạm tội nghịch cùng Ngài" hay "Xin tha thứ tội lỗi chúng tôi"
"một khi chúng tôi cũng tha thứ"
"kẻ phạm tội nghịch cùng chúng tôi" hay "kẻ nào làm ra những việc sai trái đối với chúng tôi"
Đây là cách nói có nghĩa là: "Xin dẫn chúng tôi tránh sự cám dỗ"
Chúa Giê-xu tiếp tục dạy các môn đồ Ngài về sự cầu nguyện.
Chúa Giê-xu dùng câu hỏi để dạy các môn đồ. Có thể dịch là “Giả sử một người trong các ngươi”
"cho tôi mượn ba cái bánh" hay "cho tôi ba cái bánh và tôi sẽ trả lại cho bạn sau". Chủ nhà không có thứ đồ ăn nào sẵn sàng trao cho khách của mình.
có thể sử dụng thuật ngữ như "bánh đã nướng" hay "bánh có sẵn"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "họ đi đường và mới tới nhà tôi"
"không có đồ ăn sẵn để đãi người"
"Chờ dậy thật không tiện cho tôi"
Chúa Giê-xu đang phán cùng các môn đồ, vì vậy chữ "you" [các ngươi] là số nhiều.
Chúa Giê-xu nói với các môn đồ giống như thể họ là những kẻ xin bánh. Cụm từ nầy có thể được dịch là "hãy trao bánh cho người ấy, vì họ là bạn của người ấy"
Cụm từ nầy đề cập đến sự thực người xin bánh bất chấp sự thực điều không tiện để bạn mình không dậy được lúc giữa đêm để lấy bánh cho mình.
Chúa Giê-xu đưa ra các mạng lịnh nầy để khích lệ các môn đồ Ngài phải cầu nguyện liên tục. Hãy sử dụng hình thức "các ngươi" rất thích ứng trong phân đoạn nầy. Các mạng lịnh nầy có thể được dịch là "cứ cầu xin điều con cần … cứ tìm kiếm điều con cần từ Chúa… cứ gõ cửa".
Cụm từ nầy có thể được dịch với động từ chủ động: "Đức Chúa Trời sẽ ban dđiều đó cho ngươi" hay "ngươi sẽ nhận được điều đó"
Gõ nơi cửa là đập vào đó mấy lần để khiến cho người ở bên trong nhận ra bạn đang đứng ở ngoài. Từ nầy có thể được dịch theo văn hóa của bạn để thể hiện rằng họ đã đến, giống như "kêu" hay "ho" hoặc "đập". Ở đây, có nghĩa là một người nên tiếp tục cầu nguyện thưa với Chúa cho đến khi Ngài đáp lời.
Cụm từ nầy có thể được dịch với động từ chủ động: "Đức Chúa Trời sẽ mở cửa cho bạn" hay "Đức Chúa Trời sẽ đón bạn vào bên trong"
Chúa Giê-xu kết thúc phần dạy các môn đồ Ngài về sự cầu nguyện.
Chúa Giê-xu dùng câu hỏi để dạy các môn đồ Ngài. Tham khảo: “Chẳng ai trong các ngươi…rắn.”
"xin một ổ bánh.” Tham khảo: “xin đồ ăn”
Có thể dịch thành một câu mới: "Hay, nếu nó xin cá, lẽ nào ngươi lại cho rắn?"
bò cạp tương tự với con nhện, nhưng nó cái đuôi với ngòi nọc độc. Nếu nơi bạn ở không biết bò cạp, bạn có thể dịch từ ngữ nầy là "nhện độc" hay "nhện có nọc độc"
"một khi ngươi là xấu mà còn biết" hay "mặc dù người sống tội lỗi, mà ngươi còn biết"
“Huống chi Cha các ngươi ở trên trời lại chẳng ban Đức Thánh Linh cho người xin Ngài sao?” Chúa Giê-xu lại dùng một câu hỏi để dạy dỗ môn đồ của Ngài. Có thể dịch là “Ngươi có thể tin chắc rằng Cha thiên đàng sẽ ban Đức Thánh Linh cho ngươi.”
Đây là phần tiếp theo trong câu chuyện. Chúa Giê-xu bị chất vấn sau khi Ngài đuổi quỉ ra khỏi một người câm.
"Và Chúa Giê-xu đuổi một con quỉ ra khỏi người" hay "và Ngài buộc con quỉ phải ra khỏi người kia"
Dường như con quỉ không thể nói được. Độc giả sẽ hiểu rằng con quỉ nầy có quyền ngăn không cho người kia nói. Bạn có thể làm cho phần thông tin nầy ra cho rõ ràng: "con quỉ khiến cho người nầy không nói được"
Từ ngữ nầy được sử dụng ở đây để đánh dấu chỗ mà sự việc khởi sự. Nếu ngôn ngữ của bạn có cách thức để làm công việc nầy, bạn có thể xem xét sử dụng nó ở đây. Khi con quỉ ra khỏi người ấy, có người chỉ trích Chúa Giê-xu, và điều đó khiến Chúa Giê-xu dạy dỗ về các tà linh.
"khi con quỉ ra khỏi người" hay "khi con quỉ lìa khỏi người"
"người đó không thể nói"
"Ngài đuổi quỉ bằng quyền lực của Bê-ên-xê-bun, chúa quỉ"
Chúa Giê-xu bắt đầu trả lời đoàn dân đông.
"người khác đã thử Chúa Giê-xu". Họ muốn Ngài minh chứng rằng quyền phép của Ngài ra từ Đức Chúa Trời.
"và xin Ngài ban cho một dấu lạ xuống từ trời" hay "bằng cách đòi hỏi Ngài ban cho một dấu lạ từ trời". Đây là cách họ muốn Ngài minh chứng rằng quyền phép của Ngài đến từ Đức Chúa Trời.
Tham khảo: “Nếu dân chúng trong một vương quốc tranh chiến lẫn nhau, thì họ sẽ tự hủy diệt nước của họ”
"một gia đình có các thành viên đánh lộn nhau sẽ bị đổ xuống" hay "một gia đình có các thành viên đánh lộn nhau sẽ thôi không còn là một gia đình nữa". Từ ngữ "nhà" được sử dụng đề cập đến một gia đình hay đến những người sống trong một ngôi nhà.
"sụp đổ và bị huỷ diệt". Hình ảnh nầy nói tới ngôi nhà sụp đổ đề cập đến sự huỷ diệt một gia đình khi các thành viên đánh lộn nhau.
“Sa-tan” ở đây nói đến ma quỷ, những kẻ liên hiệp với Sa-tan chống lại Đức Chúa Trời. Có thể dịch: “Nếu Sa-tan và các thành viên trong vương quốc của nó đang chiến đấu giữa vòng bọn chúng.”
Chúa Giê-xu dùng câu hỏi để dạy mọi người. Có thể dịch: “vương quốc của Sa-tan sẽ không kéo dài được.” hoặc là “vương quốc của Sa-tan sẽ sụp đổ.”
"Vì các ngươi nói bởi quyền lực của Bê-ên-xê-bun mà ta đuổi ra khỏi người kia". Phần kế tiếp của sự tranh luận có thể trình bày cụ thể như sau: "việc đó nghĩa là Sa-tan tự chia rẽ hắn".
"bởi quyền lực của ai con các ngươi buộc ma quỉ lìa khỏi người kia". Đây là câu hỏi hùng biện. Cụm từ nầy có thể được dịch là "chúng ta phải nhất trí rằng con các ngươi cũng trục xuất ma quỉ bởi quyền lực của Bê-ên-xê-bun". Phần đánh giá câu nói đó có thể trình bày cụ thể: "Nhưng chúng ta biết đấy chẳng phải là sự thật".
"Con các ngươi đuổi quỉ bởi quyền phép của Đức Chúa Trời sẽ xét đoán các ngươi vì nói rằng ta nhờ quyền lực của Bê-ên-xê-bun mà đuổi quỉ".
"ngón tay của Đức Chúa Trời" đề cập đến quyền phép của Đức Chúa Trời.
"điều nầy tỏ ra rằng nước của Đức Chúa Trời đã đến với các ngươi rồi"
Điều này nói về Chúa Giê-xu đang đánh bại Sa-tan và ma quỷ của nó như một người mạnh hơn cướp lấy điều gì đó từ một người mạnh.
"không ai cướp được của cải người"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "cướp lấy của cải người" hay "tước đi bất cứ gì người muốn"
"ai không ủng hộ ta" hay "ai không làm việc với ta"
"làm nghịch cùng ta". Điều nầy đề cập đến những kẻ nói Chúa Giê-xu làm việc với STham khảo cách dịch:an.
Cụm từ nầy đề cập đến "các nơi hoang vu" nơi các tà linh lang thang.
"nếu tà linh không tìm được chổ an nghỉ nào"
Đây là ẩn tụ đề cập đến người mà hắn sử dụng để trú ngụ. Cụm từ nầy có thể được dịch là "người là chỗ mà ta dùng để trú ngụ!" Kinh Thánh tiếp tục dịch câu nầy như một ví sánh ở câu 26.
Cụm từ nầy có thể được dịch với động từ chủ động: "thấy ai đó đã quét dọn nhà cửa sạch sẽ và sắp đặt mọi sự gọn gàng"
"trống trơn". Ẩn dụ nầy đề cập đến tình trạng người nầy không đầy dẫy đời sống họ với Thánh Linh Đức Chúa Trời sau khi ma quỉ bị đuổi đi.
Đây là phần xen vào giữa lời dạy của Chúa Giê-xu. Một người nữ nói một lời chúc phước và Chúa Giê-xu trả lời.
Cụm từ này được dùng để biểu thị một sự kiện quan trọng trong câu chuyện. Có thể xem xét dùng cách diễn tả ở đây nếu ngôn ngữ của dịch giả có cách đó.
"nói lớn tiếng hơn tiếng ồn của đám đông"
Tham khảo cách dịch: "Thật là phước hạnh dường bao cho người đàn bà nào mang thai Ngài và cho Ngài bú" hay "Phước dường bao cho người đàn bà nào cho Ngài bú mớm nơi ngực mình". Các chi tiết trên thân của người phụ nữ được sử dụng đề cập đến toàn bộ người phụ nữ ấy.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "phước hạnh dường bao" hay "được Đức Chúa Trời chúc phước cho".
Chúa Giê-xu tiếp tục dạy dỗ đám đông.
"Những người đang sống trong thời nay đều gian ác” (UDB)
"Họ muốn ta ban cho một dấu lạ" hay "Phần nhiều người trong các ngươi muốn ta ban cho một dấu lạ". Phần thông tin về loại dấu lạ họ muốn có thể nói cụ thể như trong Kinh Thánh.
"Đức Chúa Trời sẽ không ban cho họ một dấu lạ nào cả"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "những gì đã xảy ra cho Giôna" hay "phép lạ mà Đức Chúa Trời đã làm cho Giôna".
Cụm từ nầy ý nói rằng Chúa Giê-xu sẽ đóng vai trò như một dấu lạ đến từ Đức Chúa Trời cho người Do thái thời buổi ấy chính xác cùng một cách như Giôna đã trở làm dấu lạ đến từ Đức Chúa Trời cho dân cư thành Ni-ni-ve.
Chúa Giê-xu đang đề cập đến chính mình Ngài.
Cụm từ nầy đề cập đến Nữ hoàng Sê-ba. Sê-ba là vương quốc ở phía Nam Y-sơ-ra-ên.
"cũng sẽ đứng dậy và đoán xét dân của thời này”
"bà ta đã đến từ một nơi rất xa". "từ các đầu cùng đất" là thành ngữ ý nói "từ một chỗ rất xa xôi"
Lời quở trách mà Chúa Giê-xu muốn họ phải hiểu là "nhưng các ngươi chẳng nghe ta"
"Dân thành Ni-ni-ve sẽ đứng dậy và đoán xét, kết án dân trong thế hệ này”
Dân thành Nineve đã ăn năn.
Chúa Giê-xu đang nói về chính Ngài. Tham khảo: “Ta còn lớn hơn cả Giô-na nhưng các ngươi không ăn năn.”
Chúa Giê-xu kết thúc phần dạy dỗ đám đông.
"giấu trong chỗ khuất"
"đặt nó trên bàn" hay "họ đặt nó trên kệ"
Câu nầy có mấy cách nói. Mắt là hoán dụ cho sự thấy, là một ẩn dụ nói tới sự hiểu biết. Thân thể là phép cải cách nói tới đời sống của một người. Cụm từ nầy có thể được dịch là "mắt ngươi là đèn của sự sống ngươi" hay "cái thấy của ngươi là đèn của sự sống ngươi". Một khi Chúa Giê-xu đang nói tới một việc là thực cho mọi người, cụm từ nầy có thể được dịch là "mắt là đèn của thân thể một người".
"khi cái thấy của người là rõ ràng" hay "khi ngươi thấy rõ"
Chúa Giê-xu nói về sự lẽ thật là ánh sáng. Jesus speaks about truth as if it were light. Ánh sáng là ẩn dụ nói tới lẽ thật. Ẩn dụ nầy ý nói "cả sự sống ngươi được đầy dẫy với sự sáng láng của chân lý" hay "cả sự sống ngươi đầy dẫy với lẽ thật"
Tối tăm là ẩn dụ nói tới sự giả dối. Ẩn dụ nầy ý nói "khi cái thấy của ngươi là xấu, cả thân thể ngươi sẽ đầy dẫy với sự giả dối"
Chúa Giê-xu nói về những người có đầy lẽ thật như thể họ là đèn chiếu sáng rạng rỡ.
Đây là phần mở đầu của phần tiếp theo trong câu chuyện. Chúa Giê-xu được mời đến dùng bữa ăn tại nhà của một người Pha-ri-si.
“ngồi nơi bàn”. Đây là thông tục nói tới bữa ăn vui vẻ như bữa ăn tối nầy dành cho cánh đàn ông nằm dài quanh bà dùng bữa.
"rửa tay" hay "rửa tay để được sạch về mặt nghi thức". Người Pha-ri-si có luật rằng người ta phải rửa tay để được sạch về mặt nghi thức trước mặt Đức Chúa Trời.
Chúa Giê-xu bắt đầu nói với người Pha-ri-si.
rửa ngoài đồ chứa là chi tiết của sự thực hành nghi thức của người dòng Pha-ri-si.
Đây là ẩn dụ so sánh cách họ bỏ qua bề trong của đồ đựng với cách họ bỏ qua tình trạng nội tại của chính họ.
Đây là câu hỏi hùng biện. Chúa Giê-xu đang quở trách người dòng Pha-ri-si vì không hiểu biết điều chi ở trong long họ mới là vấn đề với Đức Chúa Trời. Cụm từ nầy có thể được dịch như một câu nói đã được chép trong Kinh Thánh.
"Hãy bố thí điều gì có ở bên trong cho người nghèo". Ý nghĩa là "tập trung vào việc sử dụng bề trong cho Đức Chúa Trời thay vì lo làm sạch bề ngoài"
"các ngươi dâng cho Đức Chúa Trời một phần mười bạc hà, hồi hương cùng mọi thứ rau khác từ vườn của các ngươi". Chúa Giê-xu đã nêu một tấm gương cực đoan mà người dòng Pha-ri-si tỏ ra trong việc dâng phần mười thu nhập của họ.
Có nhiều thứ cỏ. Người ta xen một chút lá nầy vào thức ăn của họ để có mùi thơm. Nếu người ta không biết bạc hà và hồi hương là rau gì, bạn có thể dung tên của các loại cỏ họ biết hay nói chung chúng là "các loại cỏ"
Ý nghĩa khả thi là 1) "từng thứ rau khác" 2) "từng thứ cỏ khác trong vườn" hoặc 3) "từng thứ thực vật khác trong vườn"
Cụm từ nầy có thể được dịch như một câu nói tích cực: "và luôn làm tốt các việc khác nữa"
Chúa Giê-xu kết thúc phần nói chuyện với người Pha-ri-si.
"chỗ ngồi tốt nhứt"
Đây là sự ví sánh. Người dòng Pha-ri-si giống như mả loạn vì họ trông sạch sẽ về mặt nghi thức, nhưng họ khiến cho người ta ở chung quanh họ phải bị ô uế. Điểm tương tự nầy đã có ghi chép rõ rang trong Kinh Thánh.
Loại mả nầy là những lổ huyệt đào trong đất, người chết được chọn trong đó. Họ không có loại đá màu trắng mà người ta thường đặt trên mồ mả để người khác nhìn thấy chúng. Khi người ta bước qua một nấm mộ, họ sẽ bị ô uế về mặt nghi thức.
Chúa Giê-xu bắt đầu trả lời giáo sư người Do Thái.
"Các ngươi chất trên dân sự quá nặng họ không mang nổi". Đây là ẩn dụ trong đó cung ứng cho người ta nhiều luật lệ sánh với việc trao cho họ phải mang lấy những thứ nặng nề. Cụm từ nầy có thể được dịch là "các ngươi chất nặng trên người ta bằng cách trao cho họ quá nhiều luật lệ không theo nổi".
"nhưng các ngươi thậm chí không động một ngón tay để giúp họ mang lấy gánh nặng". Ý nói "nhưng các ngươi không làm một việc gì để giúp đỡ họ vâng theo luật lệ của các ngươi"
Cụm từ nầy kêu gọi chú ý đến phần tương phản giữa sự họ tôn vinh các đấng tiên tri trong khi bỏ qua sự thực các tổ phụ họ đã giết các đấng tiên tri.
Đây là lời quở trách: "nhưng các ngươi không đoạn tuyệt với họ". Họ biết rõ về việc giết các đấng tiên tri, nhưng không xét đoán các tổ phụ họ về việc giết chóc đó.
Cụm từ nầy đề cập đến câu nối theo sau. Đức Chúa Trời sẽ sai nhiều vị tiên tri đến để tỏ ra rằng dòng dõi hiện nay sẽ giết chết họ, y như các tổ phục họ đã làm.
"trong sự khôn ngoan của Ngài Đức Chúa Trời đã phán" hay "Đức Chúa Trời phán một cách khôn ngoan"
"Ta sẽ sai đấng tiên tri và sứ đồ đến cùng dân sự ta"
"dân sự ta sẽ bắt bớ và giết một số đấng tiên tri và sứ đồ"
Huyết đã đổ ra đề cập đến việc giết các đấng tiên tri. Cụm từ nầy có thể được dịch là "chịu trách nhiệm về những cái chết của các đấng tiên tri đã bị giết"
Có lẽ đây là thầy tế lễ được đề cập đến ở II Sử ký 2CH24:20
Tham khảo: “mà người ta đã giết”
Chúa Giê-xu kết thúc phần trả lời giáo sư người Do Thái.
Đây là một ẩn dụ. Ý nói "các ngươi đã ngăn cản người ta không bước vào chỗ mà ở đó chân lý của Đức Chúa Trời được chất chứa". Cụm từ nầy có thể được dịch như một ví sánh y như trong Kinh Thánh.
Cụm từ nầy tiêu biểu cho phương tiện tiếp cận, như với một ngôi nhà hay nhà kho.
"Tự các ngươi không vào để tiếp lấy sự hiểu biết". Ẩn dụ nầy ý nói: "chính các ngươi phải nắm lấy sự tri thức"
Thông tin tổng quát: Đây là phần kết thúc của câu chuyện, chỗ mà Chúa Giê-xu đã ăn bữa tại nhà người Pha-ri-si. Những câu này cho độc giả biết sự kiện đã xảy ra sau khi phần chính của câu chuyện kết thúc.
"Sau khi Chúa Giê-xu rời khỏi nhà của người Pha-ri-si"
Đây là một ẩn dụ. Họ muốn Chúa Giê-xu nói ra một việc gì đó sai trật để họ cáo giác Ngài. Cụm từ nầy có thể được dịch mà không cần ẩn dụ như trong Kinh Thánh.
Ngài cầu: "Lạy Cha! Danh Cha được thánh; nước Cha được đến. Xin cho chúng tôi hôm nay đồ ăn đủ ngày, xin tha tội chúng tôi, để chúng tôi cũng tha kẻ mắc nợ chúng tôi. Xin chớ đưa chúng tôi vào sự cám dỗ”.
Sa-lô-môn và Giô-na.
Sa-lô-môn và Giô-na.
Ngài phán họ đầy dẫy sự trộm cướp và điều dữ.
Họ bỏ qua sự công bình và sự kính mến Đức Chúa Trời.
1 Trong lúc ấy, khi có hàng ngàn người tụ tập lại đông đến nỗi dẫm đạp cả lên nhau, thì Chúa Giê-xu trước hết nói với các môn đồ Ngài: “Hãy đề phòng men của người Pha-ri-si, tức thói đạo đức giả. 2 Vì chẳng có điều gì bị ém nhẹm mà không được phơi bày, cũng chẳng có điều gì kín giấu mà không bị lộ ra. 3 Vậy nên những gì anh em nói trong bóng tối sẽ nghe được giữa ban ngày, và những gì anh em thì thầm trong phòng kín sẽ bị công bố trên mái nhà. 4 Thầy nói với anh em là những người bạn của Thầy, đừng sợ những kẻ giết chết thân thể rồi sau đó không làm gì được nữa. 5 Nhưng Thầy muốn lưu ý để anh em biết phải sợ ai: hãy sợ Đấng sau khi đã giết chết thân thể, còn có quyền ném anh em vào hỏa ngục. Phải, Thầy nói để anh em biết, hãy kính sợ Đấng ấy. 6 Chẳng phải năm con chim sẻ được bán với giá hai đồng tiền sao? Nhưng Đức Chúa Trời chẳng quên một con nào trong số chúng. 7 Ngay cả tóc trên đầu anh em cũng đã được đếm cả rồi. Đừng sợ gì cả. Anh em đáng giá hơn nhiều con chim sẻ. 8 Thầy nói để anh em biết, người nào xưng nhận Thầy trước mặt mọi người, thì Con Người sẽ xưng nhận họ trước các thiên sứ của Đức Chúa Trời, 9 còn ai chối bỏ Thầy trước mặt mọi người, người ấy sẽ bị chối bỏ trước các thiên sứ của Đức Chúa Trời. 10 Người nào xúc phạm Con Người sẽ được tha thứ, nhưng ai báng bổ Đức Thánh Linh sẽ không được tha thứ đâu. 11 Khi người ta giải anh em đến trước các nhà hội, những người cai trị và nhà cầm quyền, đừng lo về việc anh em sẽ nói gì và nói như thế nào để bảo vệ mình, 12 vì chính trong giờ ấy, Đức Thánh Linh sẽ dạy anh em những điều cần nói.” 13 Khi ấy, một người trong đám đông thưa với Chúa: “Thưa Thầy, xin bảo anh tôi chia gia tài cho tôi.” 14 Chúa Giê-xu đáp lời anh: “Anh kia, ai lập tôi làm quan tòa hay người trung gian hòa giải cho các anh?” 15 Rồi Ngài nói với họ: “Hãy cẩn thận giữ mình trước mọi thói tham lam, vì sự sống của người ta không do giàu có về của cải.” 16 Rồi Ngài kể cho họ một ẩn dụ: “Cánh đồng của một người giàu kia trúng mùa, 17 người ấy thầm nhủ: ‘Ta sẽ làm gì đây, vì không có chỗ để chứa hoa lợi?’ 18 Rồi anh tiếp: ‘Ta sẽ làm thế này, ta sẽ phá bỏ các kho chứa cũ và xây những cái mới to hơn để chứa toàn bộ thóc lúa và những tài sản khác. 19 Rồi ta sẽ nói với linh hồn ta rằng: ‘Linh hồn ơi, ngươi đã có nhiều của cải để dành cho nhiều năm. Hãy thoải mái, ăn, uống và vui vẻ.’” 20 Nhưng Đức Chúa Trời phán với anh ta: ‘Hỡi kẻ dại, đêm nay linh hồn người sẽ bị đòi lại, vậy những gì ngươi đã sắm sửa đó sẽ thuộc về ai?’ 21 Đó là thực tế về những người tích trữ của cải cho mình mà không giàu có nơi Đức Chúa Trời.” 22 Chúa Giê-xu nói với các môn đồ: “Vậy nên, Thầy bảo với anh em, đừng vì sự sống mà lo lắng về thức ăn, hay vì thân thể mà lo lắng về đồ mặc. 23 Vì sự sống quý hơn đồ ăn và thân thể quý hơn đồ mặc. 24 Hãy xem loài quạ, chúng không gieo cũng chẳng gặt. Chúng chẳng có vựa lẫm hay kho chứa, nhưng Đức Chúa Trời nuôi chúng. Anh em quý giá hơn loài chim rất nhiều! 25 Có ai trong anh em nhờ lo lắng mà kéo dài được cuộc đời của mình thêm một khoảnh khắc không? 26 Vậy, nếu chỉ một việc nhỏ ấy thôi mà anh em còn không làm được thì sao anh em phải lo lắng về những việc khác? 27 Hãy xem loài hoa huệ – xem cách chúng lớn lên như thế nào. Chúng chẳng lao nhọc, cũng không kéo chỉ. Nhưng Thầy cho anh em hay, ngay như vua Sa-lô-môn, với tất cả vinh quang của vua ấy, cũng không được mặc đẹp như một trong những bông hoa này. 28 Hỡi những kẻ ít đức tin, nếu hoa cỏ ngoài đồng là giống nay còn mai bị ném vào lò mà Đức Chúa Trời còn cho chúng mặc đẹp như vậy, thì huống chi là anh em. 29 Đừng tìm kiếm đồ ăn thức uống, và đừng lo lắng. 30 Vì đó là những điều mà mọi dân tộc trên thế gian này vẫn tìm kiếm, và Cha của anh em biết anh em cần những điều đó. 31 Nhưng hãy tìm kiếm vương quốc của Ngài, thì những điều này sẽ được thêm cho anh em. 32 Hỡi bầy nhỏ, đừng sợ, vì Cha của anh em vui lòng ban vương quốc của Ngài cho anh em. 33 Hãy bán tài sản mình mà giúp cho người nghèo. Hãy sắm cho mình những túi tiền không mòn rách – tức của cải không bị hao hụt ở trên trời, là nơi kẻ trộm cắp không đến gần và sâu mọt không làm hư hại được. 34 Vì của cải anh em ở đâu thì lòng anh em cũng sẽ ở đó. 35 Anh em phải thắt dây lưng lại và giữ cho đèn cháy luôn. 36 Hãy làm như những người đang chờ đợi chủ mình đi dự tiệc cưới về, để khi chủ về gõ cửa thì mở ngay. 37 Phước cho những đầy tớ ấy, là những người chủ về thấy đang thức canh. Thầy bảo thật với anh em, chủ sẽ thắt lưng mình, mời họ ngồi vào bàn ăn, và đến phục vụ họ. 38 Nếu chủ về lúc canh hai, hoặc thậm chí canh ba, và thấy họ sẵn sàng, thì thật phước cho các đầy tớ ấy. 39 Ngoài ra, hãy biết điều này, nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm sẽ đến, hẵn đã không để hắn xâm nhập vào nhà mình. 40 Anh em cũng phải sẵn sàng, vì anh em không biết giờ nào Con Người sẽ đến.” 41 Phi-e-rơ thưa rằng: “Lạy Chúa, Chúa kể ẩn dụ này cho chúng tôi hay cũng cho mọi người?” 42 Chúa đáp: “Vậy ai là người quản lý trung tín và khôn ngoan được chủ cắt đặt quản lý các đầy tớ khác và cấp phát thức ăn cho họ đúng giờ? 43 Phước cho đầy tớ đó khi chủ đến thấy anh đang làm đúng như vậy. 44 Thầy nói thật để anh em biết, chủ sẽ giao cho đầy tớ đó quản lý toàn bộ tài sản của mình. 45 Nhưng nếu đầy tớ đó thầm nhủ trong lòng rằng: ‘Chủ ta chưa về ngay đâu,’ và bắt đầu đánh đập các đầy tớ khác, cả trai lẫn gái, rồi ăn uống say sưa, 46 thì chủ của đầy tớ ấy sẽ đến trong ngày hắn không ngờ, vào giờ hắn không biết, rồi chủ sẽ phân hắn thành từng mảnh và cho hắn đồng số phận với những kẻ bất trung. 47 Đầy tớ nào biết ý chủ nhưng không sẵn sàng hay không làm theo ý chủ, sẽ bị đòn nhiều. 48 Còn đầy tớ nào không biết ý chủ và làm việc đáng bị phạt sẽ bị đòn ít. Người nào được ban cho nhiều sẽ bị đòi lại nhiều, ai được giao cho nhiều sẽ bị đòi lại càng nhiều hơn. 49 Thầy đến để ném lửa xuống đất, và ước nó đã cháy lên. 50 Nhưng Thầy còn phải chịu một phép báp-têm, và Thầy khắc khoải biết chừng nào cho đến khi việc ấy được hoàn tất! 51 v 51 Anh em tưởng Thầy đến đem bình an cho thế gian sao? Không đâu, Thầy cho anh em hay, Thầy đến để đem sự chia rẽ. 52 Vì từ nay trở đi, một nhà có năm người sẽ bị chia ra – ba chống lại hai, và hai chống lại ba. 53 Họ sẽ chia rẽ nhau, cha chống lại con trai, con trai chống nghịch cha; mẹ chống lại con gái, con gái chống nghịch mẹ; mẹ chồng chống lại nàng dâu, nàng dâu nghịch với mẹ chồng.” 54 Chúa Giê-xu cũng nói với đoàn dân: “Khi các ông thấy một đám mây xuất hiện ở phương tây, các ông liền nói: ‘Trời sắp mưa,’ và quả đúng như vậy. 55 Khi thấy gió nam thổi, các ông nói: ‘Sẽ nắng cháy đây,’ thì đúng như vậy. 56 Hỡi những kẻ đạo đức giả, các ông biết giải thích các hiện tượng của đất trời, nhưng sao lại không hiểu được thời thế? 57 Sao các ông không tự mình suy xét điều gì là đúng? 58 Khi đi với kẻ thưa kiện mình đến tòa hòa giải địa phương, đang lúc đi đường, các ông hãy cố gắng giải quyết vấn đề với người ấy để họ không kéo các ông ra tòa và rồi quan tòa sẽ giao các ông cho cảnh binh tống các người vào tù. 59 Tôi nói để các ông rõ, các ông sẽ không bao giờ ra khỏi tù được cho đến khi trả nốt đồng tiền cuối cùng.”
Đây là phần tiếp theo trong câu chuyện. Chúa Giê-xu bắt đầu dạy dỗ các môn đồ Ngài trước mặt hàng ngàn người.
"trong khi họ đang nhóm lại"
Đây là thông tin bối cảnh về diễn biến trong câu chuyện.
"một đoàn dân rất đông"
Câu nầy cường điệu để tỏ ra có nhiều người ở đó. Ý nói "họ dẫm bước nhau"
"Chúa Giê-xu trước hết khởi sự phán cùng các môn đồ, và nói cùng họ"
Đây là một ẩn dụ. Cụm từ nầy có thể được dịch như một ví sánh "sự giả hình của người dòng Pha-ri-si, đó là men". Giống như men rải trên đống bột, sự giả hình của họ đang rải trên toàn bộ cộng đồng. Toàn bộ lời cảnh báo nầy có thể được dịch là "phải cẩn thận để các ngươi không trở nên giả hình giống như người dòng Pha-ri-si. Cách cư xử gian ác của họ ảnh hưởng mọi người giống như men tác động trên đống bột"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "mọi thứ kín giấu sẽ bị bày ra" hay "người ta sẽ mở ra đủ thứ việc mà người ta làm kín đáo"
Vế nầy của câu dử dụng các từ ngữ khác nhau để nói ra cùng một việc như về trước để nhấn mạnh lẽ thật của nó.
Tham khảo “người ta sẽ nghe trong ánh sáng”
Cụm từ nầy có thể được dịch là "thầm thì với người kia"
"trong phòng đã đóng cửa". Cụm từ nầy có thể được dịch là "ở đàng sau hai cánh cửa đóng kín" hoặc "riêng tư" hoặc "kín đáo"
"sẽ bị lộ ra lớn tiếng" hay "người ta sẽ giảng ra"
Nhà trong xứ Y-sơ-ra-ên có mái phẳng, vì vậy dân sự có thể đi lên rồi đứng trên mái ấy. Nếu độc giả bị rối khi tìm cách hình dung làm sao người ta sẽ lên được mái nhà đó, cụm từ nầy có thể được dịch với cách tỏ ra bao quát, tỉ như "từ một chỗ cao, ở đó người ta sẽ dễ nghe hơn"
"họ không thể làm chi khác nữa" hay "họ không thể làm hại chi được nữa" hoặc "họ không thể làm tổn thương cho ngươi được nữa"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "Sợ Đức Chúa Trời là Đấng" hay "Sợ Đức Chúa Trời, vì"
"sau khi Ngài giết ngươi" hay "sau khi Ngài giết ai đó"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "có quyền quăng người ta vào địa ngục"
Đây là câu hỏi hùng biện . Cụm từ nầy có thể được dịch là "hãy suy nghĩ về chim sẻ. Chúng ít giá trị đến nỗi bạn mua năm con giá hai đồng tiền".
Chim sẻ rất nhỏ, loài chim ăn hột giống.
"Đức Chúa Trời không hề quên một con nào cả!" hay "Đức Chúa Trời không hề trễ nãi khi chăm sóc cho loài chim sẻ!"
"Đức Chúa Trời thậm chí biết có bao nhiêu tóc trên đầu ngươi"
"Đừng e sợ người ta mà chi" hay "Đừng sợ kẻ nào có thể làm tổn thương ngươi"
"Đức Chúa Trời đánh gia ngươi cao hơn nhiều chim sẻ"
Chúa Giê-xu nói với những người nghe Ngài để biểu thị một sự chuyển đổi trong lời Ngài dạy sang một chủ đề mới, trong trường hợp này là nói về sự xưng nhận.
"Hễ ai làm chứng cho người khác biết rằng người ấy là môn đồ ta" hay "Bất cứ ai công nhận trước mặt nhiều người khác rằng người ấy trung thành với ta"
Chúa Giê-xu đang đề cập đến chính mình Ngài. Cụm từ nầy có thể được dịch là "Ta, Con Người"
"người nào không nhận ta trước mặt dân sự". Cụm từ nầy có thể được dịch là "hễ ai chối không nhận với người khác người ấy là môn đồ ta" hoặc "nếu ai chối không nói rằng mình trung thành với ta"
"bị bác". Cụm từ nầy có thể được dịch là "Con Người sẽ chối họ" hay "Ta sẽ chối người ấy là môn đồ ta"
"Người nào nói điều gì không tốt về Con Người"
"người ấy sẽ được tha" hay "Đức Chúa Trời sẽ tha thứ người vì việc ấy"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "nói xấu nghịch Đức Thánh Linh" hay "nói rằng Đức Thánh Linh là ác"
Tham khảo “Đức Chúa Trời sẽ xem người đó là có tội đến đời đời”
"vào trong nhà hội trước mặt cấp lãnh đạo tôn giáo"
"người khác có quyền trong xứ"
"lúc bấy giờ" hay "lúc ấy"
Đây là phần xen vào giữa những lúc Chúa Giê-xu đang dạy dỗ. Một người xin Chúa Giê-xu làm điều gì đó và Ngài trả lời với ông ấy.
Có người hiểu đây là lối nói ám chỉ đến người nước ngoài. Nhiều người khác hiểu Chúa Giê-xu đang quở trách người ấy. Ngôn ngữ của bạn có cách nói tới người kia dù bằng cách nào. Có người không dịch cụm từ nầy mà chi.
Đây là câu hỏi hùng biện. Cụm từ nầy có thể được dịch là "Ta không phải quan toà hay nhà hoà giải". Một số ngôn ngữ sẽ sử dụng hình thức số nhiều dành cho "you" [các ngươi] hay "your" [của các ngươi]. Nhiều ngôn ngữ có hình thức sử dụng cho vấn đề nầy.
Chữ "chúng" ở đây có lẽ đề cập đến toàn bộ đám đông dân sự. Cụm từ nầy có thể được dịch là "Và Chúa Giê-xu phán cùng đám đông"
"Hãy giữ mình đối với từng hình thức tham lam". Cụm từ nầy có thể được dịch là "Đừng cho phép cái tôi yêu mến việc có đủ thứ" hoặc "đừng để bị giục giả phải có nhiều thêm"
Đây là câu nói chung chung. Nó không đề cập đến bất kỳ nhân vật đặc biệt nào. Một số ngôn ngữ có cách biểu lộ như thế.
"bao nhiêu thứ người ấy đang có" hay "người ấy giàu có lắm"
Chúa Giê-xu tiếp tục dạy dỗ bằng cách kể một câu chuyện ngụ ngôn.
Có lẽ Chúa Giê-xu hãy còn phán với đoàn dân đông.
"mùa gặt lớn lắm"
kho tàng là khu nhà để nhà nông chứa nông sản và thức ăn mà họ thu hoạch sau mùa gặt.
"của cải"
"ta sẽ nhũ lòng"
Chúa Giê-xu trích dẫn cách Đức Chúa Trời đối đáp người giàu, khi Ngài kết thúc phần kể câu chuyện ngụ ngôn.
Tham khảo cách dịch "tối nay ngươi sẽ chết" hay "sự sống ngươi sẽ bị thâu hồi lại khỏi ngươi tối nay"
"ai sẽ làm chủ những thứ ngươi đã chất chứa?" hoặc "ai sẽ có những thứ ngươi đã sắm sẵn chứ?" Đây là câu hỏi hùng biện được dự tính làm cho người kia nhận ra rằng anh ta sẽ không còn làm chủ các thứ ấy nữa.
"thâu lấy các thứ có giá trị"
"nghèo nàn" hay "keo kiệt" hoặc "không rời rộng"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "trong nhận định về Đức Chúa Trời" hay "có quan hệ với Đức Chúa Trời". Ý nghĩa, ấy là người nầy không đầu tư vào những vụ việc có quan trọng đối với Đức Chúa Trời, hay Đức Chúa Trời sẽ ban thưởng cho.
Chúa Giê-xu tiếp tục dạy dỗ các môn đồ Ngài trước mặt đám đông.
"ấy vậy" hay "vì lý do đó" hoặc "vì cớ những gì câu chuyện nầy dạy dỗ"
“Ta muốn nói cho các ngươi biết một việc quan trọng” hoặc “các ngươi cần phải cẩn thận lắng nghe điều nầy”
Cụm từ nầy có thể được dịch là "về sự sống các ngươi và các ngươi ăn gì" hayr "về việc có đủ đồ ăn để sống"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "về thân thể và đồ mặc của các ngươi" hay "về việc có đủ quần áo để mặc cho thân thể ngươi"
Cụm từ đề cập đến 1) con quạ, loài chim ăn hột giống, hay 2) loài quạ, loài chim ăn thịt và xác chết động vật. Khán thính giả của Chúa Giê-xu đã xem xét loài quạ vô giá trị vì họ không thể ăn chúng được.
Chúa Giê-xu dùng câu hỏi để dạy các môn đồ Ngài.
Đây là ẩn dụ vì một khắc là số đo chiều dài, thay vì là thời gian. Hình ảnh sự sống của một người trải dài ra giống như thể một tấm ván, một sợi dây, hay một món đồ gì đó.
Chúa Giê-xu dùng một câu hỏi khác để dạy các môn đồ Ngài.
This is a metaphor because a cubit is a measure of length, rather than of time. The image is of a person's life stretched out as if it were a board, a rope, or some other physical object.
Hoa huệ là loài hoa đẹp mọc hoang ngoài đồng. Nếu ngôn ngữ của bạn không có một từ nào nói tới hoa huệ, bạn có thể dùng tên của thứ hoa khác hay dịch đấy là "loài hoa"
"chúng không kéo chỉ, cũng không làm ra quần áo" hay "chúng không có dệt"
"Solomon có sự giàu có lớn lắm" hay "Solomon mặc nhiều áo đẹp"
"Nếu Đức Chúa Trời mặc cho loài cỏ ngoài đồng thể ấy" hay "nếu Đức Chúa Trời ban cho cỏ ngoài đồng mặc đẹp thể ấy". "Mặc cho loài cỏ" là một ẩn dụ vì "làm đẹp cho loài cỏ".
Tham khảo “người ta quăng vào lửa”
Đây là lời công bố nhấn mạnh rằng chắc chắn Ngài sẽ chăm sóc con người tốt hơn Ngài chăm sóc cho loài cỏ.
"Đừng chú tâm vào những gì các ngươi ăn và uống" hay "đừng ham muốn nhiều vào việc ăn và uống"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "các dân các nước" hay "hết thảy những kẻ không tin trong thế gian". "các dân" được sử dụng ở đây là hoán dụ cho "những kẻ không tin"
Cha của Chúa Giê-xu, là Đức Chúa Cha, cũng là Cha của những người tin Chúa Giê-xu.
Đây là một danh hiệu quan trọng dành cho Đức Chúa Trời.
"nhắm vào nước Đức Chúa Trời" hay "ham mến nước Đức Chúa Trời"
"những việc nầy cũng được ban cho các ngươi". "Những việc nầy" đề cập đến thức ăn và quần áo.
Chúa Giê-xu đang gọi các môn đồ Ngài là một bầy. Một bầy là một nhóm các con chiên hay dê có một người chăn. Là người chăn chăm sóc cho bầy chiên mình, Đức Chúa Trời sẽ quan tâm đến các môn đồ của Chúa Giê-xu. Cụm từ nầy có thể được dịch là "nhóm nhỏ" hay "nhóm yêu dấu"
"và bố thí cho người nghèo số tiền ngươi kiếm được từ kinh doanh"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "theo cách nầy ngươi sẽ làm cho mình ra giàu có...". Sự giàu có và của cải ở trên trời là cùng một việc. Cả hai chúng tiêu biểu cho ơn phước của Đức Chúa Trời ở trên trời.
Tham khảo “bằng cách này, các ngươi hãy sắm cho mình”
"những cái túi tiền không thủng đáy"
"không thu nhỏ" hay "không ít đi"
Ở đây "lòng" đề cập đến mọi suy nghĩ của một người.
Chúa Giê-xu bắt đầu kể một câu chuyện ngụ ngôn.
Người ta mặc áo dài. Họ phải thắt lại nơi lưng để giữ cho áo không vướng khi họ làm việc. Để trình bày thông tin cụ thể nầy, cụm từ nầy có thể được dịch là “lưng phải thắt lại để sẵn sàng phục vụ” hay “Hãy mặc áo vào và sẵn sang phục vụ”
"giữ đèn các ngươi cháy luôn"
Đây là một sự ví sánh. Câu nầy sánh các môn đồ đã sẵn sàng đón Chúa Giê-xu tái lâm với các tôi tớ, họ đã sẵn sàng đón chủ mình trở lại. Đây cũng là phần mở đầu của thí dụ.
"trở về nhà từ tiệc cưới"
"thật lấy làm tốt cho"
"chủ họ thấy họ đang chờ ông khi ông trở về" hay "họ đã sẵn sàng khi chủ trở về"
Đây là phần đảo của những câu đi trước. Vì tôi tớ có long trung tín với chủ mình, giờ đây chủ sẽ ban thưởng cho họ bằng cách phục vụ họ.
Cụm từ nầy có thể được dịch với phần thông tin cụ thể như sau “Người sẽ sửa soạn phục vụ bằng cách thắt pưng mình lại” hay “người sẽ mặc đồ để phục vụ”
Cụm từ nầy có thể được dịch là "đêm khuya" hay "ngay trước nửa đêm". Canh hai vào giữa 9 giờ tối và nữa đêm.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "hoặc giả người đến muộn lúc ban đêm". Canh ba từ nửa đêm đên 3 giờ sáng.
Tham khảo “người đó hẳn sẽ không để kẻ trộm đột nhập vào nhà mình”
Sự tương tự duy nhứt giữa một tên trộm và Con Người, ấy là người ta không biết ai sẽ đến, vì vậy họ cần phải sẵn sàng.
Chúa Giê-xu đang nói tới chính mình Ngài. Vì vậy cụm từ nầy có thể được dịch là "khi Ta, Con Người, sẽ đến"
Trong câu 42, Chúa Giê-xu tiếp tục kể câu chuyện ngụ ngôn.
Trong câu 41, có một phần xen vào trong cốt truyện khi Phi-e-rơ hỏi Chúa Giê-xu về câu chuyện ngụ ngôn.
Đây là phầm mở của một câu hỏi hùng biện. Chúa Giê-xu không trả lời trực tiếp thắc mắc của Phi-e-rơ, nhưng mong những ai muốn trở thành quản gia trung tín hiểu rằng thí dụ đã hướng về họ. Câu nầy có thể được trình bày bằng câu nói "Ta phán điều đó cho người nào…"
Chúa Giê-xu nói thí dụ khác về cách thức tôi tớ sống trung tín đang khi họ chờ đợi chủ mình về.
"chủ của họ đặt họ trông coi các tôi tớ khác"
"Thật lấy làm tốt cho tôi tớ ấy"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "nếu chủ người thấy người đang làm công việc ấy khi chủ trở về"
Cụm từ nầy đề cập đến tôi tớ được chủ giao quyền trông coi các tôi tớ khác.
Tham khảo cách dịch "suy nghĩ trong lòng"
Tham khảo cách dịch "Chủ ta không về sớm đâu"
Cụm từ được dịch ở đây là “đầy tớ trai và gái” bình thường được dịch là “nam” và "nữ". Có thể họ chỉ ra các tôi tớ hãy còn trẻ hoặc họ rất thân thiết với chủ của họ.
"khi đầy tớ không ngờ”
"kể người với hạng người bất trung" hay "sai người đến chỗ mà ở đó người sai những kẻ nào sống bất trung"
Chúa Giê-xu kết thúc phần kể câu chuyện ngụ ngôn.
"sẽ bị đánh nhiều lần" hay "sẽ bị quất nhiều roi". Cụm từ nầy có thể được dịch với động từ chủ động "chủ sẽ đánh người nhiều lần" hay "chủ sẽ phạt nặng người"
Cụm từ nầy có thể được dịch với động từ chủ động "Họ sẽ đòi nhiều bất cứ người nào nhận lãnh nhiều" hay "chủ sẽ đòi nhiều người nào mà chủ đã ban cho nhiều"
"đối với người mà họ giao cho nhiều tài sản để trông coi" hay "đối với người mà họ giao cho nhiều trách nhiệm"
Chữ "họ" ở đây không đề cập đến một nhóm người đặc biệt. Cụm từ nầy có thể được dịch là "chủ giao cho ... chủ sẽ đòi". Nếu bạn dịch những câu đứng trước với động từ thụ động, hãy xem Kinh Thánh.
Chúa Giê-xu tiếp tục dạy dỗ các môn đồ Ngài.
"Ta đến để quăng lửa xuống đất" hay "ta đến đặng đặt đất trên ngọn lửa". Ý nghĩa khả thi cho ẩn dụ nầy là 1) sự phán xét hay 2) sự luyện lọc hoặc 3) phân rẽ.
Đây là lời công bố nhấn mạnh Ngài muốn điều nầy xảy ra là dường nào. Cụm từ nầy có thể được dịch là "ta ước lửa ấy cháy lên nhiều lắm" hay bao quát hơn "Ta ước lửa ấy đã khởi sự cháy lên là dường nào" (Xen Loại Câu ở.)
Báptêm được sử dụng ở đây là một ẩn dụ nói tới sự thương khó. Giống như nước bao phủ một người trong phép báptêm, sự thương khó phủ lấy Chúa Giê-xu. Cụm từ nầy có thể được dịch là "ta chịu phép báptêm với sự thương khó" hay như một sự ví sánh "Ta bị áp đảo trong sự thương khó như một người chịu phép báptêm bị nước phủ lấy"
Chữ "nhưng" được sử dụng để tỏ ra rằng Ngài không thể quăng lửa trên đất cho tới chừng sau khi Ngài chịu phép báptêm.
Lời công bố nầy nhấn mạnh Ngài buồn rầu đến dường nào. Cụm từ nầy có thể được dịch là “ta buồn rầu lắm và cứ thể cho tới chừng sự thương khó nầy được hoàn tất!”
Đây là câu hỏi hùng biện. Người ta mong Đấng Mêsi đem sự bình an đến cho họ từ kẻ thù. Cụm từ nầy có thể được dịch là "các ngươi không nên nghĩ rằng ta đến để đem lại bình an trên đất"
"nhưng ta đã đến đem sự phân rẽ"
"thù nghịch" hay "bất hoà"
Đây là một trường hợp nói tới loại phân rẽ sẽ có thậm chí trong gia đình.
Tham khảo cách dịch: Sẽ có năm người sống chung trong một ngôi nhà.
Chúa Giê-xu bắt đầu nói với đoàn dân đông.
"Mưa sẽ đến" hay "trời sẽ mưa"
"đất và bầu trời" hay "thời tiết"
Câu hỏi hùng biện nầy được sử dụng như một lời quở trách. Cụm từ nầy có thể được dịch là "các ngươi nên biết cách giải thích thì hiện tại"
Đây là câu hỏi hùng biện được sử dụng như một lời quở trách. Cụm từ nầy có thể được dịch là "Bản thân các ngươi nên phân biệt điều chi là đúng"
“theo sáng kiến của ngươi” hay “đang khi ngươi vẫn còn có thì giờ để làm việc ấy”. Câu nầy ám chỉ rằng khán thính giả nên hành động từ chỗ hiểu biết và khôn ngoan của họ mà không có ai khác bắt buộc họ.
Mặc dù Chúa Giê-xu đang nói với đám đông, tình huống Ngài đang chỉ ra là tình huống mà một người sẽ một mình nếm trải. Vì vậy, trong một số ngôn ngữ chữ "you" [ngươi] sẽ là số ít.
"liệu định nan đề với kẻ thù"
Cụm từ nầy đề cập đến thẩm phán, nhưng thuật ngữ ở đây thì đặc biệt hơn và đầy sự đe doạ.
"không kéo ngươi qua được"
Chúa Giê-xu sẽ xưng danh người ấy ra trước mặt các thiên sứ của Đức Chúa Trời.
Ngài phán: "Hỡi kẻ dại, chính đêm nay linh hồn ngươi sẽ bị đòi lại; vậy những của cải ngươi đã sắm sẵn sẽ thuộc về ai”.
Chúng ta phải tìm kiếm Nước Đức Chúa Trời.
Chúng ta phải chất chứa của cải ở trên trời, vì đấy là chỗ mà chẳng có trộm cướp nào đến được và chẳng có sâu mối nào huỷ diệt được
Người được phước là người được thấy đang thức canh và sẵn sàng khi Chúa Giê-xu đến.
1 Lúc ấy, một số người ở đó thuật lại cho Ngài về những người Ga-li-lê bị Phi-lát lấy máu hòa với sinh tế của chính họ. 2 Chúa Giê-xu đáp lại: “Các ông tưởng rằng những người Ga-li-lê ấy tội lỗi hơn tất cả những người Ga-li-lê khác nên họ phải chịu như vậy sao? 3 Tôi nói cho các ông biết, không phải vậy. Nhưng nếu các ông không ăn năn, thì tất cả sẽ bị diệt vong như vậy. 4 Hay như mười tám người ở Si-lô-ê bị một tòa tháp ngã xuống đè chết, các ông tưởng rằng họ phạm tội ghê gớm hơn những người khác ở Giê-ru-sa-lem sao? 5 Tôi khẳng định là không phải đâu. Nhưng nếu các ông không ăn năn, thì tất cả sẽ cũng sẽ bị diệt vong.” 6 Chúa Giê-xu kể ẩn dụ này: “Người nọ có cây vả trồng trong vườn nho mình, ông đến tìm quả nhưng không thấy. 7 Ông nói với người làm vườn: ‘Hãy xem, đã ba năm tôi đến tìm quả nơi cây vả này mà chẳng thấy. Hãy đốn nó đi, sao phải để nó choán đất như vậy?’ 8 Người làm vườn thưa: ‘Xin để nó lại thêm một năm nữa, tôi sẽ đào đất xung quanh và bón phân cho cây. 9 Nếu năm sau nó ra quả thì tốt; còn không, chúng ta sẽ đốn nó!’” 10 Chúa Giê-xu đang giảng dạy trong một nhà hội vào ngày Sa-bát. 11 Tại đó có một người phụ nữ bị tà linh đau yếu ám suốt mười tám năm qua, khiến cho lưng bà ta bị còng, không thể đứng thẳng được. 12 Khi Chúa Giê-xu thấy bà, Ngài gọi bà và nói: “Hỡi chị, chị được giải thoát khỏi tật bệnh.” 13 Ngài đặt tay trên bà. Lập tức, bà đứng thẳng lên và tôn vinh Đức Chúa Trời. 14 Nhưng người quản lý nhà hội nổi giận vì Chúa Giê-xu chữa lành cho người bệnh trong ngày Sa-bát. Ông ta nói với đoàn dân: “Có sáu ngày để làm việc. Hãy đến chữa bệnh vào những ngày ấy, đừng đến vào ngày Sa-bát.” 15 Chúa đáp lại ông ta: “Hỡi kẻ đạo đức giả! Chẳng phải vào ngày Sa-bát tất cả các ông đều mở dây buộc lừa hay bò của mình khỏi máng để dẫn nó đi uống nước sao? 16 Còn chị này là con gái của Áp-ra-ham đã bị trói buộc suốt mười tám năm, chẳng lẽ không nên cởi trói cho chị ấy vào ngày Sa-bát sao?” 17 Khi Ngài nói những lời này, tất cả những kẻ chống đối Ngài đều xấu hổ, còn đoàn dân đông thì vui mừng trước tất cả những việc diệu kỳ Ngài đã làm. 18 Chúa Giê-xu nói: “Vương quốc của Đức Chúa Trời giống với điều gì, tôi sẽ lấy gì để so sánh với vương quốc ấy? 19 Vương quốc ấy giống như một hạt cải, người kia lấy gieo trong vườn, nó lớn lên thành một cây to và chim trời xây tổ trên cành của nó.” 20 Ngài lại nói: “Tôi sẽ lấy gì để so sánh với vương quốc của Đức Chúa Trời? 21 Vương quốc ấy giống như men được một người phụ nữ lấy trộn vào ba đấu bột cho đến khi bột dậy lên.” 22 Chúa Giê-xu ghé vào tất cả các thành và làng mạc trên đường đi đến Giê-ru-sa-lem và dạy dỗ mọi người. 23 Có người thưa với Ngài: “Lạy Chúa, phải chăng chỉ một số ít người được cứu?” Ngài nói với họ, 24 “Hãy cố gắng mà vào cửa hẹp, vì nhiều người sẽ tìm cách vào đó mà không được. 25 Một khi chủ nhà đã đứng dậy và đóng cửa lại rồi, anh em sẽ đứng ngoài cửa kêu rằng: ‘Lạy Chúa, lạy Chúa, xin cho chúng tôi vào.’ Nhưng Ngài sẽ trả lời rằng: ‘Ta không biết các người là ai hoặc các người từ đâu tới.’ 26 Anh em sẽ nói: ‘Chúng tôi đã từng ăn uống trước mặt Ngài và Ngài đã dạy dỗ trên các đường phố của chúng tôi.’ 27 Nhưng Ngài sẽ trả lời: ‘Ta nói cho các người là Ta không biết các người từ đâu đến. Hãy tránh xa Ta ra, hỡi những kẻ làm ác kia!’ 28 các người sẽ khóc lóc và nghiến răng khi thấy Áp-ra-ham, Y-sác, Gia-cốp và tất cả các nhà tiên tri ở trong vương quốc Đức Chúa Trời, còn các người – các người thì lại bị ném ra ngoài. 29 Sẽ có nhiều người đến từ đông, tây, nam, bắc được ngồi dự tiệc trong vương quốc của Đức Chúa Trời. 30 Và hãy biết điều này, người cuối sẽ nên đầu và người đầu sẽ trở nên cuối.” 31 Không lâu sau, có mấy người Pha-ri-si đến thưa với Ngài: “Xin hãy rời khỏi đây vì Hê-rốt muốn giết Thầy.” 32 Chúa Giê-xu đáp: “Hãy đi nói với con cáo ấy rằng: ‘Này, ngày hôm nay và ngày mai tôi sẽ đuổi quỷ và chữa bệnh, sang ngày thứ ba tôi sẽ đạt được mục tiêu của mình.’ 33 Dù thế nào, tôi cũng phải tiếp tục hành trình ngày hôm nay, ngày mai và ngày kia, vì một tiên tri không thể bị giết bên ngoài thành Giê-ru-sa-lem. 34 Hỡi Giê-ru-sa-lem, Giê-ru-sa-lem, ngươi giết các nhà tiên tri và ném đá những người được sai đến với ngươi. Đã bao nhiêu lần Ta muốn nhóm con cái ngươi lại như gà mái túc con dưới cánh mình, nhưng ngươi không muốn. 35 Này, nhà của ngươi sẽ bị bỏ hoang. Ta cho ngươi hay, ngươi sẽ không thấy Ta nữa cho đến khi ngươi nói rằng, “Phước cho Đấng nhân danh Chúa mà đến.’”
Chúa Giê-xu vẫn nói trước mặt đoàn dân đông. Đây là phần tương tự trong câu chuyện.
Trong các câu này, một số người trong đoàn dân hỏi Chúa Giê-xu và Ngài bắt đầu trả lời.
Cụm từ nầy nối biến cố nầy với phần cuối của chương 12 khi Chúa Giê-xu đang dạy dỗ đoàn dân đông.
Đây là lối nói tượng hình, trong đó sự chết của họ được nói tới bằng thuật ngữ chỉ ra huyết của họ. Cụm từ nầy có thể được dịch là "họ bị Phi-lát giết khi họ đang dâng của lễ". Phi-lát có lẽ đã ra lịnh cho binh lính giết người thay vì bản thân ông ta làm việc ấy.
"Có phải mấy người Ga-li-lê nầy phạm tội sao" hay "Có phải việc nầy chứng minh rằng những người Ga-li-lê nầy là tội lỗi lắm sao?" Đây là câu hỏi hùng biện. Cụm từ nầy có thể được dịch như một câu nói: "Các ngươi tưởng rằng mấy người Ga-li-lê nầy là tội lỗi lắm sao" hay như một mạng lịnh "đừng tưởng rằng mấy người Ga-li-lê nầy là tội trọng"
Chúa Giê-xu phán: "ta nói cùng các ngươi" ở đây để nhấn mạnh "không phải". Cụm từ nầy có thể được dịch là "Chắc chắn không phải!" Ý nghĩa khả thi là "Chắc chắn họ không phải là tội lỗi đâu" hay "nổi khổ của họ chắc chắn không chứng mình điều đó". Cụm từ nầy có thể được dịch là "các ngươi đã sai khi tưởng như vậy"
"hết thảy các ngươi cũng sẽ chết". Cụm từ "như vậy" ý nói "với cùng kết quả đó" không phải "bởi cùng phương pháp đó"
"mất mạng" hay "chết"
Đây là trường hợp thứ hai của Chúa Giê-xu nói tới những người đã cịhu khổ. Câu nầy có thể khởi sự với "Hay hãy xem" hoặc "hãy suy nghĩ về". Cụm từ nầy có thể được dịch là "Còn về những kẻ" để kết nối nó với câu hỏi hùng biện theo sau nó.
"18 người"
Đây là tên của một khu vực ở Giê-ru-sa-lem.
“Có phải họ tội trọng hơn” hay “Có phải việc nầy chứng mình rằng họ có tội trọng chăng?” Đây là câu hỏi hùng biện. Cụm từ nầy có thể được dịch như một câu nói: “các ngươi tưởng rằng họ có tội trọng sao” hay như một mạng lịnh “đừng tưởng rằng họ pạm tội trọng”
"người khác"
Chúa Giê-xu phán “ta nói” ở đây để nhấn mạnh “không phải”. Cụm từ nầy có thể được dịch là "Chắc chắn không phải!" Ý nghĩa khả thi là “chắc chắn họ không có tội trọng” hay “nổi khổ của họ chắc chắn không chứng minh điều đó”. Cụm từ nầy có thể được dịch là “các ngươi sai lầm khi tưởng như vậy”. Nếu
"mất mạng" hay "chết"
Chúa Giê-xu bắt đầu kể một câu chuyện ngụ ngôn và giải thích trong câu cuối của Ngài, “Nhưng nếu các ông không ăn năn, thì tất cả sẽ bị diệt vong như vậy”
Tham khảo: “một người kia trồng một cây vả”
"3 năm"
Đây là câu hỏi hùng biện. Cụm từ nầy có thể được dịch như một câu nói như trong Kinh Thánh hay như một mạng lịnh: "Đừng để nó choán đất vô ích"
Chúa Giê-xu kết thúc phần kể câu chuyện ngụ ngôn. Đây là phần kết trong câu chuyện bắt đầu trước đó.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "đừng làm việc gì với cây ấy" hay "đừng đốn nó"
"đào đất xung quanh nó rồi đổ phân vào". Phân là phân động vật. Người ta đặt phân trong đất để làm cho đến tốt cho thực vật và cây cối.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "hãy để tôi đốn nó" hay "hãy bảo tôi đốn nó". Tôi tớ đang đưa ra một đề nghị; hắn không đưa ra lịnh cho chủ.
Đây là phần tiếp theo trong câu chuyện. Các câu này đưa ra thông tin bối cảnh về diễn biến của phần này trong câu chuyện và về một người phụ nữ còng lung được trước giả giới thiệu trong đó.
Từ này đánh dấu một phần mới trong câu chuyện.
"một ngày sa-bát". Một số ngôn ngữ sẽ nói: "một ngày Sa-bát" vì chúng ta không biết đâu là ngày Sa-bát đặc biệt.
Chữ “vả” ở đây báo cho chúng ta biết một nhân vật mới trong câu chuyện. Ngôn ngữ của bạn có thể có cách thực hiện việc nầy. Anh ngữ dung “có người đàn bà …”
"18 năm"
"một tà linh làm cho bà ta yếu sức"
"ngươi đã được chữa lành khỏi bệnh tật ngươi". Bằng cách nói như vầy, Chúa Giê-xu đang làm cho việc ấy xảy ra. Cụm từ nầy có thể được dịch như một mạng lịnh hay như một câu nói.
"Ngài chạm đến bà ta"
Tham khảo: “bà đứng thẳng”
Cụm từ nầy có thể được dịch là "nổi giận vì Chúa Giê-xu đã chữa lành"
"nói" hay "đáp ứng"
"hãy đến để được chữa lành trong sáu ngày kia"
"Chúa đáp trả người cai nhà hội"
Chúa Giê-xu đặt câu hỏi để khiến họ nghĩ về việc họ cho là mình đã biết. Tham khảo: “Các ngươi mở dây buộc lừa mình…ngày Sa-bát.”
Đây là những con thú mà người ta chăm sóc bằng cách cho chúng uống nước.
"dòng dõi của Áp-ra-ham"
Đây là một ẩn dụ. Ý nói "kẻ mà làm cho què quặt". Ẩn dụ được sử dụng và ý nghĩa rất cụ thể: "kẻ mà cầm buộc với thứ bệnh tật nầy"
Chữ "dài" ở đây nhấn mạnh rằng 18 năm là một thời gian rất dài đối với người phụ nữ phải chịu khổ. Các ngôn ngữ khác có nhiều cách khác nhấn mạnh vến đề nầy.
Chúa Giê-xu dùng câu hỏi để dạy những người quản lý nhà hội. Chúa Giê-xu nói về căn bệnh của người phụ nữ này như thể nó đã trói buộc bà. Tham khảo: “Cởi trói cho chị ấy khỏi quỉ sa-tan là việc làm đúng…ngày” hoặc “giải thoát chị ấy khỏi sự trói buộc của căn bệnh này là đúng…ngày”
"khi Chúa Giê-xu phán ra những sự nầy"
"những việc vinh hiển Chúa Giê-xu đã làm"
Chúa Giê-xu bắt đầu kể một câu chuyện ngụ ngôn cho những người trong nhà hội nghe.
Đây là câu hỏi hùng biện giới thiệu những gì Chúa Giê-xu muốn nói tới. Cụm từ nầy có thể được dịch như một câu nói: "Ta sẽ nói cho các ngươi biết nước Đức Chúa Trời giống như gì"
Về cơ bản, câu nầy giống nư một câu hỏi hùng biện trước đó. Chúa Giê-xu sử dụng nó để giới thiệu những gì Ngài sẽ nói tới. Một số ngôn ngữ có thể sử dụng cả hai cách nầy, và một số sẽ sử dụng một cách thôi.
Hột cải thì rất nhỏ mọc thành cây lớn. Nếu chẳng ai biết loại thực vật nầy, nó có thể được dịch với tên của hột giống kháctương tự như nó hay tỉ như "một hột giống nhỏ".
"và gieo trong vườn". Người ta gieo ra một vài loại hột giống bằng cách quăng chúng rải rác ở trong vườn.
Đây là một sự cường điệu để đưa ra quan điểm. Cụm từ nầy có thể được dịch là "một bụi rất lớn"
"loài chim bay trên trời". Cụm từ nầy có thể được dịch là "loài chim bay trên bầu trời" hay chỉ là "loài chim"
Jesus finishes speaking to the people in the synagogue. This is the end of this part of the story.
Đây là câu hỏi hùng biện khác giới thiệu những gì Chúa Giê-xu muốn nói tới. Cụm từ nầy có thể được dịch như trong Kinh Thánh.
Chỉ có một chút men được cần đến để làm dậy cả đống bột. Sự nầy đã được nói rõ trong Kinh Thánh rồi.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "một lượng bột lớn" hay với một từ ngữ mà văn hoá của bạn sử dụng cho việc đong đếm một lượng bột lớn.
Đây là phần tiếp theo của câu chuyện. Chúa Giê-xu trả lời câu hỏi bằng cách kể một câu chuyện ngụ ngôn về việc vào nước Đức Chúa Trời.
Đây là thông tin bối cảnh cho chúng ta biết việc Chúa Giê-xu đã làm khi sự kiện này xảy ra.
Tham khảo: “liệu Đức Chúa Trời sẽ chỉ cứu một ít người”
"Chịu khó làm việc phải nếm trải cửa hẹp". Đây là một phần của ẩn dụ nói tới Nước của Đức Chúa Trời. Trong ẩn dụ nầy, nước của Đức Chúa Trời được tiêu biểu bằng một ngôi nhà. Chúa Giê-xu đang nói tới một nhóm người. Vì vậy chữ "you" [các ngươi] ám chỉ trong mạng lịnh nầy ở vào số nhiều.
Trở nên chi thể của Vương quốc được tiêu biểu bằng cách bước vào cửa hẹp. Kỳ thực, cánh cửa ấy là hẹp ám chỉ rằng chỉ có một vài người vào một thời điểm có thể đi qua cửa ấy. Hãy dịch cụm từ nầy bằng cách giữ được ý nghĩa đấy của nó.
Cụm từ nầy đề cập đến Đức Chúa Trời và có thể được dịch là “Đức Chúa Trời”
Chúa Giê-xu đáng nói với đám đông. Hình thức chữ "you" [các ngươi] là số nhiều . Ngài đang nói vối họ giống như thể họ sẽ không bước qua cánh cửa vào trong Vương quốc.
"gõ cửa"
"hãy lui ra khỏi ta"
những kẻ làm** - "hạng người làm dữ"
Chúa Giê-xu tiếp tục nói về việc vào nước Đức Chúa Trời. Đây là phần kết của đoạn hội thoại này.
"còn các ngươi, chính các ngươi sẽ bị quăng ra ngoài"
"người ta sẽ đến"
Câu nầy nói tới vinh dự hay tầm quan trọng. Cụm từ nầy có thể được dịch là "có người không quan trọng bao nhiêu sẽ trở nên quan trọng nhất" hay "có người không được tôn trọng giờ được tôn trọng"
Câu Liên kết: Đây là sự kiện tiếp theo trong phần này của câu chuyện. Chúa Giê-xu vẫn đang trên đường đến Giê-ru-sa-lem, khi một số người Pha-ri-si nói với Ngài về Hê-rốt.
"Một thời gian ngắn sau khi Chúa Giê-xu giảng xong"
Hãy dịch câu nầy như một lời cảnh cáo cho Chúa Giê-xu. Họ đang khuyên Ngài đi chỗ khác để được an ninh.
"Hê-rốt muốn Ngài chết đi". Hê-rốt đã ra lịnh cho người ta giết Chúa Giê-xu.
Chúa Giê-xu gọi Hê-rốt là chồn cáo. Cáo là một loài chó hoang nhỏ nhắn. Đây là một ẩn dụ. Ý nghĩa khả thi là 1) Hê-rốt không phải là một sự đe doạ lớn lao 2) Hê-rốt bị dối gạt.
Cấp lãnh đạo Do thái đã giết nhiều tiên tri của Đức Chúa Trời tại thành Giê-ru-sa-lem và Chúa Giê-xu vốn biết rõ rằng họ cũng sẽ giết Ngài ở đó nữa. Tham khảo cách dịch: "Chính trong thành Giê-ru-sa-lem mà cấp lãnh đạo Do thái giết chết nhiều sứ giả của Đức Chúa Trời"
Chúa Giê-xu kết thúc trả lời người Pha-ri-si. Đây là phần cuối trong phần này của câu chuyện.
Chúa Giê-xu nói giống như thể dân sự thành Giê-ru-sa-lem có mặt ở đó lắng nghe Ngài vậy. Chúa Giê-xu phán điều nầy hai lần để tỏ ra Ngài buồng rầu cho họ là dường nào.
Nếu lạ lùng khi nói tới thành nầy, bạn có thể nói rõ rằng thực sự Chúa Giê-xu đang nói với dân sự trong thành phố: "các ngươi là người giết các đấng tiên tri và ném đá những người Đức Chúa Trời sai đến cùng ngươi"
"nhóm dân sự của ngươi lại" hay "gom các ngươi lại"
Ẩn dụ nầy mô tả một con gà mái bảo hộ con của nó tránh bị hại bằng cách ấp chúng dưới cánh nó.
Đây là một ẩn dụ. Ý nghĩa khả thi là 1) "Đức Chúa Trời đã từ bỏ ngươi" hay 2) "thành các ngươi hoang vu". Ý nói rằng Đức Chúa Trời đã thôi không còn bảo hộ dân sự thành Giê-ru-sa-lem, vì vậy kẻ thù có thể tấn công họ và trục xuất họ. Đây là lời tiên tri nói tới một việc không bao lâu nữa sẽ xảy ra. Cụm từ nầy có thể được dịch là "nhà các ngươi sẽ bỏ hoang" hay "Đức Chúa Trời sẽ từ bỏ ngươi"
"các ngươi sẽ không thấy ta cho tới chừng thì giờ đến khi các ngươi sẽ nói" hay "lần tới các ngươi thấy ta, các ngươi sẽ nói"
“Danh” ở đây nói đền quyền năng và thẩm quyền của Chúa.
Cây ấy sẽ được đổ phân, thêm một năm nữa để ra trái, bằng không, nó sẽ bị đốn bỏ.
Chúa Giê-xu nhắc cho ông ta nhớ rằng ông ta mở dây cột thú vật của mình trong ngày Sa-bát, tuy nhiên ông ta lại tức giận khi Chúa Giê-xu mở trói cho người đàn bà nhằm ngày Sa-bát.
Họ khóc lóc và nghiến răng.
Áp-ra-ham, Y-sác, Gia-cốp, các tiên tri, và nhiều người từ Đông, Tây, Nam, Bắc.
Ngài ước ao nhóm họ lại như gà mái túc con mình dưới cánh.
Họ chối bỏ điều đó.
1 Vào ngày Sa-bát nọ, Chúa Giê-xu vào nhà một người lãnh đạo thuộc phái Pha-ri-si để dùng bữa, và họ chăm chú theo dõi Ngài. 2 Lúc ấy, trước mặt Ngài có một người mắc bệnh phù thũng. 3 Chúa Giê-xu hỏi các luật gia Do Thái và người Pha-ri-si: “Trong ngày Sa-bát có được phép chữa bệnh không?” 4 Nhưng họ im lặng. Vậy là Chúa Giê-xu đỡ lấy người bệnh, chữa lành, rồi cho anh về. 5 Ngài nói với họ: “Có ai trong các ông có đứa con trai, hay một con bò, bị rơi xuống giếng trong ngày Sa-bát mà không kéo nó lên ngay không?” 6 Họ không thể đáp lại một câu nào. 7 Khi Chúa Giê-xu nhận thấy các khách mời toàn chọn chỗ danh dự mà ngồi, Ngài kể cho họ một ẩn dụ: 8 “Khi anh em được mời đến dự tiệc cưới, đừng chọn chỗ danh dự mà ngồi, vì biết đâu trong số khách mời có người quan trọng hơn anh em. 9 Khi ấy, người đã mời cả anh em lẫn vị khách kia sẽ đến nói với anh em: ‘Xin nhường chỗ cho người này,’ và anh em sẽ xấu hổ vì phải xuống ngồi chỗ thấp nhất. 10 Nhưng khi được mời dự tiệc, hãy chọn chỗ thấp nhất mà ngồi, để khi chủ tiệc đến thấy vậy, có thể sẽ nói với anh em rằng: ‘Bạn ơi, xin mời ngồi lên chỗ cao hơn.’ Khi ấy, anh em sẽ được vinh dự trước mặt những người ngồi cùng bàn với mình. 11 Vì ai tự tôn mình lên sẽ bị hạ xuống và ai tự hạ mình xuống sẽ được tôn cao.” 12 Chúa Giê-xu cũng nói với người đã mời Ngài rằng: “Khi ông đãi ăn, đừng mời bè bạn, anh em, bà con, hay những người hàng xóm giàu có, vì có thể họ sẽ mời lại để trả ơn cho ông. 13 Nhưng khi ông mở tiệc, hãy mời những người nghèo khổ, tàn tật, què quặt, đui mù, 14 thì ông sẽ được phước, vì họ không thể trả ơn cho ông. Còn ông sẽ được đền đáp khi người công chính sống lại.” 15 Một người ngồi cùng bàn với Chúa Giê-xu nghe Ngài nói vậy liền thưa: “Người nào được ăn bánh trong vương quốc của Đức Chúa Trời thật có phước thay!” 16 Nhưng Chúa Giê-xu đáp: “Có người kia mở một bữa đại tiệc và mời nhiều người đến dự. 17 Khi bữa ăn đã được chuẩn bị xong, ông sai đầy tớ đến báo cho các khách mời rằng: ‘Xin hãy đến vì mọi sự đã sẵn sàng rồi.’ 18 Nhưng tất cả đều xin cáo lỗi. Người thứ nhất nói: ‘Tôi có mua một đám ruộng, phải đi xem. Xin cho tôi kiếu.’ 19 Người khác nói: ‘Tôi có mua năm đôi bò, cần phải đi xem thử thế nào. Xin cho tôi kiếu.’ 20 Người khác nữa nói: ‘Tôi vừa lấy vợ nên không đến được.’ 21 Đầy tớ về thuật lại cho chủ mọi chuyện. Ông nổi giận và nói với đầy tớ: ‘Hãy nhanh chân lên, đi khắp các nẻo đường lớn nhỏ trong thành mà đưa những người nghèo khó, tàn tật, đui mù và què quặt về đây.’ 22 Người đầy tớ thưa: “Thưa ông chủ, tôi đã làm theo lệnh ông, nhưng vẫn còn chỗ trống.’ 23 Chủ nói: ‘Hãy đi ra ngoài quốc lộ và vào các thôn làng mà ép mời mọi người vào cho đầy nhà ta. 24 Vì ta nói để anh biết, không một người nào trong số các khách mời lúc đầu được dự tiệc của ta.’” 25 Lúc này, có một đoàn dân đông cùng đi với Ngài, Ngài quay lại và nói với họ: 26 “Người nào đến theo tôi mà không ghét cha mẹ, vợ con, anh em, chị em – phải, và cả sự sống của mình nữa – thì không thể làm môn đồ tôi. 27 Ai không vác thập tự giá mình mà theo tôi cũng không thể làm môn đồ tôi. 28 Vì có người nào trong các ông muốn xây một cái tháp mà trước tiên không ngồi xuống tính phí tổn để xem mình có thể hoàn thành nó hay không? 29 Nếu không làm vậy, khi đã xây móng rồi mà lại không thể hoàn thành, thì mọi người thấy thế sẽ chế nhạo người ấy, 30 mà rằng: ‘Người này khởi công xây cất mà không hoàn thành được.’ 31 Hay có vua nào trước khi đi giao chiến với vua khác mà không ngồi xuống bàn bạc xem liệu mười ngàn quân có địch nổi với hai mươi ngàn quân của vua kia chăng? 32 Nếu không địch nổi, trong khi đạo quân của vua kia còn ở xa, ông phải sai sứ giả đến xin cầu hòa. 33 Vậy nên, người nào không từ bỏ mọi thứ mình có thì không thể làm môn đồ tôi. 34 Muối rất tốt, nhưng nếu muối mất mặn đi thì làm thế nào để nó mặn lại? 35 Muối ấy chẳng còn ích lợi gì đối với đất hay thậm chí để làm phân, mà chỉ có thể vất bỏ đi thôi. Ai có tai mà nghe, hãy nghe.
Đây là phần tiếp theo trong câu chuyện. Đó là ngày Sa-bát và Chúa Giê-xu đang ở nhà của người Pha-ri-si. Câu 1 đưa ra thông tin bối cảnh về diễn biến trong câu chuyện.
"ăn" hay "dự bữa ăn". Bánh là phần quan trọng của bữa ăn và được sử dụng trong câu nầy đề cập đến bữa ăn.
Họ muốn xem coi không biết họ có nên tố cáo Ngài về việc al2m sai trái hay không.
Cụm từ "số là" báo cho chúng ta biết có một nhân vật mới trong câu chuyện. Ngôn ngữ của bạn có thể có cách thức để trình bày việc nầy. Anh ngữ sử dụng "Có một người ở trước mặt Ngài…”
Bịnh thuỷ thủng phồng lên do nước gây ra ở các chi thể trong thân. Một số ngôn ngữ có thể có danh xưng nói tới tình trạng nầy. Cụm từ nầy có thể được dịch là “chịu khổ vì các chi thể trong thân bị phồng lên với nước”
“Luật pháp có cho phép chúng ta chữa bệnh…không?”
Cấp lãnh đạo tôn giáo từ chối không trả lời câu hỏi của Chúa Giê-xu.
Chúa Giê-xu sử dụng một câu hỏi hùng biện bởi vì Ngài muốn họ nhìn nhận rằng họ sẽ giúp cho con hay bò, thậm chí trong ngày sa-bát, vì lẽ đó, Ngài có quyền chữa lành dân sự thậm chí trong ngày sa-bát. Cụm từ nầy có thể được dịch là "nếu ai trong các ngươi có con hay bò té xuống giếng vào ngày sa-bát, chắc chắn các ngươi sẽ kéo nó lên ngay tức khắc đấy thôi".
Cụm từ nầy có thể được dịch là "họ chẳng có gì để nói". Ấy chẳng phải là họ không biết câu trả lời cho câu hỏi của Chúa Giê-xu. Thay vì thế, họ vốn biết rõ Ngài đã nói đúng và họ không muốn nói gì về điều đó.
Tham khảo: “khách mà người đứng đầu nhóm người Pha-ri-si đã mời đến dự bữa ăn”
Tham khảo: “Khi có người mời anh em"
Tham khảo: “vì biết đâu có người nào đó được mời là người quan trọng hơn anh em”
AT: "because someone may have invited a person who is more important than you are"
"Anh em sẽ cảm thấy xấu hổ và"
Chúa Giê-xu tiếp tục nói với những người đang có mặt tại nhà người Pha-ri-si.
Tham khảo: “Khi người ta mời anh em đến dự bữa ăn”
"chỗ được dành cho hạng người kém quan trọng"
"chuyển đến chỗ ngồi cao trọng hơn"
Tham khảo cách dịch: "Sau đó người đã mời anh em sẽ tôn trọng anh em”
"xem ra rất quan trọng" hay "người chiếm địa vị quan trọng"
"sẽ được xem là quan trọng" hay "sẽ được dành cho chỗ quan trọng". Tham khảo cách dịch: “Đức Chúa Trời sẽ nhắc lên.”
"người chọn mình là không quan trọng" hay "người chiếm lấy vị trí không quan trọng"
"bị tỏ ra là không quan trọng" hay "sẽ được chỉ cho chỗ không quan trọng" Tham khảo cách dịch: "Đức Chúa Trời sẽ hạ xuống."
"vì họ có thể"
Tham khảo: “và rồi sẽ đền đáp anh em”
Chúa Giê-xu tiếp tục nói với người Pha-ri-si là người đã mời Ngài đến nhà.
Tham khảo: “Đức Chúa Trời sẽ ban phước cho ông”
Tham khảo cách dịch: "họ không thể mời ngươi dự tiệc đáp lại"
"Khi Đức Chúa Trời làm cho người công bình được sống lại"
Một trong những người ngồi cùng bàn nói với Chúa Giê-xu và Ngài trả lời bằng cách kể một câu chuyện ngụ ngôn.
Người nầy không phải là một nhân vật đặc biệt. Cụm từ nầy có thể được dịch là "Phước cho người nào" hay "thật lấy làm tốt cho người nào"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "kẻ sẽ ăn tại bàn ăn". Chữ "bánh" được sử dụng đề cập đến toàn bộ bữa ăn.
Chúa Giê-xu bắt đầu kể chuyện ngụ ngôn.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "đến giờ ăn tối" hay "khi bữa tối sắp sửa bắt đầu"
"những kẻ người đã mời"
Chúa Giê-xu tiếp tục kể chuyện ngụ ngôn.
Tất cả những người đã được đầy tớ mời đều đưa lý do từ chối vì không thể đến dự yến tiệc.
Ở đây cụm từ nầy có nghĩa là "nói lý do tại sao họ không đến dự bữa ăn"
xin cho tôi kiếu
Bò mà dân sự sử dụng để chở nặng hay làm công việc khó nhọc. Bò thường làm việc từng đôi một.
Sử dụng một thành ngữ thật tự nhiên trong ngôn ngữ của bạn. Một số ngôn ngữ có thể nói: "lập gia đình" hay "lấy vợ"
"bèn nổi giận với người mà ông ta đã mời"
Rất cần thiết trình bày rõ phần thông tin mà người đầy tớ đã làm theo mọi điều mà chủ đã truyền cho như trong Kinh Thánh: "sau lại đầy tớ trình rằng…"
Tham khảo: “Tôi đã làm theo lệnh ông”
Chúa Giê-xu kết thúc câu chuyện ngụ ngôn.
Câu nầy đề cập đến đường xá ngoài thành phố. Cụm từ nầy có thể được dịch là "các con đường chính ngoài thành phố"
"yêu cầu họ"
"để nhà ta sẽ có nhiều người"
Đại từ “anh” nói đến đầy tớ
Từ “đàn ông” ở đây nghĩa là "những người nam trưởng thành" và không chỉ là những thường dân.
"những kẻ ta đã mời lần thứ nhứt"
"thưởng thức bữa tiệc mà ta đã dọn"
Chúa Giê-xu bắt đầu giảng dạy đoàn dân đông đang đi theo Ngài.
Cụm từ nầy cũng có thể nói ra cách tích cực: "nếu ai đến cùng ta, người ấy có thể trở thành môn đồ ta chỉ khi người ghét cha ruột mình". AT: "If anyone comes to me and does not love me more than he loves his father...he cannot be my disciple" or "Only if a person loves me more than he loves his own father...can he be my disciple."
"và ngay cả sự sống mình"
Cụm từ nầy có thể biểu lộ cách tích cực hơn: "nếu ai muốn làm môn đồ ta, người ấy phải vác thập tự giá mình mà theo ta"
Cụm từ nầy ý nói "phải bằng lòng chịu chết". Người nào bị xét đoán phải chết thường bị buộc vác thập tự giá mà họ sẽ bị đóng đông trên đó mà chết. Người nào bước theo Chúa Cứu Thế sẽ phải bằng long gánh chịu sự bắt bớ sẽ xảy đến.
Đây là phần mở đầu của câu hỏi hùng biện. Chúa Giê-xu sử dụng để buộc dân sự phải suy nghĩ về mọi điều họ sẽ làm trong một tình huống đặc biệt. Cụm từ nầy có thể được dịch như một câu nói: “nếu ai muốn xâu một toà tháp, các ngươi nhất định trước tiên phải ngồi lại rồi lượng tính phí tổn"
Có thể đây là cái chòi canh trong vườn nho. Một số ngôn ngữ sẽ dịch là "cái chòi cao" hay "một dàn giáo cao"
"nếu người trước tiên không tính phí tổn"
"khi người đã xây nền". Cụm từ nầy có thể được dịch là "khi người khởi sự xây dựng"
Chúa Giê-xu sử dụng từ ngữ nầy để giới thiệu một tình huống khác, ở đó người ta tính phí tổn trước khi đưa ra quyết định.
Câu nầy khởi sự một câu hỏi hùng biện khác. Cụm từ nầy có thể được dịch như một câu nói: "các ngươi biết rằng một vị vua … trước sẽ ngồi bàn luận"
Ý nghĩa khả thi là 1) "cẩn thận suy nghĩ" hay 2) "lắng nghe các cố vấn của mình"
"10.000...20.000"
"và nếu người nhận ra rằng mình không có khả năng đáng bại vua kia" hay "nếu người quyết định quân đội của mình không thể đáng bại quân đội kia"
Cụm từ nầy có thể trình bày cách tích cực hơn: "Chỉ ai trong các ngươi từ bỏ mọi sự các ngươi có, có thể làm môn đồ ta"
"bỏ lại sau lưng mọi sự người có"
Chúa Giê-xu kết thúc phần dạy dỗ đám đông.
"Muối có ích lợi". Chúa Giê-xu đang dạy một bài học về điều Ngài muốn cho những môn đồ của Ngài.
Đây là một câu hỏi hùng biện. Cụm từ nầy có thể được dịch là "không thể làm cho nó mặn lại" hay "không ai có thể làm cho nó mặn lại"
"phân" có thể được dịch là "phân trộn" hay "phân hoá học". Phân được sử dụng để làm phì nhiêu vườn tượt và đồng ruộng. Lúa sẽ hoá xấu đi có thể được rãi bằng phân. Nhưng muối mất mùi đi không thể dung được thậm chí là làm phân. Nó vô dụng hoàn toàn.
Tham khảo: “Người ta chỉ vứt bỏ thôi”
Cụm từ nầy có thể được dịch như một mạng lịnh: "nếu các ngươi có tai để nghe, hãy nghe cho kỹ" hay "nếu các ngương nghe mọi điều ta đang phán đây, hãy chú ý"
“hễ ai có thể nghe” hay “nếu ai nghe ta”
“người ấy hãy nghe cho kỹ” hay “nguyện người ấy chú ý đến mọi điều ta phán đây”
Họ giữ im lặng.
Họ khởi sự xin kiếu về lý do tại sao họ không đến dự bữa ăn tối.
Kẻ nghèo khó, tàn tật, đui, què vào đây.
Người ấy phải tính phí tổn.
1 Mọi người thu thuế và những kẻ tội lỗi khác đều đến với Chúa Giê-xu để nghe Ngài giảng dạy. 2 Người Pha-ri-si và các thầy thông giáo lầm bầm với nhau: “Ông ta tiếp đón những kẻ tội lỗi, lại còn ăn chung với họ.” 3 Chúa Giê-xu kể cho họ nghe ẩn dụ này: 4 “Có ai trong các ông có một trăm con chiên, mà bị lạc mất một con, lại không để chín mươi chín con kia nơi đồng hoang để đi tìm con chiên lạc cho đến khi tìm thấy nó không? 5 Khi đã tìm được rồi, liền vui mừng vác nó lên vai. 6 Về đến nhà, người ấy cho mời bạn bè, hàng xóm đến và nói với họ: ‘Hãy chung vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên bị mất.’ 7 Tôi nói để các ông biết, thiên đàng cũng sẽ vui mừng như vậy về một tội nhân biết ăn năn hơn là chín mươi chín người công bình không cần ăn năn. 8 Hay có người phụ nữ nào có mười đồng bạc lỡ đánh mất một đồng, mà lại không thắp đèn, quét nhà để tìm cho kỳ được đồng bạc bị mất ấy? 9 Rồi khi tìm được, chị sẽ cho mời bạn bè, hàng xóm đến và nói: ‘Hãy chung vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy đồng bạc bị mất.’ 10 Cũng vậy, tôi nói để các ông biết, các thiên sứ của Đức Chúa Trời cũng sẽ vui mừng khi một người có tội ăn năn.” 11 Rồi Chúa Giê-xu nói tiếp: “Một người kia có hai con trai, 12 người em đến thưa với cha, ‘Thưa cha, xin chia cho con phần gia tài mà con sẽ hưởng.’ Vậy là người cha chia gia tài cho hai con. 13 Chỉ mấy ngày sau, người em khăn gói mọi tài sản lên đường đi phương xa, ở đó phung phí hết tiền bạc, mua sắm những thứ không cần thiết và tiêu xài trác táng. 14 Khi nó đã tiêu sạch hết của cải, thì có một cơn đói kém lớn lan tràn khắp xứ, khiến nó lâm vào cảnh túng quẫn. 15 Nó phải đi làm thuê cho một người dân bản xứ, người ấy sai nó ra đồng chăn heo. 16 Nó ước được ăn vỏ đậu của heo vì chẳng ai cho nó thức gì để ăn. 17 Khi đã tỉnh ngộ, nó tự nhủ: ‘Biết bao nhiêu người làm thuê cho cha mình có thức ăn dư dật còn mình ở đây thì sắp chết đói! 18 Mình sẽ rời khỏi đây để về với cha, rồi mình sẽ thưa với ông: “Thưa cha, con đã phạm tội với trời và với cha. 19 Con không xứng đáng làm con của cha nữa; xin cha hãy coi con như một người đầy tớ làm thuê cho cha vậy.’” 20 Thế rồi, người con thứ rời bỏ nơi đó mà trở về cùng cha. Khi nó còn ở đằng xa, cha nó đã nhìn thấy và động lòng thương xót, ông chạy ra ôm chầm lấy nó mà hôn. 21 Đứa con nói với cha: ‘Thưa cha, con đã phạm tội với trời và với cha. Con không xứng đáng được gọi là con của cha nữa.’ 22 Người cha nói với các đầy tớ: ‘Hãy mau đem áo tốt nhất ra mặc cho cậu, cũng hãy đeo nhẫn vào tay và mang giày vào chân cho cậu. 23 Rồi mau đi làm thịt bò con mập, chúng ta sẽ mở tiệc ăn mừng. 24 Vì con ta đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay tìm lại được.’ Và họ bắt đầu ăn mừng. 25 Lúc này, người anh từ ngoài đồng trở về. Khi về gần đến nhà, anh nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa. 26 Anh gọi một đầy tớ lại hỏi chuyện gì đang xảy ra. 27 Người đầy tớ thưa: ‘Em trai cậu đã về và cha cậu cho làm thịt bò con mập để mừng cậu ấy về nhà bình an.’ 28 Người anh liền nổi giận không muốn vào nhà, khiến cha anh phải ra khuyên dỗ. 29 Nhưng người anh thưa với cha: ‘Cha xem, suốt bao nhiêu năm nay con làm nô lệ cho cha, chưa từng cãi lời cha, vậy mà cha có bao giờ cho con một con dê con để đãi bạn bè đâu. 30 Thế mà khi con trai cha, là đứa đã phung phí tài sản của cha với phường đĩ điếm, trở về, thì cha lại cho làm thịt bò con mập để ăn mừng.’ 31 Người cha nói với anh: ‘Con ơi, con luôn ở cạnh cha, và tất cả những gì của cha là của con. 32 Nhưng rất đáng cho chúng ta mở tiệc ăn mừng vì em con đây đã chết mà nay lại sống; đã mất mà nay lại tìm được.’"
Đây là phần tiếp theo trong câu chuyện. Chúng ta không biết sự kiện này xảy ra ở đâu; đó chỉ là một ngày khi Chúa Giê-xu đang dạy dỗ.
Từ này đánh dấu khởi đầu của phần mới trong câu chuyện.
"Người nầy để cho tội nhân bước vào sự hiện diện của mình" hay "người nầy hiệp với hạng tội nhân"
Họ đang nói tới Chúa Giê-xu.
Chữ "cùng" tỏ ra rằng họ suy nghĩ điều đó đã xấu đủ khi Chúa Giê-xu để cho hạng tội nhân đến gần Ngài, nhưng còn tệ hại hơn nữa là Ngài cùng ăn với họ.
Chúa Giê-xu bắt đầu kể các câu chuyện ngụ ngôn. Câu chuyện ngụ ngôn đầu tiên là nói về người chăn và bầy chiên.
“Họ” ở đây đang chỉ về những người lãnh đạo tôn giáo.
Đây là câu hỏi hùng biện. Chúa Giê-xu đang nhắc cho dân sự nhớ rằng mếu bất kỳ ai trong số họ mất một con chiên, chắc chắn họ sẽ đi tìm con chiên ấy. Cụm từ nầy có thể được dịch như một câu nói y như trong Kinh Thánh. Một số ngôn ngữ có nhiều cách để tỏ ra rằng đây là một tình huống không phải là một câu chuyện nói về một người đặc biệt đã bị mất con chiên.
Một khi thí dụ khởi sự với "ai trong các ngươi", một số ngôn ngữ sẽ tiếp tục thí dụ với đại danh từ ngôi thứ hai "nếu các ngươi có một tram con chiên"
"100...99"
"khi chủ bầy chiên về đến nhà" hay "khi ngươi về đến nhà". Đề cập đến chủ bầy chiên y như bạn đã làm trong câu đứng trước.
"cũng một thể ấy" hay "như người chăn và bạn hữu và lân cận người sẽ vui mừng"
"mọi người ở trên trời sẽ vui mừng"
chín mươi chín kẻ công bình không cần phải ăn năn** - "chín mươi chín người, họ nghĩ rằng họ là công bình và không cần phải ăn năn". Chúa Giê-xu không nói rằng thực sự có ail à công bình hay không. Thay vì thế, Ngài đang sử dụng cách nói bằng số được gọi là châm biếm, vì Ngài đang nói với người nào cho rằng họ là công bình, nhưng họ không phải là công bình.
Chúa Giê-xu bắt đầu kể một câu chuyện ngụ ngôn khác. Câu chuyện này nói về người phụ nữ có 10 đồng bạc.
Đây là câu hỏi hùng biện. Chúa Giê-xu đang nhắc cho dân sự nhớ rằng nếu bất kỳ ai trong số họ mất một đồng bạc, chắc chắn họ sẽ kỹ càng kiếm cho kỳ được. Cụm từ nầy có thể được dịch là: “các ngươi biết rằng nếu người đàn bà có 19 đồng bạc và mất một đồng, bà ta sẽ thắp đèn lên, quét nhà và kỹ càng kiếm cho kỳ được”
Đây là một tình huống chớ không phải câu chuyện nói với một người đàn bà có thật. Một số ngôn ngữ có nhiều cách để chỉ ra điều nầy.
"cũng một thể ấy" hay "giống như người ta sẽ vui mừng với người đàn bà"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "khi một tội nhân ăn năn"
Chúa Giê-xu bắt đầu kể một chuyện ngụ ngôn khác. Câu chuyện này nói về một người thanh niên đòi cha mình chia một nửa gia tài.
Đây là phần mở đầu của thí dụ. Trong ngôn ngữ của bạn hạy giới thiệu thí dụ theo cách thật tự nhiên. Một số ngôn ngữ sẽ nói: "Có một ông kia"
Người con muốn cha mình chia phần cho nó ngay tức thì. Một số ngôn ngữ có hình thức ra lịnh cho rằng họ muốn việc ấy được thực hiện ngay tức khắc sẽ sử dụng hình thức đó.
"phần tài sản của ông mà ông đã tính chia cho tôi khi ông qua đời"
"gói ghém mọi thứ của mình" hay "cho các thứ nầy vào trong túi xách của mình"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "bằng cách tiêu xài các thứ mà nó không cần"
"Có nạn đói trầm trọng" hay "chẳng có đủ thức ăn"
Cụm từ này được dùng để đánh dấu phần ngắt trong cốt truyện chính. Ở đây Chúa Giê-xu giải thích làm sao mà đứa con hoang đàng đi từ chỗ giàu có sang chỗ túng thiếu.
"thiếu những thứ nó cần" hay "không có đủ"
Từ “nó” nói đến đứa con hoang đàng.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "làm lao động" hay "bắt đầu lao động cho"
"một người trong xứ ấy"
"cho bầy heo của ông ta ăn"
"muốn ăn nhiều thứ"
Có nhiều vỏ đậu mọc xen với cây cà rốt. Cụm từ nầy có thể được dịch là "vỏ đậu"
"đến với ý thức của mình" hay "hiểu rõ tình huống của mình" hoặc "bắt đầu suy nghĩ rõ ràng"
Đây là một phần trong sự kêu la. Cụm từ nầy có thể được dịch là "hết thảy tôi tớ thuê của cha ta còn có đủ bánh ăn".
Có lẽ đây không phải là cường điệu đâu. Chàng ta thực sự rất đói khát.
"tôi đã đặng tội với trời". Người Do thái đôi khi tránh nói từ "Đức Chúa Trời" và sử dụng từ "trời" thay vào đó.
"tôi không đáng gọi là con của cha nữa". Con có quyền hợp pháp thừa tự một phần tài sản của cha nó.
"không còn xứng đáng nữa". Ý nói rằng trong quá khứ thì anh ta xứng đáng, còn bây giờ thì không.
"xin mướn tôi như kẻ làm thuê" hay "hãy thuê tôi và tôi sẽ trở thành tôi tớ của cha"
"Vậy nó lìa xứ ấy rồi khởi sự về cùng cha mình" The word "so" means marks an event that happened because of something else that happened first. In this case, the young man was in need and had decided to go home.
"thương hại nó" hay "yêu thương nó tận đáy lòng"
Người cha đã làm điều nầy để tỏ ra cho con mình thấy rằng ông yêu thương nó và vui sướng khi con quay về nhà. Nếu người ta nghĩ rằng việc nầy là lạ lùng và không đúng cho một người ôm và hôn con mình, bạn có thể thay thế phương thức mà người ta trong xã hội của bạn tỏ ra tình cảm cho người khác. Hoặc bạn có thể dịch bao quát hơn như "tiếp rước nó thật tình cảm"
"phạm tội nghịch cùng Đức Chúa Trời"
"trước mặt cha." Tham khảo: “cha đã thấy con phạm tội” hoặc “và cha biết việc đó.”
Tham khảo: “Con không xứng đáng được cha gọi con là con”
"áo tốt nhứt trong nhà". Chiếc áo là loại áo dài mặc ngoài các áo khác. Ở những nơi mà áo dài không ai biết đến, cụm từ nầy có thể được dịch là "áo choàng tốt nhứt" hay "áo tốt nhứt"
Nhẫn là dấu hiệu quền lực mà người ta đeo trên ngón tay.
Giày là một loại giày. Ở nơi người ta không biết đến giày, cụm từ nầy có thể được dịch là "giày"
Bò con là bò tơ. Người ta sẽ dâng một trong bầy bò của mình làm đồ ăn đặc biệt khi nó đủ lớn, và khi ấy, lúc họ muốn có một bữa tiệc thịnh soạn, họ sẽ ăn nó. Cụm từ nầy có thể được dịch là "bò ngon nhất" hay "bò tơ chúng ta có thể làm nhiều món" hoặc "bò tơ chúng ta đã nuôi cho mập"
Phần thông tin ám chỉ rằng họ cần phải nướng thịt đã được làm sạch: "làm thịt và nướng thịt đi"
Đây là một ẩn dụ. Cụm từ nầy có thể được dịch như một sự ví sánh: "giống như con ta đây đã chết mà lại sống" hay "ta cảm thấy như con ta đã chết, mà nó còn sống"
Đây là một ẩn dụ. Cụm từ nầy có thể được dịch như một vì sánh: “Giống như con ta đây đã bị mất, và đã tìm lại được" hay "ta cảm thấy con ta đây đã bị mất, mà lại thấy được" hoặc "con ta đây đã bị mất mà đã trở về nhà"
Từ này được dùng để đánh dấu phần xen vào trong cốt truyện chính. Ở đây Chúa Giê-xu bắt đầu kể một phần mới trong câu chuyện về đứa con trai cả.
Từ ngữ được dịch ở đây là “đầy tớ” thường được dịch là “con trai”. Từ nầy chỉ ra rằng đầy tớ hãy còn nhỏ.
"điều gì xảy ra vậy"
Cụm từ nầy có thể được dịch là “bò tốt nhứt” hay “bò tơ chúng ta có thể làm nhiều món” hay “bò tơ chúng ta đã nuôi cho mập”
"chưa hề bất tuân mạng lịnh nào của cha" hay "luôn luôn vâng theo mọi sự cha bảo con làm”.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "vui vẻ"
"con của cha kia". Người con cả đề cập đến em của mình theo cách giận.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "phung phí tài sản với phường điếm đĩ" hay "quăng ném hết tiền bạc của cha bằng cách nuôi điếm đĩ"
Cụm từ nầy có thể được dịch là “bò tốt nhứt” hay “bò tơ chúng ta có thể làm nhiều món” hay “bò tơ chúng ta đã nuôi cho mập”
Từ “anh” chỉ về đứa con trai cả.
Người cha đang nhắc cho người anh nhớ rằng kẻ mới về nhà kia là em của nó.
Đây là một ẩn dụ. Việc rời khỏi gia đình trong một thời gian dài được sánh với việc đã chết, và việc trở về được sánh với việc được sống lại. Cụm từ nầy có thể được dịch như một sự ví sánh y như trong Kinh Thánh.
Đây là một ẩn dụ. Cụm từ nầy có thể được dịch như một vì sánh: “Giống như con ta đây đã bị mất, và đã tìm lại được" hay "ta cảm thấy con ta đây đã bị mất, mà lại thấy được" hoặc "con ta đây đã bị mất mà đã trở về nhà
Bà cẩn thận tìm kiếm cho tới khi tìm được, khi ấy vui vẻ với bạn hữu và hàng xóm của mình.
Anh ta phung phí tiền bạc vào cuộc sống hoan lạc.
Anh ta được thuê nuôi heo.
Ông chạy ra ôm hôn con mình.
Người cha ban áo, nhẫn, giày, và dọn tiệc.
Anh ta giận dữ và không chịu nhập tiệc.
Ông nói: "Con ơi, con ở cùng cha luôn, hết thảy của cha là của con.”
1 Chúa Giê-xu nói với các môn đồ rằng: “Người giàu kia có một viên quản lý bị tố cáo là phung phí tài sản của chủ. 2 Vậy, người giàu ấy cho gọi anh ta đến và nói: ‘Chuyện người ta tố cáo anh với tôi là sao đây? Hãy tường trình cho tôi công tác quản lý của anh, vì từ nay anh sẽ không được làm quản lý nữa.’ 3 Viên quản lý tự nhủ: ‘Mình phải làm gì đây, khi mà ông chủ không cho mình giữ chức quản lý nữa? Cuốc đất thì mình không đủ sức, còn đi ăn xin thì xấu hổ. 4 Mình biết phải làm gì để khi bị bãi chức sẽ có người tiếp mình vào nhà.’ 5 Thế rồi viên quản lý gọi từng con nợ của chủ đến. Anh ta hỏi người thứ nhất: ‘Anh nợ chủ tôi bao nhiêu?’ 6 Người ấy đáp: ‘Một trăm thùng dầu ô liu.’ Viên quản lý nói: ‘Lấy hóa đơn ra, ngồi xuống kia viết năm chục, nhanh lên!’ 7 Rồi anh ta nói với người khác: ‘Còn anh nợ bao nhiêu?’ Anh này đáp: ‘Một trăm bao lúa mì.’ Viên quản lý nói: ‘Lấy hóa đơn ra, viết tám chục.’ 8 Người chủ khen viên quản lý bất chính ấy về việc làm khôn lanh của anh này. Vì trong cách cư xử với người giống như mình, con cái đời này khôn khéo hơn con cái của sự sáng. 9 Thầy nói để anh em biết, hãy dùng tiền bạc bất chính mà kết bạn cho mình, để khi của cải ấy hết đi, họ sẽ tiếp anh em vào nhà đời đời. 10 Người nào trung tín trong việc rất nhỏ cũng sẽ trung tín trong việc lớn, ai bất chính trong việc rất nhỏ cũng sẽ bất chính trong việc lớn. 11 Nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng tiền bạc bất chính, thì ai dám giao cho anh em của cải thật? 12 Và nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng tiền bạc của người khác, thì ai dám giao cho anh em tiền của chính anh em? 13 Không một đầy tớ nào có thể phục vụ hai chủ, vì sẽ ghét người này mà yêu mến người kia, hoặc sẽ tận trung với người này mà xem thường người kia. Anh em không thể vừa phục vụ Đức Chúa Trời vừa làm tôi cho tiền tài được.” 14 Lúc ấy, người Pha-ri-si là những người ham tiền bạc nghe Ngài nói vậy thì cười nhạo Ngài. 15 Ngài nói với họ: “Các ông tỏ mình ra công chính trước mặt người khác, nhưng Đức Chúa Trời biết lòng các ông. Điều mà loài người xem trọng lại là điều ghê tởm trước mặt Đức Chúa Trời. 16 Luật pháp và lời tiên tri chỉ có hiệu lực đến thời của Giăng mà thôi. Từ đó trở đi, Phúc Âm về vương quốc Đức Chúa Trời đã được rao giảng, và mọi người cố chen nhau mà vào đó. 17 Nhưng trời đất qua đi còn dễ hơn là vô hiệu hóa một nét chữ trong luật pháp. 18 Người nào li hôn với vợ và đi cưới một người khác thì phạm tội ngoại tình, và người kết hôn với phụ nữ bị li hôn cũng phạm tội ngoại tình. 19 Có một người giàu mặc áo tía và vải gai mịn, hằng ngày tận hưởng cuộc sống nhung lụa. 20 Cũng có anh ăn xin tên La-xa-rơ, mình đầy ghẻ chốc, được người ta đem đặt ở cổng nhà người giàu. 21 La-xa-rơ ước ao được ăn những mẩu thức ăn thừa trên bàn người giàu rơi xuống. Lại có chó đến liếm ghẻ trên mình anh. 22 Khi anh ăn xin chết, thiên sứ đem anh đặt bên cạnh Áp-ra-ham. Người giàu cũng chết và người ta đem chôn. 23 Trong hỏa ngục, bị đau đớn, dày vò, người giàu ngước nhìn lên và thấy Áp-ra-ham ở đằng xa, còn La-xa-rơ thì dựa trên ngực người. 24 Ông ta kêu lên rằng: ‘Tổ phụ Áp-ra-ham ơi, xin thương xót con mà sai La-xa-rơ nhúng đầu ngón tay vào nước và làm cho mát lưỡi con, vì con quá thống khổ trong lửa này.’ 25 Nhưng Áp-ra-ham nói: ‘Con ơi, hãy nhớ rằng khi còn sống con đã hưởng được phần tốt của mình, còn La-xa-rơ chịu khổ nhiều rồi. Bây giờ nó được an ủi ở đây, còn con phải chịu đau đớn thôi. 26 Vả lại, có một vực thẳm rất lớn ở đây, nên người nào muốn từ đây qua đó sẽ không qua được, và ai muốn từ đó qua đây cũng vậy.’ 27 Người giàu nói: ‘Con van người, tổ phụ Áp-ra-ham ơi, xin sai anh ấy đến nhà cha con – 28 vì con có năm anh em – để cảnh báo họ, kẻo họ cũng bị xuống nơi khổ hình này.’ 29 Nhưng Áp-ra-ham nói: ‘Họ đã có Môi-se và các tiên tri; họ phải nghe theo những người ấy!’ 30 Người giàu thưa: ‘Không đâu, thưa tổ phụ Áp-ra-ham, nếu có người sống lại từ cõi chết đến với họ, họ sẽ ăn năn.’ 31 Nhưng Áp-ra-ham đáp: ‘Nếu họ không nghe lời Môi-se và các nhà tiên tri, thì dù có người chết sống lại cũng không thuyết phục được họ.’”
Chúa Giê-xu bắt đầu kể một chuyện ngụ ngôn khác. Câu chuyện này nói về người chủ và người quản lý con nợ. Câu chuyện này vẫn nằm trong câu chuyện được Chúa Giê-xu bắt đầu kể trong ngày hôm đó.
Phần sau cùng hướng vào người Pha-ri-si và các thầy thông giáo, dù môn đồ của Chúa Giê-xu là một phần trong đám dân đông đang đứng nghe.
Đây là phần khởi đầu của một câu chuyện ngụ ngôn khác.
"người ta báo cho người giàu hay"
"tan rãi của cải người" hay "xài phí tài sản của người giàu có kia"
Đây là câu hỏi hùng biện. Người giàu đang nói: "Ta đã nghe biết những gì ngươi đang làm"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "Sắp đặt mọi việc để bàn giao cho người khác" hay "Lo liệu mọi việc để giao cho" hoặc "Hãy sửa soạn các bản tường trình mà ngươi đã viết về tiền bạc của ta"
Viên quản gia hỏi câu nầy với lòng mình, như một phương tiện để ôn lại mọi điều mà mình đã làm.
Điều nầy đề cập đến người giàu. Cụm từ nầy có thể được dịch là "chủ nhân ta". Viên quản gia không phải là một nô lệ.
"Ta không đủ sức để đào đất" hay "ta không có khả năng đào đất"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "khi ta không còn làm quản gia nữa"
"những người nào có nợ với chủ mình" hay "kẻ nào mắc nợ thứ gì với chủ mình". Trong câu chuyện nầy, những kẻ mắc nợ đều nợ dầu ôlive hay nợ lúa.
“kẻ mắc nợ nói...quản gia nói với kẻ mắc nợ”
"khoảng 3.400 lít dầu ôlive"
"100...50...80"
"khoảng 22.000 lít lúa khô"
"viên quản lý nói với con nợ khác…Con nợ nói…Người quản lý nói với con nợ.”
Chúa Giê-xu kết thúc câu chuyện ẩn dụ về viên quản gia và những kẻ mắc nợ. Trong câu 9, Chúa Giê-xu tiếp tục dạy cho các môn đồ của Ngài.
Những kẻ mắc nợ, viên quản gia đã hạ thấp nợ của họ, có lẽ họ nghĩ rằng chủ đã ra lệnh cho quản gia hạ thấp nợ cho họ.
"ngợi khen" hay "nói tốt cho" hoặc "tán thưởng"
"người đã xử sự rất khéo léo" hay "người đã làm một việc rất nhạy bén"
Điều nầy đề cập đến những kẻ giống viên quản gia bất nghĩa, họ chẳng nhìn biết hay quan tâm chi đến Đức Chúa Trời. Cụm từ nầy có thể được dịch là "hạng người của đời nầy" hay "người thế gian"
Điều nầy đề cập đến hạng người công bình chẳng có gì để che giấu. Cụm từ nầy có thể được dịch là "người sáng láng" hay "người nào sống trong sự sáng”.
"Ta" đề cập đến Chúa Giê-xu. Chúa Giê-xu đã thuật xong câu chuyện của Ngài. Cụm từ "ta nói coh các ngươi" đánh dấu sự thay đổi của Ngài báo cho dân sự biết phải áp dụng ra sao việc ấy vào đời sống của họ.
Điều nầy đề cập đến thiên đàng, nơi Đức Chúa Trời ngự.
Đây là câu hỏi hùng biện. Cụm từ nầy có thể được dịch là "không ai tin cậy ngươi với sự giàu có thật" hay "không một ai ban cho ngươi sự giàu có thật để quản lý"
Đây cũng là câu hỏi hùng biện. Cụm từ nầy có thể được dịch là "không một ai cung ứng cho ngươi sự giàu có cho riêng mình"
Đây là phần xen vào trong những lời dạy của Chúa Giê-xu, vì câu 14 đưa ra thông tin bối cảnh về cách người Pha-ri-si nhạo bang Chúa Giê-xu. Trong câu 15, Chúa Giê-xu tiếp tục dạy dỗ và trả lời người Pha-ri-si.
Cụm từ nầy cũng có thể được dịch là "một đầy tớ không thể"
"đầy tớ sẽ ghét"
"tận hiến" hay "trung thành"
"xem khinh người kia" hay "nhạo báng người nọ" hoặc "ghét chủ kia"
Chúa Giê-xu đang nói với một nhóm người, vì vậy một số ngôn ngữ có hình thức “you” [các ngươi] số nhiều sẽ sử dụng ngôn ngữ ấy.
"làm nô lệ cho"
Từ này đánh dấu phần chuyển đổi qua thông tin bối cảnh.
"kẻ yêu mến tiền bạc" hay "kẻ ưa thích việc có tiền" hoặc "kẻ tham lam tiền bạc"
Cụm từ nầy cũng có thể được dịch là "người Pha-ri-si chế nhạo Chúa Giê-xu"
"Chúa Giê-xu phán cùng người Pha-ri-si"
"các ngươi tìm cách làm cho người ta thấy mình tốt"
"Đức Chúa Trời bốn hiểu rõ mọi ước muốn của các ngươi" hay "Đức Chúa Trời biết mọi động lực của ngươi"
Cụm từ nầy cũng có thể được dịch là "những việc mà người ta nghĩ là rất quan trọng"
Cụm từ nầy cũng có thể được dịch là "Đức Chúa Trời ghét" hay "là những việc mà Đức Chúa Trời ghét"
Điều nầy đề cập đến hết thảy lời của Đức Chúa Trời đã được viết ra cho tới thời điểm đó.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "Giăng Báptít đã đến và đã giảng đạo"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "chúng ta đang dạy dỗ cho dân sự biết về Tin lành nói tới nước của Đức Chúa Trời"
Cụm từ nầy có thể được dịch là “nhiều người đang làm mọi sự họ có thể để vào đó”. Điều nầy đề cập đến những người nào đang lắng nghe và tiếp nhận sự dạy của Chúa Giê-xu.
“giống như các ngươi biết rằng trời đất không dễ qua đi, các ngươi dám chắc về sự ấy”
"phần nhỏ nhất của một chữ". Cụm từ nầy có thể được dịch là "chi tiết nhỏ nhất của luật pháp"
"bất kỳ ai ly dị với vợ mình" hay "bất kỳ người nào ly dị vợ mình" hoặc "nếu một người ly dị vợ mình"
"là tội tà dâm"
"bất kỳ người nào cưới một người đàn bà" hay "nếu một người cưới một người đàn bà"
Khi Chúa Giê-xu tiếp tục dạy dỗ dân chúng, Ngài bắt đầu kể một câu chuyện về người giàu và La-xa-rơ.
Các câu này chứa thông tin bối cảnh về câu chuyện Chúa Giê-xu bắt đầu kể về người giàu và La-xa-rơ.
Từ này đánh dấu sự chuyển đổi trong lời Chúa Giê-xu nói khi Ngài bắt đầu kể một câu chuyện để giúp người ta hiểu lời Ngài dạy.
Không rõ người nầy có thật không, hay chỉ là câu chuyện mà Chúa Giê-xu đã kể lại hầu đứa ra một quan điểm.
"có người mặc áo tía và vải gai mịn" hay "người ấy mặc quần áo rất đắt tiền". Áo tía và vải gai mịn rất đắt tiền.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "tiệc tùng mỗi ngày" hay "thưởng thức bằng cách ăn đồ ăn đắt tiền mỗi ngày" hoặc "chi nhiều tiền mua bất cứ thứ chi người ấy muốn"
"người ta đem đặt gã ăn mày tên là Laxarơ nơi cổng nhà người"
Cụm từ này giới thiệu một người mới trong câu chuyện của Chúa Giê-xu. Không rõ liệu đây là người thật, hay chỉ là câu chuyện mà Chúa Giê-xu kể để đưa ra điểm dạy dỗ của Ngài không.
"nơi cổng nhà người giàu kia" hay "nơi lối vào dinh thự của người giàu đó"
"với ghẻ khắp người"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "những mẫu vụn thức ăn tình cờ rơi xuống từ bàn của người giàu khi ông ta đang ăn" hay "phần thức ăn thừa bị quăng xuống từ bàn của người nhà giàu kia"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "thêm vào với việc ấy" hay "thậm chí". Điều nầy tỏ ra rằng những gì nối theo sau còn tệ hại hơn điều chi đã tường thuật lại về Laxarơ.
Chó là loài vật không sạch. Laxarơ quá đau ốm không ngăn nổi mấy con chó đến liếm vết thương của ông.
Từ nầy được sử dụng ở đây để đánh dấu phần mở đầu chi tiết mới của câu chuyện. Nếu ngôn ngữ của bạn có cách thức để làm công việc nầy, bạn có thể xem xét sử dụng nó ở đây.
"và thiên sứ đặt Laxarơ nơi ngực của Áp-ra-ham"
Rõ ràng Áp-ra-ham và Laxarơ đang tựa vào nhau tại một bữa tiệc, và đầu của Laxarơ ở gần với ngực của Áp-ra-ham. Đây là phong cách tiệc tùng của Hi-lạp dành coh khách mời. Cụm từ nầy cũng có thể được dịch là "bên hông Áp-ra-ham" hay "kế bên Áp-ra-ham" hoặc "tựa gần Áp-ra-ham" hay "ngồi kế Áp-ra-ham".
Tham khảo: “và người ta chôn ông”
Tham khảo: “và ông xuống hỏa ngục, tại đó chịu đau đớn kinh khiếp”
Đây là một ẩn dụ ý nói "ông ta nhìn lên"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "còn Laxarơ đang dựa kề bên Áp-ra-ham" hay "còn Laxarơ đang ngồi gần Áp-ra-ham" hoặc "và Laxarơ với Áp-ra-ham"
"và người giàu kêu lên rằng" hay "ông ta kêu la với Áp-ra-ham"
Áp-ra-ham là tổ phụ của người giàu.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "làm ơn thương hại tôi", hay "làm ơn thương xót tôi"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "bằng cách sai Laxarơ" hay "làm ơn sai Laxarơ dùm tôi" hoặc "xin bảo Laxarơ đến với tôi"
Điều nầy cho thấy lượng yêu cầu nhỏ nhất. Cụm từ nầy có thể được dịch là "người ấy nhúng ướt ngón tay mình"
"tôi đang ở trong khổ sở kinh khủng với ngọn lửa nầy" hay "tôi khổ sở lắm trong ngọn lửa nầy"
Người giàu cũng là một trong các dòng dõi của Áp-ra-ham.
"những việc tốt đẹp" hay "những thứ vui thích"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "nhận được những việc xấu" hoặc "nhận lãnh những thứ khiến coh người phải khốn khổ"
Tham khảo: “người được an ủi ở đây” hoặc “người hạnh phúc ở đây” (UDB)
"đau đớn gay gắt"
"Ngoài ra"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "Đức Chúa Trời đã đặt một vực sâu giữa ngươi và chúng ta".
"một trũng sâu và rộng" hay "một sự phân cách to lớn" hoặc "cái vực khổng lồ"
"người nào muốn băng qua vực ấy" hay "nếu có ai muốn băng qua"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "xin ông bảo Laxarơ đến nhà cha tôi" hoặc "làm ơn, sai Laxarơ đến nhà cha tôi"
"gia đình tôi". Có lẽ điều nầy không đề cập đến ngôi nhà thuộc thể. Người giàu muốn Laxarơ đến cảnh báo các thành viên trong gia đình mình, dù họ không sống trong cùng ngôi nhà của cha ông ta.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "hãy bảo Laxarơ đến cảnh cáo họ"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "hầu cho họ cũng đừng xuống đây" hay "nếu họ không bị cảnh báo, họ sẽ xuống đây". Một khi điều nầy ám chỉ rằng cách thức họ tránh không xuống đây là do ăn năn, phần thông tin nầy có thể làm cho rõ ràng, như trong câu "đặng họ ăn năn mà đừng xuống đấy"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "chỗ nầy là chỗ chúng tôi chịu khổ ải" hay "chốn nầy là chỗ chúng tôi chịu khổ sở kinh khiếp lắm" hoặc "chỗ nầy là chốn chúng tôi bị dày xéo"
Chúa Giê-xu kết thúc kể câu chuyện về người giàu và La-xa-rơ.
"anh em ngươi đang có những gì Môi-se và các đấng tiên tri đã viết". Cụm từ nầy cũng có thể được dịch là "họ đã nghe những gì Môi-se và các đấng tiên tri đã viết"
"Các anh em của ngươi phải chú ý đến Môi-se và các đấng tiên tri"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "nếu có người nào đã chết đến cùng họ" hoặc "nếu có ai đã chết đến mà cảnh tỉnh họ"
"nếu họ không chú ý đến những gì Môi-se và các đấng tiên tri đã chép"
Tham khảo: “dù có người sống lại từ cõi chết cũng không thể thuyết phục được họ” hoặc “họ sẽ không tin ngay cả nếu có người sống lại từ cõi chết”
Người nghe nói rằng viên quản gia đã tiêu phá gia tài của người giàu.
Ông ta gọi từng người mắc nợ người giàu kia rồi giảm nợ của họ.
Người khen ngợi viên quản gia vì ông ta đã hành động rất lanh lợi.
Người cũng sẽ trung tín với việc lớn.
Chúng ta phải chọn giữa Đức Chúa Trời và sự giàu có.
Luật pháp và lời tiên tri đang có hiệu lực.
Tin lành về Nước của Đức Chúa Trời giờ đây đang được rao giảng.
Người nầy là một kẻ tà dâm.
Được yên ủi bên cạnh Áp-ra-ham.
Ông ta nói: "Làm ơn sai La-xa-rơ nhúng đầu ngón tay vào nước đặng làm cho mát lưỡi tôi; vì tôi bị khổ trong lửa nầy quá đỗi”.
Được yên ủi bên cạnh Áp-ra-ham.
Ông ta nói: "Làm ơn sai La-xa-rơ đến cảnh cáo mấy người em của tôi về chỗ nầy”.
Ông nói: "Họ đã có Môi-se và các đấng tiên tri; họ phải nghe theo lời các đấng ấy”.
1 Chúa Giê-xu nói với các môn đồ: “Chắc chắn sẽ có cớ gây cho chúng ta phạm tội, nhưng khốn cho kẻ nào tạo ra cớ đó! 2 Thà cột cối đá vào cổ nó mà ném nó xuống biển còn hơn để nó gây cho một trong những đứa trẻ này vấp phạm. 3 Hãy cẩn thận. Nếu anh em mình phạm tội, hãy khiển trách người ấy, và nếu người ấy ăn năn, hãy tha thứ. 4 Dù người ấy phạm lỗi với anh em đến bảy lần trong ngày, và bảy lần trở lại nói với anh em: ‘Tôi ăn năn,’ thì anh em cũng phải tha thứ cho họ!” 5 Các sứ đồ thưa với Chúa: “Xin thêm đức tin cho chúng tôi.” 6 Chúa đáp: “Nếu anh em có đức tin chỉ bằng hạt cải thôi, thì anh em có thể nói với cây sung dâu này rằng: ‘Hãy tự bứng lên và xuống mọc dưới biển,’ thì nó sẽ vâng lời anh em. 7 Ai trong anh em có đầy tớ đi cày ruộng hay chăn chiên từ ngoài đồng trở về mà lại đi bảo nó: ‘Hãy lại đây và ngồi xuống ăn đi’? 8 Chẳng phải anh em sẽ nói với nó: ‘Hãy dọn thức ăn cho ta, thắt lưng phục vụ ta cho đến khi ta ăn uống xong, rồi anh mới được ăn uống’ hay sao? 9 Người ấy chẳng cần cám ơn anh đầy tớ vì đã làm những việc được dặn bảo, đúng không? 10 Anh em cũng vậy, khi hoàn thành việc được giao cho làm thì anh em phải nói rằng: ‘Chúng tôi là những đầy tớ chẳng có công trạng gì. Chúng tôi chỉ làm những việc phải làm.’” 11 Trên đường đến thành Giê-ru-sa-lem, Chúa Giê-xu đi qua vùng giáp ranh giữa Sa-ma-ri và Ga-li-lê. 12 Khi Ngài vào một thành nọ có mười người mắc bệnh phong hủi ra đón Ngài. 13 Họ đứng ở đằng xa mà kêu lên rằng: “Ôi Giê-xu, lạy Thầy, xin thương xót chúng tôi.” 14 Nhìn thấy họ, Chúa Giê-xu nói: “Hãy đi trình diện với các thầy tế lễ.” Khi họ đang đi thì được sạch. 15 Một trong những người ấy thấy mình đã được lành liền quay trở lại, lớn tiếng tôn vinh Đức Chúa Trời. 16 Anh phủ phục dưới chân Chúa Giê-xu mà cảm tạ Ngài. Đó là một người Sa-ma-ri. 17 Chúa Giê-xu đáp lại: “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Chín người kia đâu? 18 Bộ chẳng có ai quay lại tôn vinh Đức Chúa Trời ngoại trừ người ngoại quốc này à?” 19 Rồi Ngài nói với người Sa-ma-ri ấy: “Hãy đứng dậy đi đi. Đức tin của anh đã chữa lành anh.” 20 Những người Pha-ri-si hỏi Chúa khi nào vương quốc Đức Chúa Trời sẽ đến, Ngài trả lời họ rằng: “Vương quốc Đức Chúa Trời không phải là điều người ta có thể thấy được. 21 Họ không thể nói rằng: ‘Nó ở đây!’ hay ‘Nó ở đó!’ vì vương quốc Đức Chúa Trời ở ngay giữa các ông.” 22 Chúa Giê-xu nói với các môn đồ: “Sẽ có ngày anh em ước ao được thấy một ngày của Con Người thôi, nhưng không thể thấy được. 23 Người ta sẽ nói với anh em: ‘Kìa Ngài ở đằng kia! Kìa Ngài ở đây!’ Nhưng anh em đừng đi xem, cũng đừng theo họ, 24 vì như ánh chớp phát ra khi lóe lên từ phương trời này đến phương trời kia, thì Con Người cũng sẽ hiện ra như vậy trong ngày của Ngài. 25 Nhưng trước hết Ngài phải chịu nhiều khổ nạn và bị thế hệ này chối bỏ. 26 Trong thời Nô-ê việc xảy ra thế nào thì trong thời kỳ của Con Người cũng như vậy. 27 Người ta ăn, uống, cưới gả cho đến ngày Nô-ê vào tàu – nước lụt tràn đến hủy diệt tất cả. 28 Tương tự, như việc xảy ra trong thời của Lót, người ta ăn, uống, mua, bán, gieo trồng, xây cất. 29 Đến ngày Lót ra khỏi Sô-đôm, thì mưa lửa và diêm sinh từ trời giáng xuống thiêu hủy tất cả. 30 Trong ngày Con Người hiện ra cũng sẽ như vậy. 31 Trong ngày đó, ai ở trên mái nhà thì đừng xuống mà lấy tài sản. Ai đang ở ngoài đồng thì đừng trở về. 32 Hãy nhớ lại vợ của Lót. 33 Người nào cố giành lấy sự sống mình thì sẽ mất, nhưng ai chịu mất sự sống mình thì sẽ cứu được nó. 34 Thầy nói để anh em biết, trong đêm ấy, hai người nằm chung một giường, sẽ có một người được đem đi, còn người kia bị bỏ lại. 35 Sẽ có hai phụ nữ cùng xay cối, một người được đem đi, còn người kia bị bỏ lại. 36[1]37 Họ hỏi Ngài: “Lạy Chúa, điều đó xảy ra ở đâu?” Ngài đáp: “Xác chết ở đâu, kên kên bâu lại ở đó.”
Chúa Giê-xu tiếp tục dạy dỗ, nhưng Ngài hướng sự tập trung về phía các môn đồ.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "những việc khiến cho người ta phạm tội chắc chắn xảy đến" hay "thật là khó ngăn sự cám dổ đừng xảy đến" hoặc "thật là khó ngăn chặn những việc khiến co người ta phải phạm tội"
"cho kẻ tạo ra sự cám dỗ xảy đến" hay "cho bất kỳ người nào khiến cho người ta rơi vào cám dỗ"
Cụm từ nầy có thể được dịch với mệnh để chủ động: "nếu họ cột cối đá quanh cổ nó rồi quăng nó" hay "nếu ai đó cột một hòn đá nặng quanh cổ nó rồi quăng nó"
đây là một hòn đá rất lớn, rất nặng được sử dụng để xay gạo thành bột. Cụm từ nầy có thể được dịch là "một hòn đá thật nặng"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "bầy nhỏ" hay "số người nầy có đức tin rất nhỏ"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "phạm tội"
Đây là câu nói có điều kiện, nó nói tới một sự cố có lẽ sẽ xảy ra trong tương lai.
Cụm từ nầy bình thường gồm có "tín hữu anh em ngươi" cũng là "anh em" sanh cùng cha cùng mẹ.
"cảnh cáo họ cách mạnh mẽ" hay "nói với người ấy thật quả quyết rằng những gì người làm là sai trái" hay "hãy chỉnh đốn người"
Đây là tình huống trong tương lai. Có thể việc sẽ không xảy ra, nhưng nếu nó xảy ra, Chúa Giê-xu bảo người ta phải tha thứ.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "nhiều lần trong một ngày". Con số 7 trong Kinh Thánh là một biểu tượng nói tới sự trọn vẹn.
Đây là phần xen ngắn trong lời dạy của Chúa Giê-xu khi các môn đồ nói với Ngài. Sau đó Chúa Giê-xu tiếp tục dạy dỗ.
"xin thêm đức tin cho chúng tôi" hay "làm ơn thêm đức tin cho đức tin của chúng tôi"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "nếu ngươi có đức tin thậm chí nhỏ như hột cải" hay "nếu đức tin của ngươi duy nhứt to như hột cải, song chẳng phải vậy". Cấu trúc của cụm từ ám chỉ rằng thực sự họ không có đức tin thậm chí kích cở của một hột cải.
“cây dâu [vả]”. Cây nầy cho trái nhỏ mà tròn khoảng 2, 5 cm đường kính. Cụm từ nầy có thể được dịch đơn giãn là “cây vả” hay “một cây”
Cụm từ nầy có thể được dịch là "tự ngươi hãy nhổ nó và đem trồng dưới biển" hay "hãy nhổ rễ ngươi khỏi đất, rồi đặt rễ ngươi xuống dưới biển"
"cây sẽ vâng theo ngươi". Kết quả nầy là có điều kiện. Việc sẽ xảy ra một khi họ có đức tin.
Chúa Giê-xu đang hỏi một nhóm người về việc kẻ nào đó trong số họ phải làm gì nếu tình huống nhất định kia xảy ra. Cụm từ nầy có thể được dịch là "những ai trong các ngươi, nếu các ngươi có đầy tớ"
"đầy tớ cày ruộng của các ngươi hoặc chăn bầy của các ngươi"
Đây là câu hỏi hùng biện. Cụm từ nầy có thể được dịch là "nhưng thay vì thế ngươi sẽ biểu nó" hay "thay vì thế, đây là những gì các ngươi sẽ bảo hắn"
"cột lại áo xống các ngươi rồi hầu việc ta" hay "ăn mặc cho đàng hoàng rồi phục vụ ta". Người ta sẽ thắt lưng họ cho kỹ càng để áo xống của họ không cảm trở lúc họ phục vụ.
"sau khi các ngươi phục vụ ta"
Chúa Giê-xu kết thúc phần dạy dỗ. Đây là phần cuối trong câu chuyện.
Nương theo cách bạn dịch hai câu đứng trước, cụm từ nầy có thể được dịch là "chủ sẽ không cảm ơn" hay "ngươi sẽ không biết ơn"
"những việc các ngươi truyền cho hắn phải làm"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "đúng không?" hay "việc nầy không thật sao?" Với câu hỏi hùng biện nầy, Chúa Giê-xu đang khích lệ các môn đồ Ngài công nhận rằng những gì Ngài đang phán dạy rõ ràng là sự thật.
Chúa Giê-xu đang phán cùng các môn đồ Ngài, vì vậy ngôn ngữ có hình thức [you] số nhiều.
"nên thưa với Đức Chúa Trời"
"nên nói với Đức Chúa Trời"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "Chúng tôi là hạng tôi tớ tầm thường" hay "chúng tôi đầy tớ làm không xứng đáng với sự ngợi khen của Ngài"
Đây là phần tiếp theo trong câu chuyện. Chúa Giê-xu chữa lành 10 người phung. Câu 11 và 12 đưa ra thông tin bối cảnh và diễn biến trong câu chuyện.
Cụm từ nầy được sử dụng ở đây để đánh dấu phần mở đầu chi tiết mới của câu chuyện. Nếu ngôn ngữ của bạn có cách thức để làm công việc nầy, bạn có thể xem xét sử dụng nó ở đây.
"khi họ đang lên thành Giê-ru-sa-lem"
Cụm từ nầy có thể được dịch với một động từ chủ động: "10 người phung đón Ngài" hay "10 người có bịnh phung gặp Ngài"
Cụm từ nầy ý nói: "họ kêu cầu với giọng lớn tiếng" hay "họ kêu la lớn tiếng"
Chữ được dịch ở đây là “Thầy” không phải là chữ bình thường nói tới “Thầy”. Chữ nầy đề cập đến một nhân vật có thẩm quyền, chớ không đề cập đến một người làm chủ người khác. Bạn cũng có thể dịch từ nầy là "Chủ" hay "Chủ nhân" hay với một từ thường được sử dụng để nói tới kẻ có quyền, tỉ như “Ngài”.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "làm ơn tỏ ra cho chúng tôi sự thương xót bằng cách chữa lành cho chúng tôi"
Phần thông tin ám chỉ: "để họ khán các ngươi" được nói ra cách rõ ràng.
Cụm từ nầy được sử dụng ở đây để đánh dấu một sự kiện quan trọng trong câu chuyện. Nếu ngôn ngữ của bạn có cách thức để làm công việc nầy, bạn có thể xem xét sử dụng nó ở đây.
Đây là sự kiện quan trọng được đánh dấu bằng cụm từ "đang đi". Cụm từ nầy có thể được dịch là "họ được sạch khi họ được chữa lành bịnh phung" hay "họ được chữa lành bịnh phung của họ"
"nhận ra mình đã được lành" hay "nhận ra Chúa Giê-xu đã chữa lành"
"người ấy trở lại với Chúa Giê-xu"
"và tôn vinh Đức Chúa Trời cách lớn tiếng"
"người ấy quì gối xuống rồi úp mặt mình sát nơi chơn Chúa Giê-xu". Người đã làm điều nầy để tôn vinh Chúa Giê-xu.
Đây là phần cuối trong câu chuyện về việc Chúa Giê-xu chữa lành mười người phung.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "Vì vậy, Chúa Giê-xu phán cùng đám dân đông". Chúa Giê-xu đáp lại những gì người kia đã nói, nhưng Ngài đang phán cùng nhóm người đứng xung quanh Ngài.
Đây là câu hỏi thứ nhứt trong loạt câu hỏi hùng biện. Chúa Giê-xu đã sử dụng chúng để tỏ ra cho dân sự ở chung quanh Ngài thấy Ngài rất đỗi ngạc nhiên và thất vọng khi chỉ có một trong số 10 người trở lại tôn vinh Đức Chúa Trời. Cụm từ nầy có thể được dịch là “10 người đã được lành" hay "Đức Chúa Trời đã chữa lành 10 người"
Câu hỏi hùng biện nầy có thể được dịch là "Chín người cũng nên quay trở lại" hay "tại sao chín người kia không quay lại?"
Câu hỏi hùng biện nầy có thể được dịch là "không một ai trừ ra người ngoại quốc nầy trở lại để dâng lợi ngợi khen Đức Chúa Trời" hay "10 người đã được lành, tuy nhiên chỉ có người ngoại quốc nầy trở lại để dâng sự vinh hiển cho Đức Chúa Trời" hoặc "có thật là chẳng có ai trừ ra người ngoại quốc nầy quay trở lại để dâng lời ngợi khen cho Đức Chúa Trời sao?"
người Samari vốn có tổ phụ không phải là người Do thái và họ không thờ lạy Đức Chúa Trời theo cùng một phương thức mà người Do thái đã làm.
“vì cớ đức tin của các ngươi, các ngươi đã được lành”. Ý tưởng nói tới “đức tin” có thể được dịch với một động từ: “vì ngươi tin, ngươi đã được lành”.
Đây là phần tiếp theo trong câu chuyện. Chúng ta không biết sự việc này xảy ra tại đâu; đơn giản đó là một ngày khi Chúa Giê-xu đang nói chuyện với người Pha-ri-si.
Tham khảo: “Người Pha-ri-si hỏi Chúa Giê-xu, ‘Khi nào nước Đức Chúa Trời sẽ đến?’”
Đây là mở đầu của phần mới trong câu chuyện. Một số bản dịch bắt đầu bằng “Một ngày nọ” (UDB) hoặc “Có lần nọ”.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "mặc dù các ngươi tìm kiếm nước Đức Chúa Trời, các ngươi sẽ không nhìn thấy nước ấy". Họ sẽ chẳng nhìn thấy Chúa Giê-xu đã có mặt giữa vòng họ là vua vì họ đang tìm kiếm một nước theo đời nầy.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "nước của Đức Chúa Trời hiện đang ở đây" hay "Đức Chúa Trời đã khởi sự cai trị giữa các ngươi rồi"
Chúa Giê-xu bắt đầu dạy dỗ các môn đồ Ngài.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "một thời điểm sẽ đến" hay "một ngày kia"
"các ngươi sẽ muốn nhìn thấy rất nhiều" hay "các ngươi muốn có kinh nghiệm". Các môn đồ Ngài đã mong muốn nhìn thấy Ngài trị vì rồi. Nhưng các thời điểm bắt bớ sẽ đến và họ sẽ muốn Ngài trị vì rồi.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "một trong những ngày nầy khi Con Người sẽ trị vì làm vua"
"và đừng theo họ"
Đây là một sự ví sánh. Cụm từ nầy có thể được dịch là "vì như chớp nhoáng mọi người đều thấy được khi nó xẹt ra" hay "vì khi chớp nhoáng loè ra cách thình lình"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "việc giống như nhằm vào ngày mà Con Người đến để trị vì"
"Nhưng Ngài trước phải chịu đau đớn nhiều". Chúa Giê-xu đang phán về chính mình Ngài ở ngôi thứ ba.
Tham khảo: “và thế hệ này phải chối bỏ Ngài”
Cụm từ nầy có thể được dịch là "như người ta sinh sống trong thời của Nô-ê" hay "như người ta đã sống khi Nô-ê còn sống". "Đời Nô-ê" đề cập đến thời điểm ngay trước khi Đức Chúa Trời phán xét dân sự thế gian.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "người ta sẽ làm y những việc ấy trong thời của Con Người" hay "người ta sẽ làm y những việc ấy lúc Con Người sắp sửa hiện đến". "Thời của Con Người đề cập đến thời kỳ ngay trước khi Con Người sẽ hiện đến”.
người ta đang sinh hoạt bình thường. Họ không quan tâm việc Đức Chúa Trời sắp sửa phán xét họ.
Tham khảo: “cha mẹ cho phép con gái cưới chồng”
"tàu" hay "thuyền"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "trường hợp khác, cũng như trong đời Lót" hay “như người ta sinh hoạt trong đời Lót”. “Đời Lót” đề cập đến thời điểm ngay trước khi Đức Chúa Trời sửa phạt hai thành Sô-đ6m và Gô-mô-rơ.
"dân sự Sô-đôm ăn"
"lửa và diêm cháy rời từ trời xuống như mưa"
Cụm từ nầy ý nói "sẽ giống y như thế". Sự thể trong đời Lót có thể được nói rõ ràng trong Kinh Thánh: "người ta không sửa soạn"
"khi Con Người xuất hiện" hay "khi Con Người hiện đến"
“ai đang ở trên mái nhà, đừng xuống” hay “nếu ai đang ở trên mái nhà, người ấy đừng xuống”
Mái nhà của họ thì bằng phẳng và người ta có thể ngồi trên đó.
"của cải của người" hay "đồ đạt của người"
Phần thông tin ám chỉ rằng họ không nên quay về nhà để lấy đồ và họ phái trốn tránh cho nhanh có thể được trình bày rõ rang trong Kinh Thánh.
Đây là một lời cảnh cáo. Cụm từ nầy có thể được dịch là "Đừng làm theo những gì vợ của Lót đã làm". Bà đã ngó lại đang sau về hướng thành Sô-đôm rồi bị phạt cùng với dân cư thành Sô-đôm.
"Người nào tìm ácch cứu mạng sống mình sẽ mất chúng" hay "người nào tìm cách cứu đường lối sống cũ của mình sẽ mất mạng sống mình"
"nhưng người nào mấy sự sống mình sẽ cứu được chúng" hay "nhưng hễ ai từ bỏ đường lối sống cũ của mình sẽ cứu được mạng sống mình"
Chúa Giê-xu lại nói với những người nghe Ngài, khi Ngài đang nói với họ, để nhấn mạnh tầm quan trọng của lời Ngài đang nói.
Cụm từ nầy đề cập đến những gì sẽ xảy ra nếu Con Người đến trong ban đêm.
Đây là một tình huống giả định về hai người đang làm việc lúc bấy giờ. Cụm từ nầy có thể được dịch là "sẽ có hai người trên cái giường"
"giường ngủ" hay “cũi”
"một người sẽ bị đem đi còn một người bị để lại đàng sau". Tham khảo cách dịch: "Đức Chúa Trời sẽ đem một người đi và để lại một người", hay "thiên sứ sẽ đem người nầy đi còn để người kia lại"
Đây là một tình huống giả định về những gì hai người đàn bà cùng làm lúc bấy giờ. Tham khảo cách dịch: "sẽ có hai người đàn bà xây chung cối"
Ngài bảo họ đi tỏ mình cùng thầy tế lễ.
Họ được sạch.
Ngài phải chịu khổ nhiều điều và bị chối bỏ bởi thế hệ ấy.
Chúng ta không xây lại đối với của cải đời nầy vào ngày ấy, giống như bà Lót đã xây lại và bị huỷ diệt.
1 Rồi Ngài kể cho họ một ẩn dụ để cho họ thấy cần phải cầu nguyện luôn, và đừng nản lòng. 2 Ngài nói: “Tại một thành phố kia có một vị quan án không kính sợ Đức Chúa Trời và ông cũng chẳng vị nể người ta. 3 Trong thành ấy có một góa phụ cứ đến tìm vị quan án này và nói: ‘Xin ngài giúp phân xử công minh giữa tôi và kẻ nghịch cùng tôi.’ 4 Trong một thời gian dài vị quan án không muốn giúp bà, nhưng sau đó, ông thầm nhủ: ‘Dù ta không kính sợ Đức Chúa Trời, cũng chẳng vị nể ai cả, 5 nhưng góa phụ này cứ tới làm phiền ta, nên ta sẽ giúp lấy lại công bằng cho bà ấy, để bà ấy đừng tới lui mãi làm ta mỏi mệt.’” 6 Rồi Ngài nói: “Thử nghe lời vị quan án bất công ấy nói mà xem. 7 Chẳng lẽ Đức Chúa Trời không xét lẽ công bằng cho những người được chọn của Ngài, là những người ngày đêm kêu xin Ngài sao? Lẽ nào Ngài không kiên nhẫn với họ? 8 Thầy nói để anh em biết, Ngài sẽ nhanh chóng xét lẽ công bằng cho họ. Nhưng khi Con Người đến, liệu Ngài có còn thấy đức tin trên đất chăng?” 9 Rồi Ngài kể ẩn dụ này cho những người tự cho mình là công bình mà xem thường người khác: 10 “Có hai người lên đền thờ cầu nguyện – một người Pha-ri-si và một người thu thuế. 11 Người Pha-ri-si đứng cầu nguyện về mình thế này: ‘Lạy Đức Chúa Trời, con cảm tạ Ngài vì con không giống kẻ khác, tức kẻ trộm cắp, bất chính, phạm tội ngoại tình, cũng không như người thu thuế này. 12 Con kiêng ăn mỗi tuần hai lần, dâng phần mười mọi thứ lợi tức con kiếm được.’ 13 Nhưng người thu thuế đứng đằng xa, không dám ngước mắt lên trời, đấm ngực thưa rằng: ‘Lạy Đức Chúa Trời, xin thương xót con, là tội nhân.’ 14 Thầy nói để anh em biết, người này khi trở về nhà mình được xưng công chính chứ không phải người kia, vì ai tự tôn mình lên sẽ bị hạ xuống còn ai tự hạ mình xuống sẽ được tôn lên.” 15 Dân chúng cũng đem những trẻ nhỏ đến với Chúa để Ngài đặt tay trên chúng, nhưng các môn đồ thấy vậy thì trách họ. 16 Chúa Giê-xu gọi các môn đệ đến và nói rằng: “Hãy để con trẻ đến với Thầy, đừng cấm chúng nó. Vì vương quốc Đức Chúa Trời thuộc về những người giống như chúng vậy. 17 Thật, Thầy nói để anh em biết, người nào không tiếp nhận vương quốc Đức Chúa Trời như một đứa trẻ chắc chắn sẽ không được vào vương quốc ấy.” 18 Có một viên quan hỏi Chúa Giê-xu: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được hưởng sự sống đời đời?” 19 Chúa Giê-xu đáp: “Sao anh gọi tôi là nhân lành? Ngoài Đức Chúa Trời ra, chẳng có ai là nhân lành cả. 20 Anh hẵn biết các điều răn – con đừng phạm tội ngoại tình, đừng giết người, đừng trộm cướp, đừng làm chứng dối, hãy tôn kính cha mẹ.” 21 Viên quan thưa: “Tôi đã tuân thủ các điều răn ấy từ khi còn nhỏ.” 22 Nghe vậy, Chúa Giê-xu nói với anh: “Anh còn thiếu một điều Anh phải bán hết những gì mình có mà phân phát cho người nghèo, thì anh sẽ có của cải trên trời – rồi hãy đến mà theo tôi.” 23 Nhưng khi người giàu có này nghe như vậy, thì buồn lắm vì anh ta rất giàu. 24 Chúa Giê-xu nhìn anh buồn bã nói: “Người giàu vào vương quốc Đức Chúa Trời mới khó làm sao! 25 Lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn một người giàu vào vương quốc Đức Chúa Trời.” 26 Những người nghe Ngài nói vậy thì bảo: “Vậy thì ai được cứu?” 27 Chúa Giê-xu đáp: “Những việc con người không thể làm được thì Đức Chúa Trời làm được cả.” 28 Phi-e-rơ thưa: “Chúng tôi đã bỏ hết mọi thứ mình có mà theo Thầy.” 29 Chúa Giê-xu nói với họ: “Thật, Thầy nói để anh em biết, chẳng một người nào từ bỏ nhà cửa, vợ con, cha mẹ, anh em vì vương quốc Đức Chúa Trời, 30 mà không nhận lại được nhiều lần hơn trong đời này, và sự sống đời đời trong đời sau.” 31 Sau khi nhóm mười hai sứ đồ lại, Ngài nói với họ: “Này, chúng ta đang đi lên thành Giê-ru-sa-lem và tất cả mọi điều mà các tiên tri đã chép về Con Người sẽ được ứng nghiệm. 32 Vì Ngài sẽ bị nộp vào tay người ngoại bang, bị người ta chế giễu, nhục mạ và phỉ nhổ. 33 Họ sẽ đánh đòn Ngài rồi giết đi, đến ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại.” 34 Nhưng họ chẳng hiểu gì; lời đó bị che khuất đối với họ, nên họ không hiểu những điều Ngài nói. 35 Khi Chúa Giê-xu đi gần đến thành Giê-ri-cô, thì có một người mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường. 36 Nghe thấy tiếng đám đông đi ngang qua, anh liền hỏi thăm chuyện gì đang xảy ra. 37 Người ta cho anh hay rằng Giê-xu người Na-xa-rét sắp đi qua. 38 Người mù liền kêu lớn lên rằng: “Lạy Giê-xu, con vua Đa-vít, xin thương xót tôi.” 39 Những người đi đằng trước mắng anh, bảo anh im đi. Nhưng anh càng la to hơn nữa: “Lạy Con vua Đa-vít, xin thương xót tôi.” 40 Chúa Giê-xu dừng lại và truyền đưa anh đến với Ngài. Khi người mù đến gần, Ngài hỏi anh: 41 “Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Anh đáp: “Lạy Chúa, tôi muốn được sáng mắt.” 42 Chúa Giê-xu nói với anh: “Anh được sáng mắt! Đức tin của anh đã chữa lành cho anh.” 43 Lập tức, người mù nhìn thấy được, anh đi theo Chúa Giê-xu, vừa đi vừa tôn vinh Đức Chúa Trời. Cả đoàn dân thấy vậy đều ngợi khen Đức Chúa Trời.
Chúa Giê-xu bắt đầu kể một câu chuyện ngụ ngôn khi Ngài tiếp tục dạy dỗ các môn đồ Ngài. Đây là phần tương tự trong câu chuyện bắt đầu ở LUK17:20
"Rồi Chúa Giê-xu"
Hai mệnh đề này có ý nghĩa giống nhau khi Chúa Giê-xu dùng để nhấn mạnh luận điểm của Ngài. Một số ngôn ngữ có thể có những cách nhấn mạnh khác nhau. Tham khảo: “luôn cầu nguyện liên tục.”
Từ ngữ nầy cũng bắt đầu một câu mới: "Ngài phán".
Từ ngữ "kia" được sử dụng như một cách để nói điều nầy đã xảy ra, song không xác định quán án hay thành phố.
"kính trọng"
"không thiên vị ai cả"
Chúa Giê-xu dùng cụm từ này để giới thiệu một nhân vật mới trong câu chuyện.
Một người đàn bà goá là một phụ nữ có chồng đã qua đời. Khán thính giả của Chúa Giê-xu đã suy nghĩ đến bà ta mà không có lời biện hộ nào chống lại kẻ làm ác.
Từ “quan án” nói đến quan tòa.
Tham khảo: “Phạt” hoặc “giúp tôi”
"kẻ thù tôi" hay "kẻ đang tìm cách làm hại tôi". Đây là một đối thủ trong chỗ kiện cáo. Không rõ người đàn bà đang kiện người đàn ông hay người đàn ông đang kiện người đàn bà.
"kính trọng Đức Chúa Trời"
Từ ngữ nầy ở đây đề cập đến "con người" nói chung.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "làm cho ta bối rối"
"làm cho ta mệt mỏi"
"bằng cách liên tục đến cùng ta"
Chúa Giê-xu đã kể xong câu chuyện ngụ ngôn và giờ đây đang giải thích câu chuyện đó cho các môn đồ Ngài nghe.
"hãy suy nghĩ những điều quan án không công bình nói". Hãy dịch câu nầy theo một phương thức mà dân sự hiểu Chúa Giê-xu đã nói rồi những gì quan án đã nói.
Từ này cho thấy rằng Chúa Giê-xu đã kể xong câu chuyện ngụ ngôn và bắt đầu giải nghĩa.
Chúa Giê-xu đã sử dụng câu hỏi hùng biện nầy để chỉ ra rằng mọi sự Ngài giảng dạy là một việc quan trọng mà khán thính giả của Ngài đã hình dung ra được. Cụm từ nầy có thể được dịch là "Đức Chúa Trời nhất định sẽ xét" hay "ngươi có thể dám chắc rằng Đức Chúa Trời sẽ xét lẽ"
"những người Ngài đã chọn"
Chúa Giê-xu đã sử dụng câu hỏi hùng biện nầy để nhắc cho dân sự nhớ đến một việc mà họ đã biết rồi về Đức Chúa Trời. Cụm từ nầy có thể được dịch là "và các ngươi biết rằng Ngài đang nhịn nhục đối với họ"
Chúa Giê-xu đang đề cập đến chính mình Ngài.
Mục đích của thí dụ là khích lệ các môn đồ cứ giữ lòng tin và cầu nguyện. Chúa Giê-xu ở đây sử dụng câu hỏi hùng biện khác mong đợi một câu trả lời tiêu cực. Ý nghĩa của câu hỏi là: "Nhưng ta biết rằng khi ta, Con Người, tái lâm, ta há sẽ thấy người nào không tin nơi ta"
Chúa Giê-xu bắt đầu kể một câu chuyện ngụ ngôn khác cho những người tự cho rằng mình là người công chính.
"khi ấy Chúa Giê-xu"
"một số người"
"kẻ tự xưng mình là công bình" hay "họ tưởng họ là công bình"
"xem thường" hay "tưởng họ là tốt hơn"
"vào hành làng đền thờ"
Ý nghĩa theo tiếng Hi-lạp của cụm từ nầy là không rõ ràng. Ý nghĩa khả thi là: 1) "Người Pha-ri-si đứng thầm nguyện theo thế nầy" hay 2) "Người Pha-ri-si đứng đó mà cầu nguyện"
Thâu thuế là kẻ lấy nhiều thứ bằng cách buộc người ta phải trao chúng cho người, hay bằng cách đe doạ bắt buộc họ.
"kiếm được"
Jesus has finishes telling his parable. In verse 14, he comments about what the parable teaches. Chúa Giê-xu đã kể xong câu chuyện ngụ ngôn. Trong câu 14, Ngài nói về ý nghĩa dạy dỗ của câu chuyện.
Tham khảo cách dịch: "ngó hướng lên trời" hay "nhìn lên"
Đây là cách thể hiện bề ngoài về nổi buồn rầu bên trong, và tỏ ra sự ăn năn và khiêm nhường của người nầy.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "lạy Chúa, làm ơn thương xót tôi dầu tôi là kẻ có tội nhiều lắm" hay "Đức Chúa Trời ơi, làm ơn thương xót tôi. Tôi là tội nhân lớn lắm đây"
Tham khảo: “Đức Chúa Trời tha tội cho người thâu thuế”
"thay vì người kia" hay "lẽ ra người kia" hoặc "chớ không phải người kia". Cụm từ nầy có thể được dịch là "nhưng người kia không được xưng công bình"
với cụm từ nầy, Chúa Giê-xu đưa câu chuyện lên chỉ ra nguyên tắc chung mà câu chuyện đang minh hoạ.
Tham khảo: “Đức Chúa Trời sẽ hạ xuống”
Tham khảo: “Đức Chúa Trời sẽ tôn trọng”
Đây là sự kiện tiếp theo trong phần này của câu chuyện, bắt đầu ở LUK17:20
Cụm từ nầy có thể được dịch như hai câu phân biệt: "rờ đến chúng, nhưng"
các môn đồ đã tỏ ra không tán thưởng hai người cha mẹ đã đem con trẻ đến cho Chúa Giê-xu.
Hai câu này có nghĩa giống nhau, và chúng được nối lại để nhấn mạnh. Một số ngôn ngữ có cách nhấn mạnh khác. Tham khảo: “Các ngươi chắc chắn phải để con trẻ đến với Ta.”
Cụm từ nầy có thể được dịch là "thuộc về những người sống y như mấy đứa trẻ đó"
"Quả thật, ta nói cùng các ngươi". Chúa Giê-xu sử dụng lối nói nầy để nhấn mạnh tầm quan trọng của những điều Ngài sắp sửa nói.
Đức Chúa Trời yêu cầu con người tiếp nhận sự cai trị của họ trên Ngài bằng niềm tin cậy và khiêm nhường. Tham khảo: “người nào muốn vào nước Đức Chúa Trời phải tiếp lấy bằng sự tin cậy và khiêm nhường như đứa trẻ.”
Đây là sự kiện tiếp theo trong phần câu chuyện bắt đầu ở LUK17:20
"tôi cần phải làm gì" hay "có chi buộc tôi"
"trở nên chủ nhân hợp pháp của". Từ nầy thường đề cập đến tài sản của ai đó đã qua đời. Lu-ca sử dụng ẩn dụ nầy để tỏ ra rằng viên quan kia vốn hiểu rõ sự sống đời đời không thể kiếm được, và không phải ai cũng được sống đời đời đâu.
Cụm từ nầy có thể được dịch làm hai câu: "không một ai thực sự là nhân lành. Chỉ có Đức Chúa Trời là nhân lành mà thôi"
"chớ sát nhân"
"hết thảy các điều răn nầy"
"Và khi Chúa Giê-xu nghe người nầy nói như thế"
"Ngài đáp cùng người ấy"
"Ngươi vẫn cần phàm thêm một việc" hay "có một việc mà người vẫn chưa làm"
"bán hết của cải ngươi" hay "bán mọi sự ngươi có"
"đem tiền cho người nghèo"
Tham khảo: “Anh sẽ có ơn phước của Đức Chúa Trời trên thiên đàng”
Cụm từ nầy không có từ nhiều bản thảo tiếng Hi-lạp, rồi thường bị bỏ sót trong các bản dịch Anh ngữ.
Thật là khó cho lạc đà chui qua lỗ kim. Vì lẽ đó, rõ rang là Chúa Giê-xu đang sử dụng phép ngoa dụ để nói: "thiệt là khó cực kỳ cho người giàu được cứu"
Lỗ kim là cái lỗ để luồng chỉ qua.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "người nào nghe điều Chúa Giê-xu đã phán dạy”.
Đúng là khả thi khi họ hỏi thăm để có câu trả lời. Nhưng đây là một câu hỏi hùng biện ý nói: "thế thì chẳng có người nào được cứu hết!"
"khả thi cho Đức Chúa Trời làm"
Đây là phần kết trong cuộc hội thoại về việc vào nước thiên đàng.
"hết thảy của cải" hay "hết thảy tài sản của chúng tôi"
Chúa Giê-xu sử dụng lối nói nầy để nhấn mạnh tầm quan trọng những gì Ngài sắp sửa phán.
Có thể nói thật tích cực câu nầy như sau: "kẻ nào từ bỏ...sẽ nhận lãnh".
Cụm từ nầy có thể được dịch là "và sự sống đời đời trong đời hầu đến"
Đây là sự kiện tiếp theo trong câu chuyện bắt đầu ở LUK17:20
Cụm từ nầy chỉ ra sự thay đổi quan trọng trong chức vụ của Chúa Giê-xu khi Ngài lên thành Giê-ru-sa-lem lần sau cùng.
Tham khảo: “mà các tiên tri đã chép”
Cụm từ nầy đề cập đến các tiên tri thời Cựu Ước.
Chúa Giê-xu phán về chính mình Ngài là "Con Người" và sử dụng "Ngài" đề cập đến chính mình Ngài.
Tham khảo: “sẽ xảy ra” hoặc “sẽ xảy đến”
Tham khảo: “Vì các nhà lãnh đạo Do Thái sẽ nộp Ngài vào tay dân ngoại”
Tham khảo: “Và người ta sẽ chế giễu Ngài, lăng nhục Ngài, và nhổ vào mặt Ngài”
Cụm từ nầy đề cập đến ngay thứ ba sau sự chết của Ngài. Tuy nhiên, các môn đồ không hiểu điều nầy, vì vậy tốt nhứt là đừng them phần giải thích nầy khi dịch cụm từ nầy.
Câu này không nằm trong cốt truyện chính, nhưng đó là lời bình luận về phần này trong câu chuyện (Xem: [[End of Story]])
"và họ không hiểu việc gì trong những việc nầy"
Cụm từ do đến phần mô tả của Chúa Giê-xu về cách Ngài sẽ chịu khổ và chịu chết tại thành Giê-ru-sa-lem, rồi Ngài sẽ sống lại từ kẻ chết.
Tham khảo cách dịch: "Đức Chúa Trời đã ngăn không cho họ hiểu ý nghĩa những điều Ngài đang nói cùng họ".
Tham khảo cách dịch: "những điều Chúa Giê-xu đã phán"
Đây là phần tiếp theo của câu chuyện. Chúa Giê-xu chữa lành một người mù khi Ngài đang đi đến Giê-ri-cô. Các câu này đưa ra thông tin bối cảnh và thông tin về diễn biến của câu chuyện.
Từ này được dùng để đánh dấu sự bắt đầu của phần mới trong câu chuyện.
"tiếp cận với"
"có một gã mù đang ngồi". Chữ "kia" ở đây ý nói chỉ có nhân vật nầy là quan trọng trong câu chuyện trừ ra danh tánh người không được ghi chép mà thôi.
Cụm từ nầy có thể được dịch làm hai câu: "ăn xin. Khi ông ta nghe nói"
Dân sự trong đám đông nói cho người mù biết.
Chúa Giê-xu đã đến từ thành Na-xa-rét nằm ở xứ Ga-li-lê.
"đang đi ngang qua"
Từ này đánh dấu một sự kiện xảy ra nối tiếp theo sự kiện trước đó. Trong trường hợp này, đám đông đã nói người mù biết rằng Chúa Giê-xu đang đi ngang qua.
"kêu la" hay "hô to lên"
Chúa Giê-xu là dòng dõi của vua Đa-vít, vị vua quan trọng nhất của Y-sơ-ra-ên.
"xin tỏ ra sự thương xót trên tôi" hay "xin tỏ ra cho tôi lòng thương xót"
"dân sự"
"im lặng đi" hay "đừng có la lớn"
Cụm từ nầy ý nói rằng người ấy còn kêu la lớn tiếng hơn hay cứ khăng khăng hô to mãi như thế.
Tham khảo: “người ta đem người mù đến với Ngài.”
Cụm từ nầy có thể được dịch là "ta đã chữa lành cho ngươi vì ngươi tin nơi ta"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "rồi khởi sự đi theo Ngài"
"dâng sự vinh hiển cho Đức Chúa Trời" hay "ngợi khen Đức Chúa Trời"
Ngài muốn dạy dỗ họ phải luôn cầu nguyện và đừng nãn lòng, Đức Chúa Trời sẽ làm sự công bình cho những ai kêu cầu Ngài.
Bà ta xin quan án nghịch cùng kẻ nghịch của bà ta.
Ông ta tưởng mình công bình hơn người khác.
Ông ta tưởng mình công bình hơn người khác.
Ông ta cầu nguyện: "Lạy Đức Chúa Trời, xin thương xót tôi, vì tôi là người có tội”.
Chúa Giê-xu yêu cầu quan ấy bán đi mọi thứ ông ta có rồi phân phát cho kẻ nghèo.
Ông ta nói: "Lạy Con Vua Đa-vít, xin thương xót tôi cùng.”
1 Chúa Giê-xu vào Giê-ri-cô và đi ngang qua thành phố. 2 Tại đó, có một người tên là Xa-chê. Ông làm trưởng phòng thu thuế và rất giàu có. 3 Xa-chê tìm cách thấy Chúa Giê-xu để biết Ngài là ai, nhưng không thấy được vì đoàn dân quá đông, mà ông thì lại thấp. 4 Vậy là Xa-chê chạy trước, leo lên một cây sung dâu để trông thấy Chúa Giê-xu vì Ngài sắp đi ngang qua con đường đó. 5 Khi Chúa Giê-xu đến chỗ ấy, Ngài ngước nhìn lên gọi Xa-chê: “Này Xa-chê, hãy xuống đây mau, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà anh.” 6 Ông vội vàng leo xuống và vui mừng đón tiếp Chúa. 7 Mọi người nhìn thấy vậy thì trách Chúa, rằng: “Ông ấy vào nhà viếng một kẻ có tội.” 8 Xa-chê đứng trước Chúa, thưa rằng: “Lạy Chúa, tôi lấy một nửa tài sản của mình mà chia cho người nghèo, và nếu có lừa của ai thứ gì, tôi sẽ đền lại gấp bốn lần.” 9 Chúa Giê-xu nói với ông: “Hôm nay sự cứu rỗi đã vào nhà này, vì anh ấy cũng là con Áp-ra-ham. 10 Vì Con Người đã đến để tìm và cứu những người lạc mất.” 11 Khi họ nghe những lời này xong thì Ngài kể tiếp một ẩn dụ, vì Ngài đã gần đến Giê-ru-sa-lem, còn họ thì nghĩ rằng vương quốc của Đức Chúa Trời sắp xuất hiện đến nơi. 12 Vì vậy, Ngài kể: “Có một nhà quý tộc kia lên đường đến một đất nước xa xôi để được phong vương rồi sẽ trở về. 13 Ông cho gọi mười người đầy tớ đến giao cho họ mười nén bạc và bảo: ‘Hãy dùng tiền này kinh doanh cho đến khi ta trở về.’ 14 Nhưng thần dân của ông ghét ông và cử một đoàn đại diện theo sau ông, nói rằng: ‘Chúng tôi không muốn người này cai trị mình.’ 15 Khi nhà quý tộc đã được phong vương trở về, ông truyền cho những người đầy tớ đã lãnh tiền đến để xem họ đã làm lợi được gì từ việc kinh doanh. 16 Người thứ nhất đến trước mặt ông thưa rằng: ‘Thưa ông chủ, nén bạc của ông đã sinh lợi ra thêm mười nén.’ 17 Nhà quý tộc nói với anh: ‘Được lắm, hỡi đầy tớ ngay lành. Vì anh đã trung tín trong việc rất nhỏ, nên anh sẽ được cai trị mười thành.’ 18 Người thứ hai đến thưa: ‘Thưa ông chủ, nén bạc của ông đã sinh lời năm nén.’ 19 Nhà quý tộc nói với anh: ‘Anh sẽ cai trị năm thành.’ 20 Một người đầy tớ khác đến thưa: ‘Thưa ông chủ, nén bạc của ông đây, tôi đã dùng khăn gói lại rất an toàn, 21 vì ông chủ là một người nghiêm khắc, hay lấy trong nơi không để, gặt trong chỗ không gieo nên tôi sợ.’ 22 Nhà quý tộc nói với anh ta: ‘Hỡi đầy tớ gian ác kia, ta sẽ xử anh dựa trên những lời anh vừa nói. Anh biết ta là người nghiêm khắc, lấy trong nơi không để, gặt trong chỗ không gieo. 23 Vậy sao anh không gửi tiền của ta vào ngân hàng, để khi ta trở về có thể lấy tiền đó cùng với tiền lãi?’ 24 Nhà quý tộc nói với những người đang đứng đó rằng: ‘Hãy lấy nén bạc của nó mà đưa cho người có mười nén.’ 25 Họ thưa: ‘Thưa ông chủ, anh ấy đã có mười nén rồi.’ 26 ‘Ta nói để các anh biết, người nào có sẽ được cho thêm, còn ai không có, sẽ bị lấy luôn cả cái mình đang có. 27 Còn những kẻ thù của ta, những kẻ không muốn ta cai trị chúng, hãy giải chúng đến đây và xử tử chúng trước mặt ta.’” 28 Khi đã nói xong những lời ấy, Ngài tiếp tục đi lên Giê-ru-sa-lem. 29 Khi gần đến thành Bết-pha-giê và Bê-tha-ny, tại ngọn núi tên là Ô-liu, Chúa Giê-xu sai hai môn đồ đi trước và dặn rằng: 30 “Hãy đi vào làng kế tiếp. Khi vào, anh em sẽ thấy một con lừa con chưa ai cưỡi. Hãy mở nó ra và đem về đây cho Thầy. 31 Nếu có ai hỏi anh em: ‘Sao các anh mở nó ra?’ thì hãy trả lời rằng: ‘Chúa cần nó.’” 32 Hai môn đồ được sai phái đi và thấy con lừa con như lời Chúa Giê-xu đã cho họ biết. 33 Khi họ đang mở lừa, chủ lừa nói với họ: “Sao các anh mở lừa ra?” 34 Họ đáp: “Chúa cần nó.” 35 Hai môn đồ dắt lừa về cho Chúa Giê-xu, họ trải áo lên lưng lừa và đỡ Chúa Giê-xu lên. 36 Khi Ngài cưỡi lừa đi, người ta trải áo mình trên đường. 37 Khi Ngài đi gần đến dốc núi Ô-liu, cả đoàn môn đệ đông đảo bắt đầu vui mừng và lớn tiếng ngợi khen Đức Chúa Trời vì tất cả những việc quyền năng mà họ đã thấy. 38 Họ tung hô: “Phước cho vua là Đấng nhân danh Chúa mà đến! Bình an trên trời, và vinh quang trên nơi chí cao!” 39 Một số người Pha-ri-si trong đoàn dân đông thưa với Ngài: “Thưa Thầy, xin quở trách các môn đồ của Thầy.” 40 Chúa Giê-xu đáp: “Tôi bảo các ông, nếu họ im lặng thì những hòn đá này sẽ kêu lên.” 41 Khi Chúa Giê-xu đến gần thành phố, thì Ngài khóc về nó, 42 và nói rằng: “Giá như ngày nay ngươi biết được những điều sẽ đem lại cho ngươi sự bình an! Nhưng giờ thì những điều ấy đã bị che khuất khỏi mắt ngươi. 43 Vì sẽ đến lúc các kẻ thù của ngươi đắp lũy, bao vây và công hãm ngươi bốn bề. 44 Họ sẽ đánh hạ ngươi và con cái ngươi. Họ sẽ chẳng để cho một hòn đá nào còn chồng trên một hòn đá nào, vì ngươi đã không nhận biết thời điểm Đức Chúa Trời đến cứu mình.” 45 Chúa Giê-xu đi vào đền thờ và đuổi hết những kẻ buôn bán ở đó. 46 Ngài nói với họ: “Có lời chép rằng, ‘Nhà Ta sẽ là nhà cầu nguyện,’ nhưng các ngươi đã biến nó thành hang ổ của bọn trộm cướp.” 47 Vậy, hàng ngày Chúa Giê-xu giảng dạy trong đền thờ. Các thầy tế lễ cả, các thầy thông giáo và giới lãnh đạo dân chúng muốn giết Ngài, 48 nhưng họ không thực hiện được vì toàn thể dân chúng đều chăm chú nghe Ngài.
Đây là phần tiếp theo của câu chuyện. Xa-chê được trước giả giới thiệu vào câu chuyện. Câu 1 đưa ra thông tin bối cảnh về các chuyến đi của Chúa Giê-xu.
Chữ "kìa" báo cho chúng ta biết một nhân vật mới trong câu chuyện. Ngôn ngữ của bạn có thể có cách nói ra điều nầy. Anh ngữ sử dụng "Tại đó, có một người …”
Đây là thông tin bối cảnh về Xa-chê.
"Xa-chê đang tìm cách"
"vì ông ta lùn"
"cây sung". Cây nầy cho trái có đường kính khoảng 2,5 cm. Cụm từ nầy có thể được dịch các đơn giản là "cây vả" hay "một cây"
"cây" hay "nơi Xachê đứng"
"Chúa Giê-xu đã vào nhà của một tội nhân để thăm viếng người"
"một tội nhân rõ ràng" hay "đúng là một tội nhân" hay "rõ ràng một người có tội"
Từ nầy đề cập đến Chúa Giê-xu.
Danh từ "sự cứu rỗi" có thể được dịch với động từ "cứu": "Đức Chúa Trời đã cứu nhà nầy".
Từ ngữ "nhà" ở đây đề cập đến những người sống trong ngôi nhà hay gia đình.
"người nầy cũng" hay "Xachê cũng"
Ý nghĩa khả thi là 1) "dòng dõi của Áp-ra-ham" và 2) "người này có đức tin như Áp-ra-ham đã có"
"người nào còn xa cách đối với Đức Chúa Trời" hay "người nào phạm tội sống xa cách Đức Chúa Trời"
Chúa Giê-xu bắt đầu kể cho đoàn dân nghe câu chuyện ngụ ngôn. Câu 11 đưa ra thông tin bối cảnh về lý do Chúa kể chuyện ngụ ngôn.
"Chúa Giê-xu ngay lập tức bắt đầu trị vì nước của Đức Chúa Trời"
"nhân vật nầy là thành viên của giai cấp thống trị" hay "một nhân vật xuất thân từ một Giáng Sinh quan trọng". Cụm từ nầy có thể được dịch là "một nhân vật quan trọng" hay "một nhân vật có địa vị cao"
"được lập làm vua" hay "làm vua trong xứ mà người sống ở đó"
Từ ngữ "Ngài" đề cập đến vị thế tử.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "giao cho họ mỗi người một nén bạc"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "mười đồng tiền có giá trị" hay "một lượng lớn tiền bạc". Mỗi nén bạc có giá trị bằng tiền lương bốn tháng của một người.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "trao đổi với số tiền nầy" hay "sử dụng số tiền nầy sao cho có lời"
"dân của xứ người ấy"
"đại biểu" hay "sứ giả"
Cụm từ nầy được sử dụng ở đây để đánh dấu một sự kiện quan trọng trong câu chuyện. Nếu ngôn ngữ của bạn có cách thức để làm công việc nầy, bạn có thể xem xét sử dụng nó ở đây.
"sau khi người lên làm vua"
Tham khảo: “đến với ông”
"họ kiếm được bao nhiêu tiền"
"Tôi tớ đầu tiên"
Từ ngữ "người" đề cập đến vị thế tử.
Xem cách bạn dịch từ nầy trong LUK19:13
"Ngươi làm được lắm". Ngôn ngữ của bạn có một cụm từ mà người chủ sẽ dùng để tỏ ra sự tán thưởng, tỉ như "làm hay lắm".
Cụm từ nầy có thể được dịch là "Lạy Chúa, với số tiền Ngài giao cho tôi, tôi đã kiếm 5 lần số đó"
Xem cách dịch từ nầy ở LUK19:13
Cụm từ nầy có thể được dịch là "ngươi sẽ có quyền hành trên năm thành"
Xem cách dịch từ nầy ở LUK19:13
"một người nghiêm ngặt" hay "một người trông mong nhiều nơi tôi tớ mình" hay "một người rất khó"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "chủ lấy ra những gì chủ không đặt vào" hay "chủ lấy những gì không thuộc về chủ". Đây là một câu châm ngôn mô tả một kẻ tham lam.
"gặt lấy thứ mà mình không có trồng". Đây là một ẩn dụ. Tôi tớ đang so sánh chủ mình với một nhà nông kia đang lấy thực phẩm mà người khác gieo.
"mùa gặt" hay "thu thập" hay "thâu lấy"
Tham khảo: “theo những lời anh vừa nói.”
Vị thế tử đang lặp lại câu mà tôi tớ kia nói về người. Ông không nói đó là sự thật.
"một người rất nhẫn tâm"
Câu nầy khởi động một câu hỏi hùng biện. Cụm từ nầy có thể được dịch là "ngươi nên lấy tiền của ta mà …"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "đem tiền bạc của ta gửi vào ngân hàng". Nhiều xã hội không có nhà băng sẽ dịch từ ngữ nầy là "cho ai đó vay tiền của ta"
Hàng bạc là một doanh vụ giữ tiền an toàn cho người ta. Hàng bạc vay tiền của nhiều người khác để làm lợi ra. Vì lẽ đó, nó chi một lượng lớn, hay tiền lời, cho người nào giữ tiền bạc của họ trong hàng bạc.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "ta sẽ lấy lại số bạc ấy cộng them với tiền lãi mà nó sanh ra" hay "ta sẽ kiếm lời từ số tiền ấy"
Lời là số tiền mà hàng bạc trả cho người nào gửi tiền họ vào hàng bạc.
Chủ đã lên làm vua. Hãy dịch từ nầy với một chữ sao cho rõ rang cho độc giả của bạn.
"những kẻ đứng gần đó"
Xem cách dịch từ nầy ở LUK19:13
Chúa Giê-xu kể xong câu chuyện ngụ ngôn và giờ đây Ngài giải thích câu chuyện đó cho những người đang nghe ở nhà Xa-chê.
Đây là lời phán của nhà vua. Một số nhà giải kinh muốn khởi sự câu nầy với: "Và nhà vua đáp: 'ta nói cùng các ngươi'" hay "nhưng nhà vua nói 'ta nói cùng các ngươi'".
Cụm từ nầy có thể được dịch là "người nào sử dụng tốt số tiền họ được giao cho" hay "người nào sử dụng tốt những gì ta giao cho người ấy"
Cụm từ nầy có thể được dịch với với một động từ chủ động: "ta sẽ giao thêm cho người"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "đối với kẻ nào không sử dụng tốt số tiền ta giao cho"
Tham khảo: “Ta sẽ lấy khỏi người đó”
Một khi kẻ nghịch không có mặt ở đó, một số ngôn ngữ sẽ nói "các kẻ thù kia của ta"
Đây là phần cuối trong câu chuyện về Xa-chê. Câu này cho chúng ta biết việc Chúa Giê-xu đã làm sau phần này trong câu chuyện. (Xem: [[End of Story]])
Từ ngữ "he" [Ngài] đề cập đến Chúa Giê-xu, chớ không đề cập đến nàh vua trong thí dụ đứng trước kia. Một số bản dịch nói rõ điều nầy bằng cách dịch cụm từ nầy như sau "khi Chúa Giê-xu đã phán những sự nầy"
Thành Giê-ru-sa-lem khoảng 975 m cao hơn thành Giêricô.
Đây là phần tiếp theo của câu chuyện. Chúa Giê-xu đến thành Giê-ru-sa-lem.
Từ này được dùng để đánh dấu phần mở đầu của phần mới trong câu chuyện. Nếu ngôn ngữ của dịch giả có cách diễn đạt này thì có thể sử dụng cách đó.
Từ ngữ "he" [Ngài] đề cập đến Chúa Giê-xu. Các môn đồ Ngài cùng đi với Ngài.
Bêphagiê là một ngôi làng nằm trên Núi Ôlive, đối ngang Trũng Kít-rôn nhìn từ thành Giê-ru-sa-lem.
"ngọn núi có tên là Ôlive" hay "núi có tên là Núi có cây ôlive"
“một con lừa con” hoặc “một con vật con để cưỡi”
Tham khảo: “Mà chưa ai từng cưỡi”
Cụm từ nầy có thể được dịch với một động từ chủ động: "những kẻ Chúa Giê-xu sai đi" hay "hai môn đồ mà Chúa Giê-xu phái đi"
"trải áo họ trên lưng con lừa". Áo là y phục. Trong trường hợp nầy nó đề cập đến áo choàng ngoài của họ.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "dân chúng trải áo họ" hay "những người khác trải áo choàng của họ".
"khi Chúa Giê-xu đến gần" hay "khi Chúa Giê-xu tiếp cận". Các môn đồ của Chúa Giê-xu cùng đi với Ngài.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "những việc lớn lao họ đã xem thấy Chúa Giê-xu làm"
Họ nói ra câu nầy về Chúa Giê-xu.
“Danh” ở đây nói đến quyền năng và thẩm quyền. Cũng vậy, “Chúa” chỉ về Đức Chúa Trời.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "nguyện sự vinh hiển được ban cho Ngài ở nơi cao nhất" hay "nguyện sự ngợi khen được ban cho Đấng Cao Cả nhất". Cụm từ nầy có thể được dịch một động từ chủ động và một danh từ chỉ ra Đấng sẽ làm ra sự ngợi khen cho Đức Chúa Trời, như trong Kinh Thánh.
Tham khảo cách dịch: "hãy bảo các môn đồ thầy thôi đừng làm những chuyện nầy"
Chúa Giê-xu phán câu nầy để nhấn mạnh những gì Ngài sẽ phán kế đó.
Đây là tình huống giả định. Một số nhà giải kinh cần phải nói rọ những gì Chúa Giê-xu ám chỉ khi Ngài phán ra câu nầy: "Không, ta sẽ chẳng quở họ mà chi, vì nếu những người nầy im lặng …"
"những hòn đá sẽ kêu lên những tiếng ngợi khen"
"tiếp cận" hay "tới gần"
Từ nầy đề cập đến thành Giê-ru-sa-lem.
Từ ngữ "thành" đề cập đến thành Giê-ru-sa-lem, nhưng nó tiêu biểu cho những ai sinh sống trong thành ấy.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "ta ước ao nhiều đến nỗi các ngươi biết rõ” hay "ta rất buồn vì các ngươi không biết". Đây là lời kêu la. Chúa Giê-xu đang tỏ ra sự buồn rầu của Ngài vì dân cư thành Giê-ru-sa-lem vốn không biết những sự nầy. Phần thông tin ám chỉ ấy có thể thêm vào phần cuối của câu: "khi ấy các ngươi sẽ có sự bình an"
Từ ngữ "mầy" ở số ít vì Chúa Giê-xu đang nói với thành. Nhưng nếu điều nầy không tự nhiên trong ngôn ngữ của bạn, bạn có thể sử dụng hình thức số nhiều của "you" [các ngươi] để đề cập đến dân cư của thành.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "các ngươi không thấy được những sự nầy" hay "các ngươi không thể biết được".
Chúa Giê-xu tiếp tục nói.
Những việc nối theo sau là lý do cho nổi buồn của Chúa Giê-xu.
Cụm từ nầy chỉ ra rằng họ sẽ kinh nghiệm những thời điểm nhọc nhằn. Một số ngôn ngữ không nói tới thời điểm hầu đến. Vì vậy, cụm từ nầy có thể được dịch là "trong tương lai những việc nầy sẽ xảy ra cho các ngươi" hay "không bao lâu nữa các ngươi sẽ gánh chịu những thời điểm đầy rối rắm"
Từ ngữ "mầy" ở số ít vì Chúa Giê-xu đang nói với thành. Nhưng nếu điều nầy không tự nhiên trong ngôn ngữ của bạn, bạn có thể sử dụng hình thức số nhiều của "you" [các ngươi] để đề cập đến dân cư của thành.
Một vật cản là một bức tường giữ cho dân sự không ra koh3i thành được.
Một khi Chúa Giê-xu đang phán cùng thành, cụm từ nầy đề cập đến các bức tường và tìa nhà của thành phố. Cụm từ nầy có thể được dịch là "họ sẽ huỷ diệt các bức tường ngươi" hay "họ sẽ huỷ diệt thành ngươi".
Cụm từ nầy đề cập đến cư dân đã sống trong thành. Nếu bạn đã sử dụng hình thức số nhiều của “you” [các ngươi] trong phân đoạn nầy, cụm từ nầy có thể được dịch là "và họ sẽ giết các ngươi, cư dân sống trong thành".
Đây là ngoa dụ tỏ ra kẻ thù huỷ diệt hoàn toàn thành phố là dường nào đối với một thành xây dựng bằng các hòn đá. Cụm từ nầy có thể được dịch là "họ sẽ không để hòn đá nào chồng trên hòn đá khác nằm đúng vị trí"
"mầy đã không biết" hay "mầy không công nhận"
Đây là sự kiện tiếp theo trong phần này của câu chuyện. Chúa Giê-xu bước vào đền thờ.
"hất ra" hay "xua đi" hoặc "buộc họ phải rời khỏi"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "Kinh Thánh chép" hay "một vị tiên tri viết ra mấy câu nầy trong Kinh Thánh". Đây là một trưng dẫn từ Ê-sai ISA56:06
Từ ngữ "ta" đề cập đến Đức Chúa Trời.
"một chỗ mà ở đó dân sự cầu nguyện với ta"
"một chỗ mà ở đó trộm cướp ẩn náu". Đây là một ẩn dụ. Cụm từ nầy có thể được dịch với một sự ví sánh "như một cái hang của những tên trộm cướp"
Đây là phần kết trong phần này câu chuyện này. Các câu này nói về sự việc đang diễn tiến sau khi kết thúc phần chính của câu chuyện. (Xem: [[End of Story]])
"trong hành lang đền thờ" hay "tại đền thờ"
"các thầy tế lễ đẳng cấp cao nhất" của "cấp thầy tế lễ quan trọng nhất"
“chú ý kỹ những gì Chúa Giê-xu đang phán dạy”
Họ tưởng rằng Nước của Đức Chúa Trời sẽ hiện ra ngay lập tức.
Chủ lấy nén bạc của gã tôi tớ gian ác.
Ngài khóc.
Các thầy tế lễ cả, các thầy thông giáo và các cấp lãnh đạo của dân sự đều muốn giết Chúa Giê-xu.
1 Một ngày kia, khi Chúa Giê-xu đang dạy dỗ dân chúng trong đền thờ và rao giảng Phúc Âm, các thầy tế lễ cả, các thầy thông giáo cùng các trưởng lão đến gặp Ngài, 2 Họ hỏi Ngài: “Xin cho chúng tôi biết bởi thẩm quyền nào mà Thầy làm những việc này? Hay ai đã cho Thầy thẩm quyền đó?” 3 Chúa Giê-xu đáp: “Tôi cũng hỏi các ông một câu. Hãy nói cho tôi biết 4 về phép báp-têm của Giăng. Phép đó là từ trời hay từ loài người?” 5 Họ bàn luận với nhau rằng: “Nếu chúng ta nói: ‘Từ trời,’ ông ta sẽ nói: ‘Vậy sao các ông không tin Giăng?’ 6 Còn nếu chúng ta nói: ‘Từ loài người,’ thì cả dân chúng sẽ ném đá chúng ta, vì họ tin chắc rằng Giăng là một nhà tiên tri.” 7 Vậy nên họ trả lời rằng họ không biết phép báp-têm ấy đến từ đâu. 8 Chúa Giê-xu nói với họ: “Tôi cũng không cho các ông biết bởi thẩm quyền nào tôi thực hiện những việc này.” 9 Ngài kể cho dân chúng ẩn dụ này: “Một người kia trồng một vườn nho, ông cho những người trồng nho thuê và đi đến xứ khác trong một thời gian dài. 10 Đến mùa thu hoạch, ông sai đầy tớ về gặp những người trồng nho để thu hoa lợi. Nhưng những người trồng nho đánh đập người đầy tớ và đuổi về tay không. 11 Chủ vườn lại sai một đầy tớ khác đến, nhưng người này cũng bị họ đánh đập, sỉ nhục và bị đuổi về tay không. 12 Chủ vườn tiếp tục sai người đầy tớ thứ ba đến, nhưng họ lại đánh anh bị thương rồi ném ra ngoài. 13 Vì vậy, chủ vườn nói: ‘Ta sẽ làm gì đây? Ta sẽ sai con trai yêu dấu của Ta đến. Có thể bọn họ sẽ tôn trọng nó.’ 14 Nhưng khi những người trồng nho thấy anh con trai, họ bàn với nhau rằng: ‘Đây là người thừa kế. Chúng ta hãy giết hắn, rồi gia sản sẽ về tay chúng ta.’ 15 Thế là họ ném anh ra bên ngoài vườn nho và giết đi. Vậy chủ vườn sẽ làm gì với bọn đó? 16 Ông ấy sẽ đến diệt hết những kẻ trồng nho này và giao vườn nho cho người khác.” Họ nghe vậy liền nói: “Cầu mong việc ấy không xảy ra!” 17 Nhưng Chúa Giê-xu nhìn họ và nói: “Câu Kinh Thánh này có nghĩa gì? ‘Hòn đá bị thợ xây loại ra, đã trở thành tảng đá nền’? 18 Người nào ngã nhầm đá ấy sẽ bị tan xác. Còn đá ấy rơi trúng ai, người đó sẽ bị đè nát.” 19 Các thầy thông giáo và các thầy tế lễ cả biết Ngài kể ẩn dụ này là nhắm vào mình nên rất muốn ra tay với Ngài ngay lúc ấy, nhưng họ chưa dám vì sợ dân chúng. 20 Họ sai các kẻ dọ thám giả làm người công bình theo dõi Ngài thật kỹ, bắt bẻ từng lời nói của Ngài, để tìm để có cớ nộp Ngài cho giới cai trị và chính quyền của quan tổng đốc. 21 Mấy kẻ này hỏi Ngài: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy nói và dạy một cách ngay thật, và Thầy không cả nể ai, mà chỉ giảng dạy chân lý về đường lối của Đức Chúa Trời. 22 Xin Thầy cho chúng tôi biết: chúng ta có nên nộp thuế cho Sê-sa hay không?” 23 Chúa Giê-xu biết sự xảo quyệt của họ, nên Ngài bảo: 24 “Cho tôi xem một đồng đơ-ni-ê. Trên đồng tiền ấy có khắc hình và danh hiệu của ai?” Họ đáp: “Của Sê-sa.” 25 Ngài nói với họ: “Vậy, hãy trả cho Sê-sa những gì của Sê-sa và trả cho Đức Chúa Trời những gì thuộc về Đức Chúa Trời.” 26 Các thầy thông giáo và các thầy tế lễ cả không thể chỉ trích lời Ngài nói trước mặt dân chúng. Họ kinh ngạc trước câu trả lời của Ngài và nín lặng. 27 Một số người thuộc phái Sa-đu-sê, vốn cho rằng không có sự phục sinh, đến gặp Ngài. 28 Họ hỏi Ngài rằng: “Thưa Thầy, Môi-se có chép cho chúng ta luật này: nếu một người có anh trai đã lập gia đình, và người anh trai này qua đời khi chưa có con, thì người ấy sẽ lấy vợ góa của anh mình để có con nối dõi cho anh. 29 Nhà kia có bảy anh em trai, người anh cả lấy vợ, và qua đời khi chưa có con, 30 và người em kế cũng vậy. 31 Rồi người em thứ ba lấy người vợ góa ấy, và cứ thế, cả bảy người đều chết mà không có con cái gì. 32 Sau đó, người phụ nữ ấy cũng chết. 33 Vậy, đến ngày người ta sống lại thì người phụ nữ ấy sẽ là vợ của ai, vì cả bảy anh em đều đã cưới chị?” 34 Chúa Giê-xu đáp: “Con cái đời này cưới vợ, lấy chồng. 35 Nhưng những người được xét là xứng đáng được sống lại từ cõi chết và bước vào cõi đời đời thì không cưới vợ, cũng không lấy chồng. 36 Họ cũng không thể chết nữa, vì họ sẽ giống như thiên sứ và là con của Đức Chúa Trời, tức là con của sự phục sinh. 37 Còn về việc người chết sẽ sống lại thì ngay như Môi-se cũng đã xác nhận trong câu chuyện về bụi gai, khi ông xưng Chúa là Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời Y-sác và Đức Chúa Trời Gia-cốp. 38 Ngài không phải là Đức Chúa Trời của người chết, mà là của người sống, vì tất cả đều sống đối với Ngài.” 39 Một số thầy thông giáo lên tiếng: “Thưa Thầy, Thầy nói rất đúng.” 40 Và họ không dám hỏi Ngài thêm câu nào. 41 Chúa Giê-xu hỏi họ: “Sao người ta có thể nói rằng Đấng Cứu Thế là con vua Đa-vít? 42 Vì trong sách Thi Thiên, chính vua Đa-vít có nói: Chúa phán với Chúa tôi rằng: ‘Hãy ngồi bên phải Ta, 43 cho đến khi Ta khiến các kẻ thù của Con phục dưới bệ chân Con.’ 44 Vậy, vua Đa-vít xưng Đấng Cứu Thế là ‘Chúa’ thì sao Ngài là con của vua ấy được?” 45 Trước mặt toàn thể dân chúng đang lắng nghe, Ngài nói với các môn đồ: 46 “Hãy cẩn thận đề phòng các thầy thông giáo, là những người thích mặc áo dài đi dạo, thích được người ta chào mình ở nơi phố chợ, và thích ngồi những chỗ quan trọng trong nhà hội hay trong các đám tiệc. 47 Họ giả vờ đọc những bài cầu nguyện dài dòng nhưng lại chiếm đoạt nhà của các bà góa. Những người ấy sẽ bị kết án nặng nề hơn.”
Các thầy tế lễ cả, thầy thông giáo, và các trưởng lão chất vấn Chúa Giê-xu trong đền thờ.
Cụm từ nầy được sử dụng ở đây đánh dấu phần khởi đầu chi tiết mới của câu chuyện. Nếu ngôn ngữ của bạn có cách thức để làm công việc nầy, bạn có thể xem xét sử dụng nó ở đây.
Chúa Giê-xu trả lời các thầy tế lễ cả, thầy thông giáo, và trưởng lão.
"Chúa Giê-xu đáp"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "Quyền làm báptêm cho người ta của Giăng đến bởi trên trời hay bởi người ta?" hay "Có phải Đức Chúa Trời bảo Giăng làm phép báptêm cho người ta, hay có phải người ta bảo ông ấy làm việc đó?"
“từ Đức Chúa Trời”. Dân Do thái đã tránh đề cập đến Đức Chúa Trời bằng đích danh “Giê-hô-va”. Thường thì họ dùng chữ “trời” để đề cập đến Ngài.
Cụm từ nầy cũng có thể được dịch là "họ bàn bạc" hay "họ xem xét câu trả lời của họ"
Một số ngôn ngữ có thể trích dẫn gián tiếp. Tham khảo: “Nếu chúng ta nói rằng thẩm quyền của Giăng đến từ trời,”
"từ Đức Chúa Trời". Nương vào cách câu hỏi được phiên dịch trong câu đứng trước, cụm từ nầy có thể được dịch là "Đức Chúa Trời đã" hay "Đức Chúa Trời uỷ quyền cho ông". Một số ngôn ngữ thích một trưng dẫn gián tiếp hơn. Phần mở đầu câu nầy có thể được dịch là "nếu chúng ta nói rằng Đức Chúa Trời đã uỷ quyền cho ông ấy"
"Chúa Giê-xu sã nói"
"giết chúng ta bằng cách ném đá trên chúng ta". Luật pháp của Đức Chúa Trời truyền rằng dân sự Ngài ném đá những kẻ nào trong dân sự Ngài chế giễu Ngài hay các đấng tiên tri của Ngài.
"các thầy tế lễ cả, các thầy thông giáo và các trưởng lão trả lời"
Một số ngôn ngữ có thể thích một trưng dẫn trực tiếp hơn. "Họ nói: 'chúng tôi không biết'"
"phép báptêm của Giăng bởi đâu đến" Cụm từ nầy có thể được dịch là "thẩm quyền làm báptêm của Giăng bởi đâu đến" hay "ai uỷ quyền cho Giăng làm phép báptêm cho người ta"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "và ta sẽ không nói cho các ngươi biết" hay "giống như các ngươi không nói cho ta biết, ta sẽ không nói cho các ngươi biết"
Chúa Giê-xu bắt đầu kể một câu chuyện ngụ ngôn cho những người trong đền thờ nghe.
"cho phép những kẻ trồng nho sử dụng nó để kiếm tiền" hay "cho phép những kẻ trồng nho sử dụng nó để chi trả cho chủ vườn sau"
Đây là những người chuyên trồng nho. Cụm từ nầy có thể được dịch là "nhà nông chuyên về trồng nho"
"mùa nho" hay "một số kết quả họ sản xuất trong vườn nho". Cụm từ nầy đề cập đến những thứ được làm từ trái nho hay tiền bạc họ kiếm được bằng cách bán nho.
tay không** - Cụm từ nầy có thể được dịch là "đuổi đi mà chẳng trả công" hay "đuổi đi mà chẳng có nho"
"sĩ nhục người ấy"
"gây thương tích cho người"
"thậm chí là đầy tớ thứ ba". Từ ngữ "lại" nói kín rằng chủ đất đã không sai đầy tớ thứ hai, người bỏ qua điều đó rồis ai đầy tớ thứ ba.
"khi bọn trồng nho thấy con trai của chủ"
Chúa Giê-xu kể xong câu chuyện ngụ ngôn trước mặt đoàn dân.
"những kẻ trồng nho đuổi con trai ấy ra khỏi vườn"
Chúa Giê-xu sử dụng câu hỏi hùng biện nầy để khiến cho khan thính gải của Ngài chú ý đến những gì chủ vườn nho sẽ làm. Cụm từ nầy có thể được dịch như một mạng lịnh: "vậy giờ đây, hãy lắng nghe những gì chủ vườn nho sẽ làm đối với họ"
"Nguyện Đức Chúa Trời ngăn điều đó không xảy ra!" hay "có thể việc ấy không xảy ra!" Dân chúng hiểu thí dụ nấy ý nói rằng Đức Chúa Trời sẽ dời họ ra khỏi thành Giê-ru-sa-lem vì họ chối bỏ Đấng Mêsi. Họ mạngh mẽ tỏ ra ước muốn của họ rằng việc nầy sẽ không xảy ra.
Chúa Giê-xu tiếp tục dạy dỗ đám đông.
"Nhưng Chúa Giê-xu nhìn chăm họ" hay "nhưng Ngài nhìn thẳng vào họ". Ngài đã làm việc nầy để buộc họ phải trình sự hiểu biết những gì Ngài đã phán.
Câu hỏi hùng biện nầy có thể được dịch là "vậy phần Kinh Thánh nầy nói gì chứ?" hay "các ngươi không thể hiểu phần Kinh Thánh nầy"
Ẩn dụ nầy là một lời tiên tri từ sách Thi-thiên PSA118:022
"hòn đá mà thợ xây nhà nói không tốt đủ để đem xây". Trong thời buổi ấy, người ta xây tường của các ngôi nhà và những toà nhà đều bằng đá.
Đây là hòn đá quan trọng cho việc làm ổ định toà nhà. Cụm từ nầy có thể được dịch là "hòn đá chính" hay "hòn đá quan trọng nhất"
"bất kỳ người nào ngã nhầm đá ấy". Ẩn dụ nầy là một lời tiên tri nói về những gì sẽ xảy ra cho những ai chối bỏ Đấng Mêsi.
"sẽ tan tác thành nhiều mảnh". Đây là một kết quả của việc ngã nhầm đá ấy.
"nhưng hễ đá nầy ngã nhầm ai". Ẩn dụ nầy là một lời tiên tri nói tới Đấng Mêsi đang xét đoán những kẻ chối bỏ Ngài.
Tham khảo cách dịch: "tìm cách bắt lấy Chúa Giê-xu"
"ngay lập tức"
Đây là lý do họ không bắt Chúa Giê-xu liền. Dân chúng vốn tôn trọng Chúa Giê-xu, cò các cấp lãnh đạo tôn giáo e sợ những gì dân chúng sẽ làm nếu họ bắt lấy Ngài. Một số bản dịch cần phải nói cụ thể điều nầy: "nhưng họ không bắt Ngài vì họ sợ dân chúng"
"để nộp Ngài" hay "để họ giao Ngài cho"
"vì họ muốn kết tội Chúa Giê-xu vì đã nói bậy”
"đặng nộp Ngài cho" hoặc “để họ có thể nộp Ngài cho
"cầm quyền" và "quyền bính" là hai cách nói cùng một việc. Cụm từ nầy có thể được dịch với một hay hai biểu hiện. Lý do cho việc nộp Chúa Giê-xu cho quan tổng đốc có thể được trình bày cụ thể: "để quan tổng đốc sẽ trừng phạt Chúa Giê-xu"
Đây là mở đầu của sự kiện tiếp theo trong phần này của câu chuyện. Một khoảng thời gian đã trôi qua kể từ khi Chúa Giê-xu bị các thầy tế lễ cả chất vấn trong đền thờn. Những kẻ do thám này giờ đây chất vấn Chúa Giê-xu.
Ý nghĩa khả thi là 1) "ngươi nói ra chân lý thậm chí dù nhân vật quan trọng không thích điều đó" hay 2) "ngươi không thiên vị ai hết"
Đây là chi tiết những gì thám tử đa 4no1i khi họ biết rõ về Chúa Giê-xu.
Họ hy vọng rằng Chúa Giê-xu một là nói "có" hoặc là "không". Nếu Ngài nói: "có", thì dân Do thái sẽ nổi giận với Ngài vì bảo họ nộp thuế cho một chính quyền ngoại bang. Nếu Ngài nói: "không", thì cấp lãnh đạo tôn giáo sẽ báo cho người Lamã biết Chúa Giê-xu đã dạy dỗ dân sự phá vỡ luật lệ của người Lamã.
Họ đang hỏi han về luật pháp của Đức Chúa Trời, chớ không phải luật pháp của Xê-sa. Cụm từ nầy có thể được dịch là "Có phải luật lệ chúng ta cho phép chúng ta"
Vì Xê-sa là nhân vật cai trị của nhà cầm quyền Lamã, có thể họ đề cập đến nhà cầm quyền Lamã bằng dân xưng Xê-sa.
"Song Chúa Giê-xu hiểu rõ họ đang cài bẫy Ngài" hay "nhưng Chúa Giê-xu đã nhìn thấy họ đang gài bẫy Ngài"
một đồng tiền giá trị một ngày công. (Xem: [[rc://vi/obe/other/biblicalmoney]])
Chúa Giê-xu dùng câu hỏi để trả lời những kẻ gài bẫy Ngài.
"hìanh ảnh và tên tuổi"
Đây là phần kết cửa sự kiện về những kẻ do thám và là phần kết của phần bắt đầu ở
"Khi ấy, Chúa Giê-xu phán cùng họ"
"Sê-sa" đề cập đến nhà cầm quyền Lamã.
"không thể tìm đặng điều gì sai với những điều Ngài đã phán"
"họ lấy làm ngạc nhiên" hay "họ kinh ngạc"
Đây là phần tiếp theo của câu chuyện. Chúng ta không biết nơi chốn câu chuyện này diễn ra, dù có thể là ở trong đền thờ. Chúa Giê-xu đang nói chuyện với những người Sa-đu-sê.
Cụm từ nầy xác định người Sađusê là nhóm người Do thái nói rằng không có ai sống lại từ kẻ chết. Điều nầy không ám chỉ một số người Sađusê đã tin rằng có sự sống lại và có người thì không tin.
"nếu anh của một người chết khi anh ấy có vợ mà chưa có con"
"người phải cưới vợ goá của anh mình đã quá cố"
Người Sa-đu-sê kết thúc chất vấn Chúa Giê-xu.
Người Sa-đu-sê kể cho Chúa Giê-xu nghe một câu chuyện ngắn từ câu 29 đến 32. Đây là câu chuyện họ tự nghĩ ra để làm ví dụ. Trong câu 33, họ hỏi Chúa Giê-xu về câu chuyện đó.
Điều nầy có thể đã xảy ra, nhưng có lẽ đây là câu chuyện mà họ đặt ra để thử Chúa Giê-xu.
"chết đi mà chưa có đứa con nào hết" hay "đã chết, nhưng chưa có đứa con nào hết"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "người thứ hai đã lấy nàng làm vợ và cũng một việc ấy xảy ra" hay "người em kế đã lấy nàng làm vợ và đã chết đi mà chưa có đứa con nào hết"
"người thứ ba lấy nàng làm vợ"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "cũng y như vây bảy anh em đã lấy nàng làm vợ và chưa có con thì chết đi"
"khi người ta được sống lại từ kẻ chết" hay "khi người chết được sống lại". Một số ngôn ngữ có cách tỏ ra rằng người Sađusê không tin có sự sống lại, tỉ như "giả định đến ngày sống lại" hay "khi người chết giả sử sống lại từ kẻ chết"
Chúa Giê-xu bắt đầu trả lời người Sa-đu-sê.
"Dân sự của thế giới nầy" hay "dân sự thời buổi nầy". Cụm từ nầy đối chiếu với với những kẻ sống trong thiên đàng hay người nào sống sau sự phục sinh.
Trong xã hội đó, họ nói tới đàn ông lấy vợ và phụ nữ lấy chồng trong hôn nhân. Cụm từ nầy có thể được dịch là "lập gia đình"
"những người mà Chúa xét là xứng đáng"
"được sống lại từ kẻ chết" hay "phục sinh từ kẻ chết"
"sẽ không kết hôn nữa". Điều nầy sau sự phục sinh.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "họ sẽ không còn chết nữa". Điều nầy sau sự phục sinh.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "sẽ được tỏ ra là con của Đức Chúa Trời, khi họ được sống lại từ kẻ chết"
Chúa Giê-xu kết thúc phần trả lời người Sa-đu-sê.
"Nhưng dầu Môi-se tỏ ra rằng người chết được sống lại từ kẻ chết". từ ngữ "còn về" có ở đây vì người Sađusê đã không ngạc nhiên khi có khúc Kinh Thánh chép kẻ chết được sống lại, nhưng họ không mong Môi-se đã viết ra một việc như thế.
"trong phần Kinh Thánh chép về bụi gai" hay "trong Kinh Thánh nói về bụi gai cháy"
"khi Môi-se gọi Chúa"
"Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Ysác, và Giacốp". Hết thảy họ đã thờ lạy cùng một Đức Chúa Trời.
Từ này được dùng để biểu thị một phần ngắt quãng trong phần dạy dỗ chính của Ngài. Ở đây Chúa Giê-xu giải thích việc người chết sống lại từ cõi chết trong câu chuyện.
"Chúa không phải là Đức Chúa Trời của kẻ chết" hay "Chúa không phải là Đức Chúa Trời của người đã chết và linh hồn của họ cũng đã chết"
"mà là Đức Chúa Trời của kẻ sống" hay "Đức Chúa Trời của hạng người mà linh hồn họ đang sống". Nếu điều nầy chưa rõ ràng, bạn có thể them vào phần thông tin cụ thể: "dầu thân thể họ đã chết"
"vì trước mặt Đức Chúa Trời hết thảy họ hãy còn sống". Cụm từ nầy cũng có thể được dịch là "vì Đức Chúa Trời biết rõ linh hồn họ còn đang sống"
"có mấy thầy thông giáo nói với Chúa Giê-xu"
"họ sợ không dám hỏi Ngài" hay "họ không dám liều hỏi Ngài". Phần thông tin cụ thể về mục đích của câu hỏi và lý do họ không dám hỏi phải đưa ra cụ thể. "Họ đã hỏi Ngài mấy câu có tính gài bẫy vì họ sợ rằng câu trả lời khéo léo của Ngài sẽ bắt bí họ"
Chúa Giê-xu đặt một câu hỏi đối với các thầy thông giáo.
“Tại sao người ta nói…Con?” Chúa Giê-xu dùng một câu hỏi để khiến các thầy thông giáo suy nghĩ về điều Ngài đang nói. Tham khảo: “Chúng ta hãy nghĩ về việc họ nói…Con.” Hoặc “Ta sẽ nói về việc họ nói…Con”
"dòng dõi của vua Đa-vít". Từ ngữ "con" được sử dụng ở đây để đề cập đến một dòng dõi. Trong trường hợp nầy cụm từ nầy đề cập đến kẻ nào trị vì trên nước của Đức Chúa Trời.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "Giê-hô-va Đức Chúa Trời phán cùng Chúa tôi" hay "Đức Chúa Trời phán cùng Chúa tôi". Đây là một trưng dẫn từ Thi-thiên PSA110:001
Đa-vít đang đề cập đến Chúa Cứu Thế là "Chúa tôi".
Bên hữu là chỗ của danh dự. Đức Chúa Trời đang tôn cao Đấng Mêsi bằng cách nói "hãy ngồi bên hữu ta"
Đây là một ẩn dụ. Cụm từ nầy có thể được dịch là "cho tới chừng ta bắt kẻ thù nghịch ngươi giống như bệ chơn cho ngươi" hay "cho tới chừng ta chinh phục các kẻ thù nghịch ngươi"
"vậy lẽ nào Chúa Cứu Thế lại là con của Đa-vít?" Đây là câu hỏi hùng biện. Cụm từ nầy có thể được dịch là "cụm từ nầy tỏ ra rằng Chúa Cứu Thế không phải là dòng dõi của Đa-vít"
Bấy giờ Chúa Giê-xu hướng sự chú ý của Ngài qua các môn đồ và phán với họ.
"phải cẩn trọng"
Áo dài cho thấy rằng họ rất quan trọng. Cụm từ nầy có thể được dịch là "họ thích đi lòng vòng mặc y phục quan trọng"
"họ cũng nuốt trọng nhà cửa của đàn bà goá". Đây là một ẩn dụ ý nói "họ cũng tước hết mọi của cải khỏi đàn bà goá"
"họ làm bộ sống công bình và thốt ra những lời cầu nguyện dài" hay "họ thốt ra những lời cầu nguyện dài để người ta nhìn thấy"
"để người khác nghĩ rằng họ quan trọng dù họ chẳng có gì là quan trọng cả" hay "để nhiều người khác nghĩ rằng họ sống tốt hơn là họ vốn có"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "họ sẽ nhận lãnh sự phát xét nặng hơn bao người khác" hay "Đức Chúa Trời sẽ trừng phạt họ nghiệt ngã hơn bao người khác"
Cấp lãnh đạo Do thái nghĩ rằng Chúa Giê-xu sẽ phán: "Vậy sao các ngươi không tin theo người.”
Ông sẽ sai con yêu dấu của Ngài.
Họ quăng con ấy ra khỏi vườn rồi giết người đi.
Ngài nói thí dụ nầy nghịch cùng các thầy thông giáo và các thầy tế lễ cả.
Ngài phán hãy trả cho Sê-sa những gì thuộc về Sê-sa, và trả lại Đức Chúa Trời những gì thuộc về Đức Chúa Trời.
Họ không tin nơi sự sống lại của kẻ chết.
Trong đời nầy thì có hôn nhân, song chẳng có hôn nhân trong cõi đời đời.
Ngài kể lại câu chuyện nói tới Môi-se và bụi gai cháy, tại đó Môi-se gọi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham và Đức Chúa Trời của Y-sác và Đức Chúa Trời của Gia-cốp.
1 Chúa Giê-xu nhìn lên và thấy những người giàu có dâng lễ vật vào thùng lạc hiến. 2 Ngài cũng thấy một góa phụ nghèo chỉ dâng hai đồng tiền. 3 Ngài nói: “Thật, Thầy cho anh em biết, bà góa này đã dâng hiến nhiều hơn tất cả những người khác. 4 Mọi người đó lấy từ phần tiền dư ra của mình mà dâng. Còn góa phụ này, dù nghèo thiếu, đã dâng hết số tiền chị có để nuôi sống mình.” 5 Khi có mấy người trằm trồ về đền thờ, về những đá quý và lễ vật trang trí cho đền thờ, thì Ngài nói: 6 “Sẽ có ngày những gì anh em thấy đây bị phá đổ hết, chẳng còn một hòn đá nào chồng trên hòn đá nào.” 7 Họ hỏi Ngài rằng: “Thưa Thầy, khi nào những việc ấy sẽ xảy ra? Có những dấu hiệu nào để nhận biết rằng chúng sắp xảy ra không?” 8 Chúa Giê-xu đáp: “Anh em hãy cảnh giác để khỏi bị lừa dối. Vì nhiều người sẽ nhân danh Thầy đến mà nói rằng: ‘Ta chính là Ngài,’ và ‘Kỳ tận thế đã gần.’ Anh em đừng theo họ. 9 Khi anh em nghe nói về chiến tranh và bạo động, thì đừng kinh hãi, vì những việc ấy phải xảy ra trước, còn ngày tận thế thì chưa đến ngay đâu.” 10 Rồi Ngài nói với họ: “Dân này sẽ nổi dậy chống lại dân khác, nước này nghịch với nước kia. 11 Sẽ có động đất lớn, và ở nhiều nơi, sẽ có đói kém, dịch bệnh. Sẽ có những biến cố kinh khiếp và những điềm lớn ở trên trời. 12 Nhưng trước khi tất cả mọi việc ấy xảy ra, anh em sẽ vì danh Thầy mà bị người ta ra tay bắt bớ; họ sẽ giao nộp anh em cho các nhà hội và khám đường, áp giải anh em đến trước mặt các vua và tổng đốc. 13 Đó sẽ là cơ hội cho anh em làm chứng về Thầy. 14 Vì vậy, hãy dặn lòng đừng chuẩn bị trước để tự bào chữa, 15 vì Thầy sẽ ban lời lẽ và sự khôn ngoan cho anh em để không một kẻ thù nào của anh em có thể chống lại hay phản bác được. 16 Anh em cũng sẽ bị chính cha mẹ, anh em, bà con và bạn bè mình giao nộp, và họ sẽ giết chết một số người trong anh em. 17 Anh em sẽ bị mọi người ghét bỏ vì danh Thầy. 18 Nhưng một sợi tóc trên đầu anh em cũng không mất đâu. 19 Nhờ kiên trì chịu đựng anh em sẽ giữ được linh hồn mình. 20 Khi anh em thấy thành Giê-ru-sa-lem bị binh lính bao vây, thì hãy biết rằng thành ấy sắp bị hủy phá. 21 Khi đó, những ai đang ở trong xứ Giu-đê, hãy trốn lên núi, những người đang ở trong thành, hãy rời khỏi, còn những ai đang ở ngoài thành thì đừng vào thành. 22 Vì đây sẽ là thời kỳ báo thù để cho mọi lời đã chép được ứng nghiệm. 23 Trong những ngày ấy, khốn cho phụ nữ mang thai và những người đang cho con bú! Vì sẽ có đại họa trong xứ và cơn thịnh nộ giáng trên dân này. 24 Họ sẽ ngã dưới lưỡi gươm và bị đày đến mọi quốc gia. Thành Giê-ru-sa-lem sẽ bị dân ngoại bang giày đạp cho đến khi thời kỳ của các dân ngoại được trọn. 25 Sẽ có các điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao. Còn ở dưới đất, các dân tộc sẽ sầu não, tuyệt vọng vì biển động sóng gào. 26 Sẽ có những người ngất đi vì sợ hãi và vì phập phồng chờ đợi những tai họa sắp giáng xuống, bởi các quyền lực trên trời sẽ rúng động. 27 Rồi họ sẽ thấy Con Người ngự đến trong đám mây với quyền lực và vinh quang chói sáng. 28 Nhưng khi những việc này bắt đầu xảy ra, hãy đứng dậy, ngẩng cao đầu, vì sự giải cứu của anh em đang đến gần.” 29 Chúa Giê-xu lại kể cho họ một ẩn dụ: “Hãy xem cây vả và tất cả các cây khác. 30 Khi nhìn thấy chúng nứt lộc, anh em biết rằng sắp đến mùa hạ. 31 Cũng vậy, khi anh em thấy những việc này xảy ra, thì biết rằng vương quốc của Đức Chúa Trời đang đến gần. 32 Thật, Thầy nói để anh em biết, thế hệ này sẽ không qua đi cho đến khi tất cả những việc ấy xảy ra. 33 Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ không bao giờ qua đi. 34 Nhưng hãy cẩn thận giữ mình, đừng để lòng mình mê muội trong lối sống trụy lạc, say sưa cùng những lo lắng của đời này. Vì ngày ấy sẽ đến trong lúc anh em không ngờ, 35 giống như bẫy sập xuống mọi người sống trên khắp mặt đất vậy. 36 Hãy luôn tỉnh thức, cầu nguyện để anh em có đủ sức mà vượt qua tất cả những điều đó và được đứng trước mặt Con Người.” 37 Ngài dạy dỗ cả ngày trong đền thờ; tối đến thì Ngài lên trên núi Ô-liu mà nghỉ đêm. 38 Rồi sáng sớm hôm sau tất cả dân chúng lại đến đền thờ để nghe Ngài.
Đây là sự kiện tiếp theo trong câu chuyện. Diễn biến có thể là: 1) việc này hẳn có thể đã xảy ra trong cùng ngày hôm đó khi người Sa-đu-sê chất vấn Chúa Giê-xu (LUK20:27
Đây là một cách giới thiệu nhân vật mới vào câu chuyện.
"tiền dâng hiến"
"hộp đựng tiền dâng" hay "hộp đựng tiền" hoặc "hộp dâng hiến của đền thờ". Đây là một trong nhiều cái hộp đặt tại đền thờ người ta dâng tiền ở đó như một của lễ cho Đức Chúa Trời.
"hai đồng xu" hay "hai đồng xu nhỏ bằng đồng". Ít nhất đây là giá trị của đồng tiền mà dân sự sử dụng khi ấy. Cụm từ nầy có thể được dịch là đồng tiền có giá trị nhỏ nhất trong hệ thống tiền tệ của địa phương bạn, tỉ như "hai xu" (Xem: [[rc://vi/obe/other/biblicalmoney]])
Chúa Giê-xu đang phán cùng các môn đồ Ngài. Chữ "you" [các ngươi] ở số nhiều.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "có nhiều tiền mà dâng ít thôi"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "có rất ít, dù vậy bà ta đã dâng hết"
"từ những gì bà ta cần" hay "từ một ít tiền mà bà ta có"
Chúa Giê-xu chuyển từ việc nói về góa phụ sang việc dạy về đền thờ.
"những thứ mà dân sự đã dâng cho Đức Chúa Trời"
"sẽ có một thời kia" hay "một ngày kia"
Cụm từ nầy có thể được dịch cách tích cực: "từng hòn đá sẽ bị dời đi khỏi chỗ của nó". Cụm từ nầy có thể được dịch với một mệnh đề chủ động: "kẻ thù sẽ không để cho hòn đá nào còn cồhng trên hòn đá khác"
Cụm từ nầy có thể được dịch cách tích cực là "chúng sẽ bị đổ xuống hết". Cụm từ nầy có thể được dịch với một mệnh đề chủ động: "kẻ thù sẽ gỡ xuống từng viên đá một".
"các môn đồ hỏi Chúa Giê-xu" hay "các môn đồ của Chúa Giê-xu hỏi Ngài"
những việc mà Chúa Giê-xu mới vừa phán dạy. Chúa Giê-xu mới vừa nói ra về đền thờ bị huỷ diệt.
Chúa Giê-xu đang nói với các môn đồ Ngài. Từ “ngươi” ở đây là từ số nhiều. Tham khảo: “để các ngươi không tin vào lời dối trá” hoặc “để không ai lừa dối các ngươi.”
Tham khảo cách dịch: "xưng là ta" hay "xưng nhận với thẩm quyền của ta"
"đừng để những điều này làm các ngươi hoảng sợ” hoặc “chớ sợ hãi”
"sự cuối cùng của thế gian sẽ không xảy ra liền sau chiến tranh và loạn lạc đâu. Danh từ "sự cuối cùng" cũng có thể được dịch như một động từ: "thế gian sẽ chẳng kết thúc liền sau mọi việc ấy xảy ra đâu"
"sự cuối cùng của thế gian" hay "sự cuối cùng của muôn vật"
"Khi ấy Chúa Giê-xu phán cùng các môn đồ Ngài". Một khi đây là một sự phán dạy liên tục của Chúa Giê-xu tính từ câu đứng trước, một số ngôn ngữ không thích nói: "khi ấy, Ngài phán cùng họ".
Cụm từ nầy có thể được dịch là "nước nầy sẽ tấn công nước kia"
Từ nầy đề cập đến các nhóm chủng tộc của con người thay vì các quốc gia.
"nước nầy dấy lên nghịch cùng nước kia" hay "nước nầy sẽ tấn công nước kia"
"sẽ có đói kém và dịch lệ" hay "thời kỳ đói khát và bệnh tật làm chết nhiều người"
"các biến cố làm kinh hãi người ta" hay "các biến cố khiến cho người ta phải sợ hãi"
Cụm từ nầy đề cập đến những việc kinh khủng mà Chúa Giê-xu đã nói sẽ xảy ra trong các câu LUK21:07
"họ sẽ bắt lấy các ngươi" hay "họ sẽ túm lấy các ngươi". Một số ngôn ngữ cần phải chỉ ra ai sẽ làm những việc nầy: "người ta sẽ tra tay trên các ngươi" hay "kẻ thù sẽ tra tay trên các ngươi"
"người ta sẽ” hoặc “kẻ thù sẽ”
Chúa Giê-xu đang nói với các môn đồ Ngài. Chữ "you" [các ngươi] ở số nhiều.
"nộp các ngươi cho cấp lãnh đạo các nhà hội". Cấp lãnh đạo các nhà hội sẽ cấm hết thảy những người Do thái khác không hiệp với các môn đồ vì họ theo Chúa Giê-xu.
"và giao các ngươi qua mấy nhà tù" hay "bỏ các ngươi vào nhà ngục"
Tham khảo: “vì cớ Ta” hoặc “vì các ngươi theo Ta.” (UDB)
"vì các ngươi nói cho họ biết chứng cớ về ta"
“Vì lẽ đó”. Chúa Giê-xu dùng cụm từ này để đề cập đến những điều Ngài đã nói, bắt đầu ở
"chuẩn bị lý trí của các ngươi" hay "quyết định chín chắn"
"đứng hình dung những gì các ngươi sẽ nói để tự biện hộ mình đối với những lời vu cáo"
"lời lẽ và sự khôn ngoan" hay "lời nói khôn ngoan"
Câu này có thể được dịch thành một câu mới. Tham khảo: “Kẻ thù các ngươi sẽ không thể phản bác các ngươi hoặc cáo buộc các ngươi đã nói sai” hoặc “kẻ thù các ngươi phải đồng ý rằng các ngươi đúng.”
Tham khảo: “cha mẹ các ngươi, anh em, bà con, và bạn bè sẽ giao nộp các ngươi cho nhà cầm quyền”
"họ sẽ giết một số trong các ngươi". Ý nghĩa khả thi là 1) "bậc cầm quyề sẽ giết chết một số trong các ngươi" hay 2) "người nào giao nộp các ngươi sẽ giết một số người trong các ngươi". Ý nghĩa thứ nhất thì thích ứng hơn.
"vì cớ ta" hay "vì các ngươi theo ta"
Cụm từ nầy có thể được dịch cách tích cực là "thậm chí từng sợi tóc trên đầu các ngươi đều sẽ được an toàn". Đây là lối nói có nghĩa là: "ngươi sẽ chẳng bị hại đâu". Cụm từ nầy đề cập đến một chi thể nhỏ nhất của một người để nhấn mạnh rằng toàn bộ con người sẽ không bị hư mất. Chúa Giê-xu đã phán rồi là một số họ sẽ bị nộp cho đến chết. Vì vậy, có người hiểu câu nầy ý nói rằng họ sẽ chẳng bị tổn hại về mặt thuộc linh, như trong câu: "những các việc nầy thực sự không làm hại các ngươi đâu".
"Do nắm chắc". Cụm từ nầy có thể được dịch là "nếu các ngươi không bỏ cuộc"
"các ngươi sẽ nhận được sự sống" hay "các ngươi sẽ sống cho đến đời đời"
Cụm từ nầy có thể diễn dạt với một động từ chủ động: "quân lính vây quanh thành Giê-ru-sa-lem".
"thành ấy không bao lâu nữa sẽ bị huỷ diệt" hay "không bao lâu nữa họ sẽ huỷ diệt thành ấy"
"chạy tránh nguy hiểm"
"đây là những ngày của sự phán xét" hay "trong những ngày nầy dân sự sẽ bị hình phạt" hay "đây là thời điểm mà Đức Chúa Trời sẽ trừng phạt thành phố"
"những việc đã được chép trong Kinh Thánh"
Tham khảo: “sẽ xảy ra”
Ý nghĩa khả thi là 1) dân sự trong xứ sẽ bị tai hoạ lớn và 2) sẽ có tai hoạ về mặt thuộc thể trong xứ.
"sẽ có cơn thạnh nộ cho dân nầy". Cụm từ nầy có thể được dịch là "dân nầy sẽ kinh nghiệm cơn giận của Đức Chúa Trời" hay "Đức Chúa Trời sẽ rất giận dữ với dân nầy". Phần thông tin ám chỉ về sự phán xét có thể được đưa ra sao cho rõ ràng: "dân nầy sẽ bị hình phạt" hay "Đức Chúa Trời sẽ trừng phạt dân nầy"
"họ sẽ bị giết bởi lưỡi gươm". Cụm từ nầy đề cập đến việc binh lính kẻ thù giết chóc.
Cụm từ nầy có thể được dịch với một mệnh đề chủ động: "Kẻ thù của họ sẽ bắt lấy họ rồi đưa họ đến các nước khác"
Ý nghĩa khả thi là 1) dân Ngoại sẽ chinh phục thành Jerusalm và chiếm lấy nó hay 2) dân Ngoại sẽ huỷ diệt thành Giê-ru-sa-lem hoặc 3) dân Ngoại sẽ huỷ diệt dân sự của thành Giê-ru-sa-lem.
Tham khảo: “kỳ của các dân ngoại đã kết thúc”
Cụm từ nầy có thể được dịch là "dân các nước sẽ bị khổ ãi" hay "dân các nước sẽ rất lo sợ"
"vì họ sẽ bị nhầm lẫn bởi tiếng om sòm và sóng đào" hay "và họ sẽ bị hoảng sợ bởi tiếng ồn ào của biển và các lượn sóng của nó". Điều nầy dường như đề cập đến going bão hay tai vạ bất thường dính dáng đến biển cả.
"những việc sẽ xảy ra trong thế gian" hay "những việc sắp xảy ra cho thế gian"
"những việc đầy năng quyền ở trên trời sẽ bị rung động". Ý nghĩa khả thi là 1) Những thứ trên trời như mặt trời, mặt trăng, và các ngôi sao sẽ không di động theo lộ trình bình thường nữa hay 2) các linh trên trời sẽ sầu não. Ý thứ nhứt được tiến cử.
Chúa Giê-xu đang đề cập đến chính mình Ngài.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "giáng xuống trong một đám mây"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "đầy quyền phép và vinh hiển" hay "và Ngài sẽ được đầy năng quyền và rất vinh hiển". "Quyền" ở đây có lẽ đề cập đến thẩm quyền phán xét thế gian của Ngài. "Vinh hiển" ở đây có thể đề cập dến sự sáng láng. Đôi khi Đức Chúa Trời tỏ ra sự cao trọng của Ngài với một sự sáng láng rực rỡ.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "đứng thẳng lên với sự tin cậy". Đôi lúc khi người ta sợ hãi, họ khom mình trốn tránh không muốn xem thấy hay bị tổn thương. Khi họ không còn e sợ nữa, họ mới đứng thẳng lên.
Đây là thành ngữ ý nói "hãy ngước mắt lên". Bằng cách nhìn lên, họ mới có thể thấy Đấng giải cứu của họ đang đến với họ.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "vì Đấng giải cứu của các ngươi đang với các ngươi" hay "vì các ngươi không bao lâu nữ sẽ được giai cứu"
Chúa Giê-xu kể một chuyện ngụ ngôn khi đang dạy các môn đồ.
"khi lá mới mọc ra"
Cụm từ nầy cũng có thể được dịch là "người ta tự xem thấy và nhận biết"
"mùa hạ sắp khởi sự". Mùa hạ trong xứ Y-sơ-ra-ên rất là khô, vì vậy mùa màng đã được thu hoạch ở đầu mùa hạ. Ý nghĩa là "mùa gặt sẵn sàng khởi sự". Đây là phần thông tin ám chỉ rằng họ sẽ nhìn thấy và nhận biết.
"nước Đức Chúa Trời khôg bao lâu nữa sẽ được thiết lập" hay "Đức Chúa Trời sẽ trị vì trên nước của Ngài"
Chúa Giê-xu tiếp tục dạy dỗ các môn đồ Ngài.
Ý nghĩa khả thi là 1) dòng dõi nào sẽ nhìn thấy dấu hiệu thứ nhứt trong các dấu hiệu mà Chúa Giê-xu đã nói tới hay 2) dòng dõi mà Chúa Giê-xu đang nói tới. Ý thứ nhứt thích hợp hơn.
Tham khảo: “sẽ vẫn sống khi”
"trời đất sẽ thôi không tồn tại nữa". Chữ "trời" ở đây đề cập đến bầu trời và vũ trụ bên trên nó.
"lời ta sẽ không bao giờ thôi không tồn tại" hay "lời ta sẽ không bao giờ luống nhưng đâu". Cụm từ nầy cũng có thể được dịch là “lời ta nhất định sẽ được ứng nghiệm" hay "những gì ta phán chắc chắn sẽ xảy ra"
"hầu cho ngươi không bị chiếm hữu với"
"tự nuông chìu không kềm chế được" hay "nuông chìu quá mức những thứ khiến coh ngươi thoải mái". Cụm từ nầy cũng có thể được dịch với các trường hợp đặc biệt như "kiêng ăn quá nhiều"
"lo lắng quá nhiều về đời nầy"
Có người cần phải thêm vào phần thông tin sau: "Vì nếu các ngươi không cẩn thận, ngày ấy sẽ thình lình đến trên các ngươi". Sự đến của ngày ấy sẽ là thình lình và bất ngờ cho những ai chưa sẵn sàng và trông đợi ngày ấy đến.
Cụm từ nầy có thể được dịch đặc biệt hơn như sau "ngày mà Con Người sẽ hiện đến".
Đây là một ví sánh ý nói "khi các ngươi không trông mong ngày ấy, giống như lưới bủa thình lình chụp lấy một con vật"
"điều đó tác động đến mọi người" hay "các biến cố của ngày ấy sẽ tác động mọi người"
"trên bề mặt của cả địa cầu" hay "trên cả đất"
Chúa Giê-xu kết thúc phần dạy dỗ các môn đồ Ngài.
Ý nghĩa khả thi là 1) "mạnh đủ để chịu đựng mọi sự nầy" hay 2) "có khả năng tránh khỏi mọi sự nầy"
"những việc nầy sẽ xảy ra". Chúa Giê-xu mới vừa nói cho họ biết về nữhng việc khủng khiếp sẽ xảy ra như bắt bớ, chiến tranh, và phu tù.
"đứng với sự tin cậy trước mặt Con Người". Có lẽ điều nầy đề cập đến lúc Con Người phán xét mọi người. Người nào chưa sẵn sàng sẽ sợ hãi về Con Người và sẽ không đứng nổi với sự tin cậy.
Đây là kết thúc của phần câu chuyện bắt đầu ở LUK21:01
"trong suốt ban ngày, Ngài dạy dỗ". Câu nối theo sau cho biết những việc mà Chúa Giê-xu và dân sự đã làm từng ngày trong tuần lễ trước khi Ngài chịu chết.
Cụm từ nầy ý nói "tại đền thờ" hay "trong hành lang đền thờ"
"lúc ban đêm Ngài ra khỏi thành" hay "Ngài ra ngoài thành mỗi đêm"
Đây là lối nói cho rằng "một số đông dân chúng" hay "hầu hết mọi người"
"sẽ đến sớm lúc ban sáng" hay "đã đến mỗi sáng sớm"
"đặng nghe Ngài dạy dỗ"
Họ hỏi : "Việc đó chừng nào sẽ xảy đến, và có điềm gì cho người ta biết rằng việc gần xảy đến không?”
Cha mẹ, anh em, người thân, bạn bè, và "mọi người” sẽ ghét họ.
Khi thành Giê-ru-sa-lem bị kẻ thù vây quanh, sự huỷ diệt của nó đã gần rồi.
Ngài phán sẽ có các dấu lạ nơi mặt trời, mặt trăng, cùng các ngôi sao, và sự sầu khổ của các dân trên đất.
Ngài cảnh cáo họ đừng có lòng nặng nề với sự trác táng, say sưa, cùng những lo lắng đời nầy.
Ngài cảnh cáo họ phải cẩn trọng và cầu nguyện.
1 Gần đến kỳ lễ Bánh Không Men, tức là lễ Vượt Qua, 2 các thầy tế lễ cả và các thầy thông giáo bàn nhau tìm cách giết Chúa Giê-xu, vì họ sợ dân chúng. 3 Sa-tan nhập vào Giu-đa Ích-ca-ri-ốt, một trong mười hai sứ đồ. 4 Giu-đa đi bàn tính với các thầy tế lễ cả và các lãnh binh đền thờ về cách mà hắn có thể giao nộp Chúa Giê-xu cho họ. 5 Họ mừng lắm và đồng ý cho hắn tiền. 6 Hắn ưng thuận và tìm cơ hội giao nộp Ngài cho họ lúc không có mặt dân chúng. 7 Đến ngày lễ bánh không men, là ngày dâng chiên con lễ Vượt Qua làm sinh tế. 8 Chúa Giê-xu sai Phi-e-rơ và Giăng đi, dặn rằng: “Hãy đi chuẩn bị bữa ăn lễ Vượt Qua cho chúng ta.” 9 Họ hỏi Ngài: “Thầy muốn chúng tôi dọn bữa ăn ở đâu?” 10 Ngài đáp: “Hãy nghe đây, khi anh em vào thành, một người mang vò nước sẽ gặp anh em. Hãy đi theo người ấy vào nhà, 11 và nói với chủ nhà: ‘Thầy hỏi ông: “Căn phòng khách nơi Thầy sẽ ăn lễ Vượt Qua với các môn đồ ở đâu?’” 12 Ông ấy sẽ chỉ cho anh em một căn phòng lớn có sẵn đồ đạc ở trên lầu. Hãy dọn bữa ăn tại đó.” 13 Vậy, hai người đi và thấy mọi việc xảy ra đúng y như Ngài đã n cho họ biết. Và họ chuẩn bị bữa ăn lễ Vượt Qua. 14 Đến giờ ăn, Chúa Giê-xu cùng ngồi vào bàn với các sứ đồ. 15 Rồi Ngài nói với họ: “Thầy rất muốn được cùng ăn lễ Vượt Qua này với anh em trước khi chịu khổ nạn. 16 Vì, Thầy nói để anh em rõ, Thầy sẽ không ăn lễ Vượt Qua nào nữa cho đến khi lễ ấy được trọn trong vương quốc của Đức Chúa Trời.” 17 Rồi Chúa Giê-xu lấy chén, tạ ơn và nói: “Hãy cầm lấy và cùng uống với nhau. 18 Vì Thầy cho anh em biết, Thầy sẽ không uống trái nho này nữa cho đến khi vương quốc của Đức Chúa Trời đến.” 19 Xong, Ngài lấy bánh, tạ ơn rồi bẻ ra và trao cho các môn đồ, mà nói rằng: “Đây là thân thể Thầy, vì anh em mà phó cho. Hãy làm điều này để nhớ Thầy.” 20 Cũng cùng một cách ấy, sau khi ăn xong, Ngài lấy chén và nói: “Chén này là giao ước mới trong huyết Thầy, đã vì anh em mà đổ ra. 21 Nhưng hãy lưu ý, kẻ phản Thầy đang ngồi chung bàn với Thầy. 22 Vì quả là Con Người sẽ đi con đường đã định. Nhưng khốn cho kẻ phản Ngài!” 23 Các sứ đồ bắt đầu hỏi nhau xem trong bọn mình ai là kẻ sẽ làm việc ấy. 24 Sau đó, các sứ đồ lại tranh cãi xem ai được xem là lớn hơn cả trong số họ. 25 Chúa Giê-xu nói với họ: “Vua của các dân ngoại bang dùng quyền lực mà cai trị, và những người vận dụng thẩm quyền trên dân chúng thì được gọi là các bậc lãnh đạo đáng kính. 26 Nhưng với anh em thì không như vậy. Người lớn nhất trong anh em phải trở nên như người nhỏ nhất. Và người quan trọng nhất phải trở nên như người phục vụ. 27 Người ngồi trên bàn và người phục vụ, ai lớn hơn? Chẳng phải là người ngồi trên bàn sao? Nhưng Thầy ở giữa anh em như một người phục vụ vậy. 28 Anh em là những người đã kiên định theo Thầy trong những thử thách mà Thầy chịu. 29 Thầy ban vương quốc cho anh em, như Cha đã ban vương quốc cho Thầy, 30 để anh em có thể ngồi đồng bàn cùng ăn uống với Thầy trong vương quốc của Thầy. Anh em sẽ ngồi trên ngai mà xét xử mười hai chi tộc Y-sơ-ra-ên. 31 Này, Si-môn, hãy cẩn thận, Sa-tan đã đòi sàng sảy anh như lúa mì. 32 Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh không mất đức tin. Vậy, khi anh đã quay trở lại, hãy khích lệ các anh em mình.” 33 Phi-e-rơ thưa với Ngài: “Lạy Chúa, tôi sẵn sàng đồng tù đồng chết với Ngài.” 34 Chúa Giê-xu đáp: “Phi-e-rơ, Thầy nói cho anh biết, hôm nay trước khi gà gáy, anh sẽ ba lần chối không biết Thầy.” 35 Rồi Chúa Giê-xu nói với họ: “Khi Thầy sai anh em đi mà không đem theo túi tiền, bao bị hay giày dép, anh em có thiếu thốn gì không?” Họ thưa: “Không thiếu gì cả.” 36 Ngài nói tiếp: “Nhưng bây giờ, ai có túi tiền, bao bị, hãy đem theo mình. Ai chưa có gươm, hãy bán áo ngoài đi mà mua. 37 Vì Thầy cho anh em biết rằng những lời này đang được ứng nghiệm: ‘Và Ngài đã bị kể vào hàng kẻ vô luật pháp.’ Vì những lời tiên tri đã chép về Thầy đang được ứng nghiệm.” 38 Họ thưa: “Lạy Chúa, nhìn này, ở đây có hai thanh gươm.” Ngài nói với họ: “Như vậy đủ rồi.” 39 Sau khi dùng bữa xong, như thường lệ, Chúa Giê-xu đến núi Ô liu, có các môn đồ đi theo. 40 Đến nơi, Ngài nói với họ: “Hãy cầu nguyện để anh em không sa vào sự cám dỗ.” 41 Ngài đi khỏi chỗ họ một khoảng cỡ chừng ném một hòn đá, quỳ gối xuống và cầu nguyện rằng: 42 “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này khỏi Con. Nhưng xin ý Cha được nên, chứ không phải ý Con.” 43 Có một thiên sứ từ trời hiện ra thêm sức cho Ngài. 44 Trong sự đau đớn tột cùng, Ngài cầu nguyện càng khẩn thiết hơn, mồ hôi Ngài như những giọt máu lớn rơi xuống đất. 45 Cầu nguyện xong, Ngài đứng dậy đi đến chỗ các môn đồ thì thấy họ đang ngủ vì buồn phiền. 46 Ngài hỏi họ: “Sao anh em lại ngủ? Hãy dậy và cầu nguyện để anh em không sa vào sự cám dỗ.” 47 Khi Ngài còn đang nói, có một đám đông xuất hiện, do Giu-đa, một trong mười hai sứ đồ, dẫn đầu. Hắn đến gần Chúa Giê-xu để hôn Ngài. 48 Nhưng Ngài nói với hắn: “Giu-đa, anh định phản Con Người bằng một cái hôn sao?” 49 Những môn đệ có mặt với Chúa chứng kiến việc xảy ra liền thưa với Ngài: “Lạy Chúa, chúng tôi có nên dùng gươm đánh không?” 50 Nói rồi, một người trong đám họ chém đầy tớ của thầy tế lễ thượng phẩm, cắt đứt tai phải của anh ta. 51 Chúa Giê-xu nói: “Đủ rồi.” Ngài sờ tai người đầy tớ và chữa lành cho anh. 52 Chúa Giê-xu nói với các thầy tế lễ cả, các lãnh binh đền thờ, cùng các trưởng lão đã đến bắt Ngài, rằng: “Các ông đem gươm và gậy đến bắt tôi như bắt một tên cướp sao? 53 Hằng ngày tôi ở giữa các ông trong đền thờ thì các ông không ra tay. Nhưng đây là giờ của các ông và của thế lực tối tăm.” 54 Họ bắt Ngài, dẫn đi và giải vào nhà của thầy tế lễ thượng phẩm. Còn Phi-e-rơ thì theo Ngài xa xa. 55 Khi họ đã đốt một đống lửa ở giữa sân và ngồi lại với nhau, Phi-e-rơ đến ngồi chung với họ. 56 Qua ánh lửa, một người đầy tớ gái thấy Phi-e-rơ thì nhìn ngay vào ông và nói: “Người này cùng bọn với ông ấy.” 57 Nhưng Phi-e-rơ chối rằng: “Này bà, tôi có biết ông ta đâu.” 58 Một lúc sau, có một người khác thấy ông và nói: “Anh cũng là một người trong đám họ.” Nhưng Phi-e-rơ chối, rằng: Không phải vậy đâu, ông ơi.” 59 Khoảng một giờ sau, một người khác lại khẳng định rằng: “Đúng là người này cùng bọn với ông ta, vì cũng là dân Ga-li-lê.” 60 Nhưng Phi-e-rơ nói: “Anh kia, tôi không biết anh đang nói gì.” Ngay khi ông còn đang nói, thì gà gáy. 61 Chúa quay lại nhìn Phi-e-rơ, ông nhớ lại lời Ngài đã nói với mình rằng: “Hôm nay, trước khi gà gáy, anh sẽ chối Thầy ba lần.” 62 Phi-e-rơ đi ra ngoài và khóc lóc đắng cay. 63 Rồi những kẻ canh giữ Chúa Giê-xu nhạo báng và đánh đập Ngài. 64 Họ bịt mắt Ngài lại rồi hỏi Ngài rằng: “Hãy đoán đi, xem ai đã đánh ngươi?” 65 Họ dùng nhiều lời khác nhục mạ và phỉ báng Ngài. 66 Đầu buổi sáng, các trưởng lão trong dân chúng nhóm nhau lại cùng với các thầy tế lễ cả và các thầy thông giáo. Họ giải Ngài lên Hội đồng Công luận 67 và nói rằng: “Nếu anh là Chúa Cứu Thế thì hãy cho chúng tôi biết.” Nhưng Ngài nói với họ: “Nếu tôi nói, các ông sẽ không tin, 68 còn nếu tôi hỏi thì các ông sẽ không trả lời. 69 Nhưng từ giờ trở đi, Con Người sẽ ngồi bên tay phải quyền năng của Đức Chúa Trời.” 70 Mọi người hỏi lại: “Vậy anh có phải là Con Đức Chúa Trời không?” Chúa Giê-xu đáp: “Các ông nói như vậy.” 71 Họ bảo: “Chúng ta còn cần nhân chứng làm gì nữa? Chính chúng ta đã nghe miệng hắn nói ra.”
Đây là phần tiếp theo của câu chuyện. Giu-đa đồng ý phản bội Chúa Giê-xu. Các câu này đưa ra thông tin bối cảnh về phần này của câu chuyện.
Từ này được dùng đê mở đầu phần mới của câu chuyện.
Ngày lễ được gọi theo danh xưng nầy vì trong kỳ lễ, người Do thái không ăn bánh được làm với men. Cụm từ nầy có thể được dịch là "ngày lễ là lúc họ ăn bánh không men"
Đây là bánh không có chút men nào trong bột để bột dậy lên. Bánh nầy được gọi là "Bánh không có men"
"gần như là sắp sửa bắt đầu"
"họ sẽ tìm cách khiến cho Chúa Giê-xu bị án tử hình". Các thầy tế lễ và các thầy thông giáo không có quyền đích thân họ giết Chúa Giê-xu, nhưng họ hy vọng tìm người khác giết Ngài.
Ý nghĩa khả thi là 1) "sợ những gì dân chúng sẽ làm" hay 2) "sợ dân chúng tôn Chúa Giê-xu lên làm vua"
Đây là mở đầu của hành động trong phần này của câu chuyện.
Có lẽ điều nầy tương tự với việc quỉ ám.
"lãnh đạo của các thầy tế lễ"
"lãnh đạo lính canh đền thờ"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "làm cách nào ông ta giúp họ bắt lấy Chúa Giê-xu"
"các thầy tế lễ cả và thầy đội"
Chữ "nó" đề cập đến Giuđa.
"đồng ý" mặc dù đây là sự lặp lại
Đây là một hành động tiếp diễn sau khi phần này trong câu chuyện kết thúc.
"giúp họ bắt lấy Chúa Giê-xu"
"theo cách riêng" hay "khi chẳng có đám đông ở quanh Ngài"
Đây là phần tiếp theo của câu chuyện. Chúa Giê-xu sai Phi-e-rơ và Giăng đi ra để chuẩn bị cho bữa ăn Lễ Vượt Qua. Câu 7 đưa ra thông tin bối cảnh về diễn biến của câu chuyện.
"Ngày lễ bánh không men" hay "ngày ăn bánh qui bột khô". Đây là ngày người Do thái hết thảy sẽ đem bánh không men ra khỏi nhà của họ. Khi ấy họ sẽ tưởng niệm Lễ Bánh Không Men trong bảy ngày.
"dân sự phải giết chiên con cho bữa ăn Lễ Vượt Qua". Mội gia đình hay mỗi nhóm dân sự sẽ giết một chiên con và cùng ăn với nhau, vì vậy có nhiều chiên con đã bị giết.
Chúa Giê-xu kể cả Phi-e-rơ và Giăng khi Ngài phán "chúng ta". Phi-e-rơ và Giăng sẽ là một phần của nhóm sẽ ăn bữa ăn đó.
Đây là từ ngữ ý nói "sửa soạn". Chúa Giê-xu không nhất thiết bảo Phi-e-rơ và Giăng lo nấu nướng.
Cụm từ "chúng ta" không bao gồm Chúa Giê-xu. Chúa Giê-xu không phải là một phần của nhóm sẽ dọn bữa ăn.
"lo dọn bữa ăn" hay "sửa soạn bữa ăn"
Chữ "Ngài" đề cập đến Chúa Giê-xu.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "các ngươi sẽ gặp một người màng vò nước"
"mang cái bình có nước trong đó". Có lẽ người ấy đã vác cái vò trên vai mình.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "hãy đi theo người, rồi vào trong nhà"
Điều nầy bắt đầu với một trưng dẫn trực tiếp chỗ Chúa Giê-xu nói với các môn đồ biết những gì họ sẽ nói. Kinh Thánh đề cập đến điều nầy như một trưng dẫn trực tiếp: "Thầy của chúng ta nói sẽ chỉ cho chúng ta"
Từ nầy đề cập đến Chúa Giê-xu.
"ăn lễ Vượt Qua"
Chúa Giê-xu tiếp tục dạy dỗ Phi-e-rơ và Giăng.
"chủ nhà sẽ chỉ cho các ngươi"
"Vậy Phi-e-rơ và Giăng bèn đi"
Đây là sự kiện tiếp theo trong phần câu chuyện về Lễ Vượt Qua. Chúa Giê-xu và các môn đồ Ngài đang ngồi dự bữa ăn Lễ Vượt Qua.
"ta muốn rất nhiều"
Cụm từ nầy được sử dụng để nhấn mạnh tầm quan trọng những gì Chúa Giê-xu sẽ nói kế đó.
Ý nghĩa khả thi là 1) "cho đến khi mục đích của Lễ Vượt Qua được hoàn tất" hay 2) "cho đến khi chúng ta kỹ niệm Lễ Vượt Qua sau cùng". Cụm từ nầy có thể được dịch với động từ chủ động: "cho đến khi Đức Chúa Trời làm cho nó được ứng nghiệm" hay "cho đến khi Đức Chúa Trời hoàn tất mục đích của Lễ Vượt Qua"
"khi Ngài dâng lời cảm tạ với Đức Chúa Trời"
"Ngài phán cùng các sứ đồ Ngài"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "hãy chia sẻ rượu nầy giữa vòng các ngươi" hay "hết thảy các ngươi uống một chút rượu nầy"
Cụm từ nầy được dùng ở đây để nhấn mạnh tầm quan trọng những gì Chúa Giê-xu sẽ phán kế đó.
Cụm từ nầy đề cập đến nước ép từ trái nho mọc trong vườn nho. Rượu được làm từ nước nho ép lên men.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "cho đến khi nước của Đức Chúa Trời được thiết lập" hay "cho đến khi Đức Chúa Trời thiết lập vương quốc của Ngài" hoặc "cho tới khi Đức Chúa Trời trị vì trong nước của Ngài"
Bánh nầy không có men trong đó, vì vậy bánh rất mỏng.
"Ngài xé ra". Ngài có thể chia bánh ấy ấy thành nhiều miếng hay Ngài có thể chia nó ra thành hai mảnh rồi ban bánh ấy cho các sứ đồ chia ra giữa vòng họ. Nếu được, hãy sử dụng cách nói có thể dùng được cho từng tình huống.
Ý nghĩa khả thi là 1) "bánh nầy là thân thể ta" và 2) "bánh nầy tiêu biểu cho thân thể ta"
"thân thể ta, mà ta đã phó cho các ngươi" hay "thân thể ta, mà ta hy sinh cho các ngươi". Vì ngôn ngữ phải trình bày cho người nghe, cụm từ nầy có thể được dịch là "thân thể ta, ta phó cho bậc cầm quyền giết đi vì cớ các ngươi".
"hãy ăn bánh nầy"
"để nhớ ta"
Từ ngữ "chén" đề cập đến rượu ở trong chén. Cụm từ nầy có thể được dịch là "rượu trong chén nầy" hay "rượu nầy"
"là giao ước mới, sẽ có hiệu quả nhờ huyết ta" hay "là giao ước mới, sẽ được hợp pháp bởi huyết ta" hoặc "tiêu biểu cho giao ước mới, Đức Chúa Trời sẽ thiết lập khi huyết ta đã đổ ra"
"huyết ta, đã đổ ra trong sự chết vì các ngươi" hay "huyết ta, sẽ đổ ra từ các vết thương của ta vì các ngươi khi ta chết đi". Chúa Giê-xu đã phán về sự chết của của Ngài bằng cách đề cập đến thân thể Ngài bị vỡ ra và huyết Ngài bị đổ ra. Đây là phép hoán dụ.
Jesus continues speaking to his apostles.
"kẻ phản ta"
"Thật, vì Con Người sẽ đi" hay "Vì Con Người sẽ chết"
Tham khảo: “như Đức Chúa Trời đã định” hoặc “như Đức Chúa Trời đã lên kê hoạch” (UDB)
"nhưng khốn cho người nầy phản Con Người!" hay "nhưng khủng khiếp thay là kẻ phản Con Người!"
"các sứ đồ bằt đầu bàn bạc giữa vòng họ"
"quan trọng nhất"
"Chúa Giê-xu phán cùng các sứ đồ"
"cai trị khắt khe trên họ" hay "thích thi hành quyền lực trên họ"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "thích được xưng" hay "tự xưng mình". Có lẽ dân sự không nghĩ những bậc cầm quyền là những người cai trị đáng tôn trọng.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "những nhà từ thiện" hay "cấp lãnh đạo hay giúp đỡ mọi người"
Chúa Giê-xu tiếp tục dạy dỗ các môn đồ Ngài.
"các ngươi không nên xử sự như thế"
"ít quan trọng nhất". Khi cấp lãnh đạo thường không phải là người cao tuổi hơn và được gọi là "trưởng lão", "kẻ nhỏ nhất" sẽ là kẻ nhỏ nhất lãnh đạo.
Từ ngữ nầy nối các mạng lịnh của Chúa Giê-xu trong câu 26 với toàn bộ câu 27. Ý tưởng là "Hãy để cho nhân vật quan trọng nhất phục vụ vì ta là tôi tớ". Chúa Giê-xu, nhân vật quan trọng nhất giữa vòng họ, phục vụ họ, vì vậy nhân vật quan trọng nhất giữa vòng họ phải phục vụ.
"người dọn thức ăn" hay "người phục vụ cho người đang ngồi". Điều nầy đề cập đến một tôi tớ.
"người lớn hơn" hay "người quan trọng hơn". Chúa Giê-xu đã đưa ra câu hỏi mang tính hùng biện để giới thiệu câu trả lời của Ngài cho thắc mắc của các môn đồ về sự cao trọng trong câu 24. Thắc mắc mang tính hùng biện nầy is có thể được dịch là "ta muốn ngươi nghĩ đến ai là lớn hơn". (
Cụm từ nầy có thể được dịch là "người đang dùng bữa"
Đây là thắc mắc mang tính hùng biện. Câu trả lời được ám chỉ như sau: "Tất nhiên là người ngồi tại bàn thì quan trọng hơn tôi tớ!"
Chữ "nhưng" xuất hiện ở đây vì có một sự thương phản giữa điều người ta trông mong Chúa Giê-xu phải trở thành và những gì Ngài vốn có. Cụm từ nầy có thể được dịch là "nhưng ta đang hầu việc các ngươi đây"
"đã trụ với ta qua những phấn đấu của ta"
Một số ngôn ngữ sẽ cần phải thay đổi trình tự. "Giống như cha ta đã ban nước cho ta, ta ban nước ấy cho các ngươi"
"ta lập các ngươi làm những người cai trị trong vương quốc của Đức Chúa Trời" hay "ta ban cho các ngươi thẩm quyền để cai trị trong vương quốc" hay "ta sẽ lập các ngươi làm vua"
"giống như Cha ta đã ban quyền cai trị làm vua trong vương quốc của Ngài"
"ngồi trên ngai" là hoán dụ cho "làm công việc của nhà vua". Cụm từ nầy ý nói "các ngươi sẽ làm việc như nhà vua" hay "các ngươi sẽ làm công việc của bậc vua chúa"
Từ nầy có thể được dịch là "ghế của nhà vua" hay "loại ghế được làm cho bậc vua chúa"
Chúa Giê-xu phán trực tiếp với Si-môn.
Chúa Giê-xu kêu tên nầy hai lần tỏ ra rằng điều Ngài sắp sửa nói với ông rất là quan trọng.
Chữ "you" [các ngươi] đề cập đến hết thảy các sứ đồ. Nhiều loại ngôn ngữ có hình thức khác về chữ "you" sẽ sử dụng hình thức số nhiều.
Đây là ẩn dụ ý nói "thử ngươi để tìm xem có gì sai hay không". Ý nghĩa có thể được nói rõ như trong Kinh Thánh: "sàng sảy ngươi". Và cụm từ nầy có thể được dịch như một ví sánh: "giống như ai đó đang sảy gạo như trong Kinh Thánh.
Chữ "you" [ngươi] ở đây đề cập đặc biệt đến Si-môn. Nhiều thứ ngôn ngữ có những hình thức khác về chữ “you” sẽ sử dụng nhình thức số ít.
Cụm từ nầy có thể được tỏ ra theo cách tích cực như "ngươi sẽ tiếp tục có đức tin" hay "ngươi sẽ tiếp tục tin cậy ta"
"sau khi ngươi khởi sự theo ta trở lại" hay "sau khi ngươi khởi sự phục vụ ta trở lại"
Cụm từ nầy đề cập đến các môn đồ khác. Cụm từ nầy có thể được dịch là "các tín hữu đồng lao của ngươi" hay "anh em ngươi trong đức tin" hoặc "các môn đồ khác".
Cụm từ nầy có thể nói theo cách tích cực: "gà sẽ gáy … chỉ sau khi ngươi chối". Trật tự các chi tiết của câu nói có thể được đảo lộn lại: "ngươi sẽ chối ba lần ngươi không biết ta trước khi gà gáy hôm nay"
Câu này có thể được nói tích cực: “hôm nay gà sẽ gáy sau khi ngươi chối Ta.”
Ở đây, tiếng gáy của con gà được sử dụng như một hoán dụ cho thời điểm ban ngày đó. Gà thường hay gáy trước khi mặt trời xuất hiện vào ban sáng.
ban ngày của người Do thái bắt đầu lúc mặt trời lặn. Chúa Giê-xu đang nói sau khi mặt trời đã lặn. Gà sẽ gáy ngay trước khi trời sáng. Buổi sáng là một phần của "hôm nay". Cụm từ nầy có thể được dịch là "tối nay" hay "ban sáng"
Chúa Giê-xu chuyển sự chú ý của Ngài qua việc phán với tất cả các môn đồ.
Chúa Giê-xu đang nói với các sứ đồ Ngài. Vì vậy, các thứ ngôn ngữ có hình thức khác về chữ "you" nên sử dụng hình thức số nhiều.
túi bạc là cái túi để đựng tiền. Ở đây nó được sử dụng đề cập đến "tiền bạc"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "túi xách của du khách" hay "đồ ăn", chứa trong bao một khi họ có bao để đem theo.
Chúa Giê-xu dùng câu hỏi để giúp các sứ đồ nhớ lại người ta đã chu cấp cho họ như thế nào khi họ ra đi. Tham khảo: “Khi…nhưng các ngươi vẫn có đầy đủ.’ Và các môn đồ đồng ý nói rằng, ‘Vâng, chúng tôi nhận được mọi thứ mình cần.’”
"Chúng tôi không thiếu thốn gì cả” hoặc “Chúng tôi có mọi thứ mình cần”
Chúa Giê-xu không đề cập đến một người đặc biệt nào chưa có gươm. Cụm từ nầy có thể được dịch là "nếu ai chưa có gươm, người ấy nên bán áo ngoài của mình"
"áo choàng" hay "áo khoác ngoài"
Chúa Giê-xu kết thúc phần nói chuyện với các môn đồ.
"những điều tiên tri viết về ta trong Kinh Thánh"
Các sứ đồ vốn hiểu rõ rằng Đức Chúa Trời sẽ khiến cho mọi sự chép trong Kinh Thánh phải xảy ra. Bạn có thể làm cụ thể nguyên cụm từ: "Đức Chúa Trời sẽ khiến cho mọi sự đã được chép trong Kinh Thánh đều được ứng nghiệm"
"Người ta xem Ngài là một trong nữhng kẻ sống phi luật pháp". Một số ngôn ngữ cần phải trình bày cụ thể: "Điều nầy đã được chép trong Kinh Thánh. 'Và Ngài bị kể vào hàng kẻ dữ"
"những kẻ phá vỡ luật pháp" hay "tội phạm"
Cụm từ nầy không rõ ràng trong tiếng Hi-lạp. Ý nghĩa khác là: "Sự sống ta đang đi đến hồi kết cuộc"
Cụm nầy đề cập đến ít nhất hai trong số sứ đồ của Chúa Giê-xu.
Ý nghĩa khả thi là 1) "nghĩa là đủ gươm rồi" hay 2) "nói bấy nhiêu là đủ rồi". Khi Chúa Giê-xu phán họ nên mua gươm, Ngài chủ yếu nói với họ về mối nguy hiểm mà hết thảy hõ sẽ đối diện với. Thực sự Ngài không muốn họ mua gươm và chiến đấu.
Đây là phần tiếp theo của câu chuyện. Chúa Giê-xu lên Núi Ô-li-ve để cầu nguyện.
Từ ngữ nầy đề cập đến sự trọn vẹn của bữa ăn Lễ Vượt Qua.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "để các ngươi không bị cám dỗ" hay "để các ngươi không phạm tội khi các ngươi bị cám dỗ" hoặc "để các ngươi không bị cám dỗ nghiệt ngã đến nỏi các ngươi phạm tội"
Cụm từ nầy ý nói: "chừng một khoảng mà người ta ném một hòn đá” Tham khảo cách dịch: "một khoảng ngắn" hay với một số đo như "chừng 30 mét".
Jesus will bear the guilt of all the sin of human history by the agony of the cross. He prays to his Father asking if there is another way.
Đây là một danh hiệu quan trọng dành cho Đức Chúa Trời.
Chúa Giê-xu đang đề cập đến sự thương khó mà Ngài sắp sửa gánh chịu giống như thể đây là cái chén mà Ngài sẽ phải uống. Tham khảo cách dịch: "xin cất khỏi tôi chén đau khổ nầy" hay "cất sự đau khổ nầy khỏi tôi" hoặc "giải cứu tôi không phải chịu khổ giống như vầy"
Cụm từ nầy có thể được dịch là: "Tuy nhiên, tôi muốn ý Ngài sẽ được nên hơn là ý của tôi".
"hiện ra với Chúa Giê-xu"
"khích lệ Ngài"
"Ngài ở trong sự đau thương, và Ngài đã cầu nguyện"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "khi Chúa Giê-xu chỗi dậy sau khi cầu nguyện xong" hay "sau khi cầu nguyện xong, Chúa Giê-xu đứng dậy và"
"thấy họ đang ngủ vì họ rất buồn rầu"
Đây là câu hỏi hùng biện. Ý nghĩa khả thi là 1) "ta ngạc nhiên khi ácc ngươi nằm ngủ trong lúc nầy" hay 2) "các ngươi không nên ngủ trong lúc nầy!"
"bị cám dỗ" hay "phạm tội khi các ngươi bị cám dỗ"
Chữ "behold" [kìa] báo cho chúng ta biết có một nhóm mới trong câu chuyện. Ngôn ngữ của bạn có lẽ có cách làm việc nầy. Anh ngữ sử dụng "có một lũ đông xuất hiện …”
Cụm từ nầy có thể được dịch là "dẫn họ đến cùng Chúa Giê-xu". Giuđa sắp tỏ ra cho dân chúng biết nơi Chúa Giê-xu ở. Hắn không bảo đám đông kia những gì phải làm.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "chào Ngài bằng một nụ hôn" hay "chào Ngài bằng cách hôn Ngài". Khi người ta chào nhau, những người khác dù là gia đình hay bạn hữu, hõ sẽ hôn họ nơi một bên má hay hai bên má. Nếu độc giả của bạn thấy kỳ kỳ khi nói rằng người đàn ông nầy hôn người đàn ông kia, bạn có thể dịch điều nầy theo cách chung chung: "dành cho Ngài một sự chào đón thân hữu"
Chúa Giê-xu sử dụng câu hỏi hùng biện nầy để quở Giuđa: "đây là nụ hôn mà người sử dụng để phản Con Người sao!" Giuđa có thể chọn sử dụng một dấu hiệu bằng tay hay lời nói như "Giê-xu là người đứng gần hòn đá lớn kia" để chỉ ra Chúa Giê-xu, nhưng thay vì thế hắn ta đã hành xử dối trá khi sử dụng nụ hôn, là dấu hiệu của tình yêu thương.
Chúa Giê-xu đang sử dụng thuật ngữ nầy để đề cập đến chính mình Ngài.
Cụm từ nầy đề cập đến các môn đồ của Chúa Giê-xu.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "các thầy tế lễ và binh lính đã đến đặng bắt lấy Chúa Giê-xu"
"đáng đầy tớ của thầy tế lễ thượng phẩm bằng thanh gươm"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "đụng đến người chỗ tai bị chém đứt"
"Có phải các ngươi ra đây với gươm và gậy vì các ngươi nghĩ ta là kẻ trộm cướp chăng?" Đây là câu hỏi hùng biện. Cụm từ nầy có thể được dịch là "các ngươi biết rõ ra không phải là phường trộm cướp, tuy nhiên các ngươi ra đây với ta đem theo gươm và gậy"
"ta ở giữa các ngươi mỗi ngày"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "trong hành lang đền thờ" hay "tại đền thờ"
Thành ngữ nầy ý nói "bắt lấy ta"
"thời thế của các ngươi"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "thì giờ của chúa của sự tối tăm" hay "thì giờ mà STham khảo cách dịch:an sẽ thực hiện những việc gian ác khi hắn muốn làm". "Quyền của sự tối tăm" là hoán dụ nói tới STham khảo cách dịch:an, chúa của điều ác.
"dẫn Chúa Giê-xu ra khỏi vườn, chỗ mà họ bắt Ngài"
Cụm từ nầy có thể được dịch là "mấy người trong số họ đã nhúm lửa lên". Lửa giữ cho họ được ấm.
Đây là sân nhà của thầy cả thượng phẩm. Có tường bao quanh, song không có mái.
"ngó thẳng vào Phi-e-rơ mà nói với người khác ở trong sân"
người đàn bà đang nói cho người ta biết về Phi-e-rơ đã ở với Chúa Giê-xu. Có lẽ bà ta không biết tên của Phi-e-rơ.
"nhưng Phi-e-rơ nói rằng điều đó không thật"
Phi-e-rơ không biết tên của người đàn bà. Ông không rủa bà ta bằng cách gọi bà ta là "hỡi đàn bà kia". Nếu người ta nghĩ ông đang rủa bà ta, bạn có thể sử dụng một cách thức khả thi về đàn ông nói với đàn bà mà không quen biết, hay bạn có thể tuỳ chọn lời lẽ.
Xem chú thích trên về "đàn bà kia"
"nói cách khăng khăng" hay "nói lớn tiếng"
"người nầy" đề cập đến Phi-e-rơ. Người nói kia có lẽ không biết tên của Phi-e-rơ.
Thành ngữ nầy được sử dụng để nói rất mạnh mẽ: "những gì ngươi nói chẳng thật chút nào" hay "những gì ngươi nói hoàn toàn giả dối"
"trong khi Phi-e-rơ đang nói"
"lời lẽ của Chúa Giê-xu" hay "những gì Chúa Giê-xu đã phán"
Chúa Giê-xu đã phán lúc chiều về những điều sẽ xảy ra ngắn ngủi trước khi bình minh hay lúc bình minh. Vì vậy cụm từ nầy có thể được dịch là "tối nay".
"sau khi họ che mắt Ngài hầu cho Ngài không thể nhìn thấy"
Binh lính không tin rằng Chúa Giê-xu là một vị tiên tri. Thay vì thế, chúng tin rằng một tiên tri thật sẽ biết rõ ai đánh mình cho dù không thể nhìn thấy. Họ đã gọi Chúa Giê-xu là một tiên tri, nhưng họ muốn tỏ ra rằng Ngài không phải là một tiên tri. Cách dịch khác: “Hãy chứng minh ngươi là một tiên tri đi. Hãy nói cho chúng ta biết ai đánh ngươi” hay “Nào, vị tiên tri, ai đã đánh ngươi chứ?”
"hãy nói ra lời lẽ từ Đức Chúa Trời!" Phần thông tin ám chỉ, ấy là Đức Chúa Trời sẽ nói cho Chúa Giê-xu biết ai đã đánh Ngài một khi Chúa Giê-xu bị che mắt mà không thể nhìn thấy.
Ý nghĩa khả thi là 1) "các trưởng lão đưa Chúa Giê-xu đến toà công luận" hay 2) "lính canh dẫn Chúa Giê-xu đến toà công luận của các trưởng lão". Một số ngôn ngữ có thể tránh không nói ai dẫn Ngài bằng cách sử dụng đại danh từ "they" (họ) hay bằng cách sử dụng một động từ thụ động: "Chúa Giê-xu bị dẫn đi đến toà công luận".
"các trưởng lão nói với Chúa Giê-xu"
"hãy xưng ra rằng ngươi có phải là Chúa Cứu Thế không"
Chúa Giê-xu đang nói rằng không ăn nhằm chi hết một khi Ngài nói hay tra gạn họ để nói, họ sẽ không đáp ứng cách chính xác. Hai cụm từ nầy cùng nhau chỉ ra thái độ của Chúa Giê-xu cho thấy toà công luận không thực sự tìm kiếm lẽ thật.
Đây là câu thứ nhứt trong hai câu giả định bởi Chúa Giê-xu. Đây là cách thức mà Chúa Giê-xu dung để đáp ứng mà không cung ứng cho họ lý do để nói rằng Ngài mắc vào tội phạm thượng. Ngôn ngữ của bạn có thể có cách thức chỉ ra rằng hành động không thực sự xảy ra.
Đây là câu nói giả định thứ nhì.
"từ ngày nầy" hay "khởi sự từ hôm nay"
Chúa Giê-xu sử dụng cụm từ nầy đề cập đến Chúa Cứu Thế. Ngài đang ám chỉ rằng Ngài đang nói đến chính mình Ngài, nhưng các trưởng lão muốn hỏi xemđấy có phải là điều thực sự Ngài đã nói hay không.
người Do thái vốn hiểu rằng không một ai có thể ngồi ở đó. Họ đã xem điều nầy tương đương với câu nói "sẽ ở với Đức Chúa Trời như Đức Chúa Trời".
"Đức Chúa Trời toàn năng". Ở đây "quyền phép" đề cập đến thẩm quyền tối thượng của Ngài.
Toà công luận đưa ra câu hỏi nầy vì họ muốn Chúa Giê-xu khẳng định cụ thể sự hiểu biết của họ rằng Ngài nói Ngài là Con của Đức Chúa Trời. Cụm từ nầy có thể được dịch là "vậy khi ngươi nói thế, có nghĩa là ngươi là Con của Đức Chúa Trời?"
Đây là một danh hiệu quan trọng chỉ về Chúa Giê-xu.
"phải, chính các ngươi nói thế"
Đây là câu hỏi mang tính hùng biện. Ý nói "chúng ta chẳng còn cần chứng cớ chi nữa!"
Thành ngữ nầy sử dụng chi thể của thân thể (cái miệng) đề cập đến con người. Ý nói "trực tiếp từ Ngài". Nó nhấn mạnh sự thực chính mình Chúa Giê-xu đã nói những việc mà họ đang cáo Ngài nói.
Lễ bánh không men, còn gọi là Lễ Vượt Qua.
Họ dự lễ nầy trên một phòng cao trong thành Giê-ru-sa-lem.
Họ dự lễ nầy trên một phòng cao trong thành Giê-ru-sa-lem.
Ngài phán: "Nầy là thân thể ta vì các ngươi mà phó cho. Hãy làm sự nầy để nhớ ta”.
Kẻ lớn nhất là người chuyên phục vụ.
Lời tiên đoán trong Kinh Thánh chép: "Ngài đã bị kể vào hàng kẻ dữ.”
Họ đang ngủ.
Hắn phản Chúa bằng một nụ hôn.
Họ đưa Ngài đến nhà thầy tế lễ thượng phẩm.
Họ chế nhạo và đánh đòn Ngài, và xúc phạm Ngài.
1 Cả hội đồng đứng dậy, áp giải Chúa Giê-xu đến trước mặt Phi-lát. 2 Họ bắt đầu tố cáo Ngài, rằng: “Chúng tôi phát hiện người này đầu độc dân tộc chúng tôi, ngăn họ đóng thuế cho Sê-sa, và tự xưng là Chúa Cứu Thế, là vua.” 3 Phi-lát hỏi Ngài rằng: “Có phải anh là Vua của người Do Thái không?” Chúa Giê-xu đáp: “Chính ngài nói như vậy.” 4 Phi-lát nói với các thầy tế lễ cả và đám đông rằng: “Tôi không thấy người này có tội gì cả.” 5 Nhưng họ cứ khăng khăng nói rằng: “Hắn xui giục dân chúng làm loạn, giảng dạy khắp xứ Giu-đê, khởi đầu từ miền Ga-li-lê cho đến tận nơi này.” 6 Nghe như vậy, Phi-lát hỏi xem Ngài có phải là dân Ga-li-lê không. 7 Khi biết được Ngài thuộc thẩm quyền của Hê-rốt, ông ta liền giao Ngài cho Hê-rốt, lúc ấy cũng đang ở Giê-ru-sa-lem. 8 Hê-rốt thấy Chúa Giê-xu thì mừng lắm vì từ lâu vua đã muốn gặp Ngài. Vua nghe nói về Ngài, và hi vọng được thấy Ngài làm phép lạ. 9 Hê-rốt hỏi Chúa Giê-xu nhiều điều, nhưng Ngài không đáp lại lời nào. 10 Các thầy tế lễ cả và các thầy thông giáo đứng đó hùa nhau cáo tội Ngài. 11 Hê-rốt và quân lính của ông ta thì lăng mạ, nhạo báng Ngài, mặc đồ sặc sỡ cho Ngài, rồi ctrao trả Ngài cho Phi-lát. 12 Trong chính ngày ấy, Hê-rốt và Phi-lát trở thành bạn (dù trước đó họ là kẻ thù của nhau). 13 Rồi Phi-lát triệu tập các thầy tế lễ cả, các quan chức và dân chúng lại, 14 mà nói với họ: “Các ông đem người này đến đây và cáo anh ta cầm đầu dân chúng làm loạn, nhưng này, sau khi hỏi tra anh ta trước mặt các ông, tôi không thấy anh ta phạm một tội nào trong những tội mà các ông đã cáo buộc. 15 Cả Hê-rốt cũng vậy, vì vua đã giao anh lại cho chúng tôi, vì thấy anh chẳng làm điều gì đáng chết cả. 16 Cho nên, tôi sẽ cho đánh phạt anh ta, rồi thả ra.” 17[1]18 Nhưng họ đồng thanh kêu lên rằng: “Hãy giết người này đi và tha Ba-ra-ba cho chúng tôi!” 19 Ba-ra-ba là kẻ bị bắt giam vì tham gia một cuộc dấy loạn trong thành phố và vì tội giết người. 20 Phi-lát muốn tha Chúa Giê-xu nên ông ta lại nói với họ. 21 Nhưng họ kêu lên: “Đóng đinh hắn trên cây thập tự! Đóng đinh hắn trên cây thập tự!” 22 Phi-lát nói với họ đến lần thứ ba rằng: “Nhưng tại sao chứ, anh ta đã làm gì sai? Ta chẳng thấy anh ta phạm tội gì đáng chết. Cho nên, đánh đòn xong tôi sẽ phóng thích anh ta.” 23 Nhưng họ cứ lớn tiếng khăng khăng đòi phải đóng đinh Chúa Giê-xu. Và tiếng của họ đã thắng. 24 Ông quyết định làm theo yêu cầu của họ. 25 Ông tha tên tù mà họ đã xin, tức là kẻ đã bị bắt vì tội nổi loạn và giết người, rồi giao Chúa Giê-xu cho để họ mặc ý. 26 Khi giải Ngài đi, họ bắt Si-môn người Sy-ren, đang từ dưới quê lên, vác cây thập tự đi theo Chúa Giê-xu. 27 Một đoàn dân đông theo sau Ngài, trong đó có một số phụ nữ than khóc cho Ngài. 28 Nhưng Chúa Giê-xu quay nhìn họ và nói: “Hỡi con gái Giê-ru-sa-lem, đừng khóc về tôi, mà hãy khóc cho chính các chị và con cái các chị. 29 Vì sẽ có ngày người ta nói rằng: ‘Phước cho phụ nữ hiếm muộn, người không sanh đẻ, kẻ không cho con bú.’ 30 Khi ấy người ta sẽ nói với núi rằng: ‘Hãy đổ xuống trên chúng tôi,’ và nói với đồi rằng: ‘Hãy che phủ chúng tôi.’ 31 Vì nếu họ đối xử với cây còn xanh như thế này, thì khi cây khô đi sẽ ra sao?” 32 Cũng có những người khác, là hai tên tội phạm, bị áp giải chung với Ngài. 33 Đến một nơi gọi là Cái Sọ, họ đóng đinh Ngài và hai tên tội phạm vào cây thập tự, một tên bên phải và một tên bên trái Ngài. 34 Chúa Giê-xu nói: “Lạy Cha, xin tha thứ cho họ, vì họ không biết mình đang làm gì.” Còn họ thì bắt thăm chia nhau áo choàng của Ngài. 35 Dân chúng đứng xem trong khi những người lãnh đạo chế giễu Ngài rằng: “Hắn đã cứu người khác thì cứ để hắn tự cứu mình đi, nếu hắn là Đấng Cứu Thế, là người được chọn của Đức Chúa Trời.” 36 Bọn lính cũng giễu cợt Ngài, lại gần đưa dấm cho Ngài uống, 37 và nói: “Nếu mày là Vua dân Do Thái thì hãy tự cứu mình xem nào.” 38 Phía trên đầu Ngài cũng có treo một tấm bảng nhỏ, ghi: “ĐÂY LÀ VUA DÂN DO THÁI.” 39 Một trong hai tên tội phạm bị đóng đinh cũng sỉ nhục Ngài rằng: “Ông không phải Chúa Cứu Thế sao? Hãy tự cứu mình và cả chúng tôi nữa.” 40 Nhưng tên kia trách nó mà rằng: “Mày đã chịu cùng một bản án mà còn không biết sợ Đức Chúa Trời sao? 41 Chúng ta chịu thế này là đáng lắm vì hình phạt này xứng với việc chúng ta đã làm. Nhưng người này đâu có phạm tội gì.” 42 Rồi anh tiếp: “Lạy Giê-xu, khi Ngài vào trong vương quốc mình rồi, xin nhớ đến tôi.” 43 Chúa Giê-xu đáp: “Thật, tôi nói để anh biết, hôm nay anh sẽ được ở với tôi trong Ba-ra-đi.” 44 Lúc ấy, khoảng vào giờ thứ sáu, bóng tối bao trùm khắp xứ cho đến giờ thứ chín, 45 vì không có ánh sáng mặt trời. Rồi bức màn trong đền thờ bị xé làm đôi từ trên xuống. 46 Chúa Giê-xu kêu lớn lên rằng: “Lạy Cha, Con giao linh hồn Con trong tay Cha.” Nói xong thì Ngài chết. 47 Khi viên đội trưởng thấy việc xảy ra, ông tôn vinh Đức Chúa Trời, rằng: “Đây thật là một người công bình.” 48 Cả đoàn dân đã tụ tập để chứng kiến các diễn tiến thì đấm ngực mà trở về. 49 Còn mọi người thân quen của Ngài và những phụ nữ đã đi theo Ngài từ Ga-li-lê, thì đứng ở đằng xa chứng kiến những việc ấy theo dõi mọi việc. 50 Có một thành viên Hội đồng Công luận, tên Giô-sép, là người công bình, 51 (ông không đồng ý với quyết định và hành động của họ) quê ở thành A-ri-ma-thê của người Do Thái, cũng là người đang trông đợi vương quốc của Đức Chúa Trời. 52 Giô-sép đến gặp Phi-lát để xin xác Chúa Giê-xu. 53 Ông hạ xác Ngài xuống, khâm liệm bằng vải gai, và an táng Ngài trong một phần mộ được đục trong đá, là nơi chưa chôn cất ai. 54 Lúc ấy là ngày Chuẩn bị, và ngày Sa-bát đang đến gần. 55 Các phụ nữ đã cùng đi với Ngài từ Ga-li-lê theo sau những người đó, nhìn thấy phần mộ và cách người ta an táng xác Ngài. 56 Họ trở về, chuẩn bị hương liệu và dầu thơm. Vào ngày Sa-bát, họ nghỉ ngơi theo luật định.
"hết thảy cấp lãnh đạo người Do thái"
"đứng" hay "đứng trên chơn của họ"
"trước mặt Philát". Cụm từ nầy có thể được dịch là "đứng đối mặt với Philát".
"gây rối bằng cách nói những lời dối trá với dân tộc chúng tôi"
"bảo họ đừng đóng thuế"
"Philát tra hỏi Chúa Giê-xu"
Thành ngữ nầy ý nói "điều ngươi nói là đúng". Cụm từ nầy cũng có thể được dịch là "đúng như ngươi đã hỏi ta".
"đám đông dân chúng"
"ta không tìm gặp lỗi gì nơi người nầy"
"gây rối giữa vòng"
"Hắn bắt đầu gây rối trong xứ Ga-li-lê và bây giờ đang gây rối ở đây"
"nghe rằng Chúa Giê-xu khởi sự dạy dỗ trong xứ Ga-li-lê"
"nếu"
Cụm từ nầy đề cập đến Chúa Giê-xu.
"Philát đã khám phá ra"
Phân đoạn Kinh Thánh không nói sự thực cụ thể Hê-rốt là người cai trị xứ Ga-li-lê. Bạn có thể đưa thông tin nầy ra cụ thể: "Chúa Giê-xu ở dưới quyền của Hê-rốt vì Hê-rốt cai trị xứ Ga-li-lê"
"Philát đã giải"
Cụm từ nầy đề cập đến Hê-rốt.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "trong kỳ lễ Vượt Qua"
"Hê-rốt rất vui vẻ"
"Hê-rốt đã muốn gặp Chúa Giê-xu"
"Hê-rốt đã nghe nói về Chúa Giê-xu"
"Hê-rốt mong mỏi"
Cụm từ nầy có thể được nói bằng giọng chủ động: "ông ta muốn thấy Ngài làm một phép lạ nào đó".
Tham khảo cách dịch: "Hê-rốt hỏi Chúa Giê-xu nhiều câu"
"không đáp trả" hay "không dành cho Hê-rốt một câu trả lời"
"đang đứng ở đó"
"tố cáo Ngài gay gắt" hay "tố cáo Ngài hết mức"
Phần dịch thuật không ám chỉ điều nầy được làm ra vì danh dự hay quan tâm đến Chúa Giê-xu. Họ làm thế để chế giễu Chúa Giê-xu và lấy Ngài làm vui.
Phần thông tin ám chỉ rằng họ đã trở nên bạn bè vì Hê-rốt tán thưởng Philát cho phép ông ta xét xử Chúa Giê-xu. Bạn có thể nói cụ thể: "Hê-rốt và Philát trở nên bạn hữu nhau chính ngày ấy vì Philát đã giải Chúa Giê-xu qua cho Hê-rốt để xét xử".
"trước ngày ấy"
"triệu tập các thầy tế lễ cả, các quan đề hình và dân chúng lại"
"ta đã tra hỏi Giê-xu trước mặt các ngươi". Cụm từ nầy cũng có thể được dịch là "Ta đã tra hỏi Giê-xu với các ngươi ở đây như những nhân chứng".
"ta không nghĩ rằng người có tội"
"ngay cả Hê-rốt cũng không nghĩ là người nầy có tội"
"bởi vì" hay "chúng ta biết điều nầy vì"
"Hê-rốt giải Giê-xu trở lại cho chúng ta". Cụm từ "chúng ta" ở đây rất đặc biệt: nó đề cập đến Philát và binh lính của ông ta, không đề cập đến các thầy tế lễ và thần thông giáo đã qua cùng Hê-rốt với Chúa Giê-xu, cũng không đề cập đến đám dân đông.
Cụm từ nầy có thể được dịch bằng giọng chủ động: "Người không làm điều gì đáng bị án chết"
Vì Philát không tìm thấy lỗi lầm gì nơi Chúa Giê-xu, ông ta phải thả Ngài mà không có phạt vạ. Đúng là không cần thiết khi tìm cách làm cho câu nói nầy phù hợp về mặt lý luận trong phần dịch thuật. Philát đã đánh phạt Chúa Giê-xu, là người mà ông ta biết rõ là vô tội, chỉ vì ông ta sợ đoàn dân đông.
"hết thảy người ta trong đám đông đã hô to lên"
"người nầy phải loại bỏ đi!" Bởi câu nầy đám đông muốn nói: "đem người nầy đi mà hành hình"
Tham khảo: “là kẻ bị người La Mã bắt giam”
"vì cớ hắn tham gia vào" hay "vì cớ tội ác hắn"
"tìm cách thuyết phục dân cư thành phố dấy loạn chống lại nhà cầm quyền Lamã"
"nói với họ một lần nữa" hay "nói một lần nữa với đám đông dân chúng"
"vì ông ta muốn tha Chúa Giê-xu"
"Philát lại nói với đám đông, lần thứ ba"
"đám đông khăng khăng"
"hô to lên"
"để Giê-xu phải chịu đóng đinh trên thập tự giá"
Tham khảo: “và đám đông cứ la lên cho đến khi thuyết phục được Phi-lát.”
"làm theo yêu cầu của đám đông"
"Philát thả Baraba là người mà đám đông xin tha"
Tham khảo: “là kẻ bị người La Mã bắt giam”
"Philát để cho đám đông làm cho Chúa Giê-xu bất cứ điều chi họ muốn" hay "Philát trao Chúa Giê-xu cho đám đông và để cho đám đông làm cho Chúa Giê-xu bất cứ điều chi họ muốn làm"
"khi binh lính điệu Chúa Giê-xu đi khỏi chỗ Philát ở"
Binh lính Lamã có quyền buộc người ta phải vác lấy gánh nặng của họ. Đừng dịch câu nầy theo cách chỉ ra rằng Si-môn bị bắt hay đã làm điều chi sai trái.
"một người có tên là"
"người sắp bước vào thành Giê-ru-sa-lem từ ngoại ô"
"vác thập tự giá trên vai ông ta"
"khóc vì Chúa Giê-xu"
"đi theo Chúa Giê-xu"
"hỡi con gái thành Giê-ru-sa-lem"
"hãy khóc về tình huống của các ngươi"
"thay vì khóc cho những điểu sắp sửa xảy ra cho các ngươi và cho con cái các ngươi"
"khi người ta sẽ nói"
"những người đàn bà không có sanh con cái"
"lúc bấy giờ"
"họ sẽ nói với núi"
Đây là câu hỏi hùng biện. Cụm từ nầy có thể được dịch như một câu nói: "các ngươi có thể thấy rằng họ sẽ làm những việc xấu xa nầy trong khi cây còn xanh, vì vậy các ngươi dám chắc rằng họ sẽ làm việc tệ hại hơn nữa khi cây bị khô đi". Ý nói: "các ngươi thấy họ sẽ làm những điều tồi tệ trong lúc tốt đẹp trong hiện tại, vậy các ngươi dám chắc rằng họ sẽ làm những việc tệ hại nhất trong những thời điểm xấu xa trong tương lai".
cây xanh là ẩn dụ nói tới một việc tốt lành trong hiện tại. Nếu ngôn ngữ của bạn có ẩn dụ tương tự, bạn nên sử dụng ácch nói ấy ở đây.
cây khô là ẩn dụ nói tới một việc tồi tệ trong tương lai.
Từ ngữ nầy có thể đề cập đến một là người Lamã hay cấp lãnh đạo người Do thái hoặc đặc biệt không đề cập đến ai cả.
"hai người khác đều là tội phạm" "đem đi cùng với Chúa Giê-xu" hay "binh lính dẫn Chúa Giê-xu cùng với hai gã tội phạm kia"
Từ ngữ "họ" bao gồm binh lính, hai gã tội phạm, và Chúa Giê-xu.
"mấy tên lính đã đóng đinh Chúa Giê-xu trên thập tự giá"
"một tên tội phạm bị đóng đinh trên thập tự giá đặt phía bên phải của Chúa Giê-xu"
"tên tội phạm kia bị đóng đinh trên cây thập tự đặt ở bên trái của Chúa Giê-xu"
Chữ "họ" đề cập đến những ai đang đóng đinh Chúa Giê-xu trên cây thập tự.
Đây là một danh hiệu quan trọng dành cho Đức Chúa Trời.
"vì họ không hiểu điều họ đang làm". Binh lính không hiểu rằng họ đang đóng đinh Con của Đức Chúa Trời trên thập tự giá. Cụm từ nầy cũng có thể được dịch là "vì họ thực sự không biết người mà họ đang đóng đinh trên thập tự giá là ai"
Binh lính tham dự vào một trò chơi. Cụm từ nầy có thể được dịch là "họ bày ra một trò chơi".
"quyết định giữa vòng họ ai sẽ lấy áo xống đó"
"đứng đó"
Từ nầy đề cập đến Chúa Giê-xu.
"Giê-xu có thể tự cứu lấy mình" hay "chúng ta muốn thấy Ngài minh chứng mình là ai bằng cách tự cứu lấy thân tránh khỏi thập tự giá"
Cụm từ nầy cũng có thể được dịch là "Đấng mà Đức Chúa Trời đã chọn"
"Chúa Giê-xu"
"đến gần Chúa Giê-xu"
"trao giấm cho Chúa Giê-xu để uống". NHiều học viên Kinh Thánh tin mấy tên lính đã làm điều nầy để chế giễu Ngài: họ biết rõ Ngài đang khát nước, vì vậy họ đưa giấm gần môi miệng Ngài nhưng không để cho Ngài uống giấm đó.
"một tấm biển nhỏ trên trên đấu của Chúa Giê-xu, trên đó có viết"
Người ta đóng cái bảng này trên cây thập tự để nhạo báng Chúa Giê-xu. Họ thật sự không cho rằng Ngài là vua.
Tham khảo: “là người cũng đang bị treo trên thập tự”
"sỉ nhục Chúa Giê-xu"
Câu hỏi nầy được dự trù không phải thu thập thông tin mà để thố lộ sự nghi ngờ rằng thực sự Chúa Giê-xu có phải là Chúa Cứu Thế hay không!?!.
Tên tội phạm thật sự không nghĩ rằng Chúa Giê-xu có thể giúp họ xuống khỏi thập tự.
"tên tội phạm kia đáp"
"và quở trách tên tội phạm kia bằng cách nói"
Tên tội phạm dùng câu hỏi để trách tên kia. Tham khảo: “Ngươi hẳn không sợ Đức Chúa Trời, vì ngươi nhạo báng Chúa Giê-xu khi ngươi đang bị đóng đinh trên thập tự như chúng ta.”
"Chúng ta thực sự đáng với án phạt nầy"
Tội phạm đang sử dụng lời lẽ nầy đề cập đến Chúa Giê-xu.
"tội phạm cũng nói"
"bắt đầu cai trị làm vua"
"quả thật" them vào để nhấn mạnh những điều Chúa Giê-xu đang phán. Cụm từ nầy có thể được dịch là: "ta muốn ngươi nhìn biết rằng"
Đây là chỗ mà hạng người công bình đi đến khi họ qua đời. Cụm từ nầy có thể được dịch là "chốn hạnh phước" "chỗ của người công bình" hay "chỗ mà người ta sống mạnh giỏi". Chúa Giê-xu đang bảo đảm cho người nầy anh ta sẽ ở với Đức Chúa Trời và Đức Chúa Trời sẽ nhận lấy anh ta.
"khi ấy, khoảng giữa trưa". Điều nầy phản ảnh thói tục tính giờ bắt đầu với ban sáng lúc 6 giờ sáng
"toàn bộ xứ trở nên tối tăm"
"cho tới 3 giờ chiều". Điều nầy phản ánh thói tục tính giờ với ban sáng lúc 6 giờ sáng.
"bức màn trong đền thờ"
"bị xé thành hai mảnh". Tham khảo cách dịch: "Đức Chúa Trời đã xé bức màn trong đền thờ ra làm hai"
Đức Chúa Cha đã sai Đức Chúa Con lên cây thập tự để chết như con sinh chuộc tội của con người. Nhưng, Con vẫn yêu Cha và giao phó sự sống Ngài cho Cha.
"hô to lên"
Đây là một danh hiệu quan trọng dành cho Đức Chúa Trời.
Tham khảo cách dịch: "tôi phó linh hồn vào sự quan tâm của Ngài" hay "tôi giao linh hồn cho Ngài, với sự nhìn biết Ngài sẽ chăm sóc nó"
"sau khi Chúa Giê-xu đã nói điều nầy"
"Chúa Giê-xu qua đời"
"những gì đã xảy ra"
"đám đông dân chúng"
"sự cố" hay "những gì đã xảy ra"
"họ cùng nhau nhóm lại"
"những điều đã xảy ra"
"trở về nhà họ"
điều nầy ý nói "đấm ngực của chính mình để tỏ ra rằng họ rất đau lòng".
“những ai biết Chúa Giê-xu” hay “những kẻ đã gặp gỡ Chúa Giê-xu”
"đi theo Chúa Giê-xu"
"một khoảng xa xa đối với Chúa Giê-xu"
"việc đã xảy ra"
Chữ “kìa” báo cho chúng ta biết một nhân vật mới trong câu chuyện. Ngôn ngữ của bạn có lẻ có cách thức để nói ra điều nầy. Anh ngữ dùng “có một người kia …”
"và ông là thành viên của Toà Công Luận "
"ông là người chánh trực và công bình"
"Giôsép không đồng ý với quyết định giết Chúa Giê-xu của Toà Công Luận và hành động của Toà Công Luận"
"Giôsép xuất thân từ một thành phố của người Do thái có tên gọi là A-ri-ma-thê"
"Giôsép đang trông đợi"
"Giôsép"
"đến gặp Philát và xin"
"Giôsép đã đem xác Chúa Giê-xu xuống khỏi thập tự giá"
"quân thi thể bằng vải liệm"
"đặt thi thể Chúa Giê-xu vào mộ địa" hay "đặt thi thể Chúa Giê-xu vào chỗ chôn cất"
"một ngôi mộ có người đục trong đá"
"chưa có ai từng được chôn ở đó"
"ngày mà người ta sẵn sàng đón ngày yên nghỉ của người Do thái gọi là ngày Sa-bát" (UDB)
"Mặt trời không bao lâu nữa thì lặn rồi, khởi sự ngày Sa-bát". Bình minh ở đây là một ẩn dụ nói tới chỗ bắt đầu của một ngày. Đối với người Do thái, ngày khởi sự lúc mặt trời lặn.
"họ cùng đi với Chúa Giê-xu từ khu vực xứ Ga-li-lê"
"theo sau Giôsép và những người ở với ông"
"mấy người đàn bà xem mả"
"mấy người đàn bà xem cách người ta đặt thi hài Chúa Giê-xu vào trong mả"
"mấy người đàn bà đi về nhà mình"
"sửa soạn thuốc thơm và sáp thơm để sửa soạ thi hài Chúa Giê-xu đem chôn cất"
"mấy người đàn bà không có lao động"
"theo luật pháp của người Do thái" hay "như luật lệ của người Do thái buộc" hoặc "như bắt buộc bởi luật pháp do Môi-se ban ra"
Hê-rốt muốn thấy Chúa Giê-xu làm phép lạ.
Họ muốn thả Baraba, một tên tội phạm.
Si-môn người Si-ren đã vác lấy thập tự giá của Chúa Giê-xu.
Hai tên tội phạm bị đóng đinh cùng với Chúa Giê-xu.
Họ thách Ngài tự cứu lấy mình.
Họ thách Ngài tự cứu lấy mình.
Hắn ta nói: "Khi Ngài đến trong nước mình rồi, hãy nhớ đến tôi.”
Bóng tối tăm phủ lên xứ và bức màn trong đền thờ bị xé làm hai từ chính giữa.
Ông đến xin Phi-lát cho lấy xác và đặt xác ấy trong một ngôi mộ.
Ngày Sa-bát sắp sửa bắt đầu.
1 Tờ mờ sáng ngày đầu tuần, những người phụ nữ này đem theo hương liệu đã chuẩn bị đến mộ. 2 Họ thấy tảng đá trước mộ đã được lăn đi. 3 Họ vào bên trong nhưng không thấy xác Chúa Giê-xu đâu cả. 4 Trong khi họ còn đang bối rối thì bất ngờ có hai người nam mặc y phục sáng chói đứng bên cạnh họ. 5 Họ sợ hãi và sấp mặt xuống đất, thì hai người nam nói với họ: “Sao các chị tìm người sống giữa vòng kẻ chết? 6 Ngài không ở đây đâu, Ngài sống lại rồi! Hãy nhớ lại những lời Ngài đã nói với các chị khi còn ở Ga-li-lê, 7 rằng Con Người phải bị nộp vào tay những người tội lỗi, phải bị đóng đinh trên cây thập tự, và đến ngày thứ ba, phải sống lại.” 8 Các phụ nữ đó nhớ lại lời Ngài, 9 liền từ mộ trở về và thuật lại mọi chuyện cho mười một sứ đồ cùng những người khác. 10 Ma-ri Ma-đơ-len, Gian-nơ, Ma-ri mẹ Gia-cơ và các phụ nữ cùng đi với họ, là những người đã thuật lại cho các sứ đồ những việc ấy. 11 Các sứ đồ không tin lời họ vì cho là ngớ ngẩn. 12 Nhưng Phi-e-rơ đứng dậy, chạy đến mộ, cúi xuống nhìn vào trong, và chỉ thấy những tấm vải liệm. Rồi Phi-e-rơ trở về nhà mình, tự hỏi không biết chuyện gì đã xảy ra. 13 Trong chính ngày hôm ấy, có hai môn đồ đang trên đường đến làng Em-ma-út, cách Giê-ru-sa-lem chừng sáu mươi ếch-ta-đơ. 14 Họ bàn luận với nhau về mọi việc đã xảy ra. 15 Trong khi họ cùng bàn luận và tỏ ra ngờ vực, thì Chúa Giê-xu đến gần và đồng đi với họ. 16 Nhưng mắt họ bị che khuất nên không nhận ra Ngài. 17 Chúa Giê-xu nói với họ: “Hai anh đi đường mà lại nói chuyện gì thế?” Họ dừng lại với vẻ buồn bã. 18 Một trong hai người tên là Cơ-lê-ô-ba trả lời: “Chắc ông là người duy nhất ở Giê-ru-sa-lem không biết những chuyện đã xảy ra mấy ngày qua quá?” 19 Chúa Giê-xu hỏi: “Chuyện gì kia?” Họ trả lời: “Chuyện về Giê-xu người Na-xa-rét, một tiên tri đầy quyền năng trong việc làm lẫn lời nói trước mặt Đức Chúa Trời và cả dân chúng. 20 Vậy mà các thầy tế lễ cả và những người lãnh đạo của chúng ta đã nộp Ngài để chịu kết án tử hình và đóng đinh trên thập tự giá. 21 Chúng tôi đã từng hi vọng rằng Ngài là Đấng sẽ giải cứu Y-sơ-ra-ên. Nhưng giờ thì những việc ấy cũng đã xảy ra cách đây ba ngày rồi. 22 Thế nhưng sáng sớm hôm nay một số phụ nữ trong nhóm chúng tôi đã khiến chúng tôi kinh ngạc sau khi đi thăm mộ trở về. 23 Họ nói rằng khi đến nơi họ chẳng thấy xác Ngài đâu, rồi còn bảo là đã thấy các thiên sứ hiện ra nói rằng Ngài đang sống. 24 Có mấy người trong chúng tôi chạy ra mộ và thấy mọi việc đúng như lời các bà ấy nói. Nhưng không thấy Ngài đâu cả.” 25 Chúa Giê-xu nói với họ: “Này mấy người dại dột và có lòng chậm tin mọi điều các tiên tri đã nói! 26 Chẳng phải Chúa Cứu Thế phải chịu những điều đó để bước vào vinh quang của Ngài sao?” 27 Rồi Chúa Giê-xu giải thích cho họ những điều đã chép về Ngài trong cả Kinh Thánh, từ Môi-se cho đến tất cả các nhà tiên tri. 28 Khi đến gần làng nơi họ định đi thi Chúa Giê-xu làm như thể muốn đi xa hơn. 29 Nhưng họ nài nỉ Ngài rằng: “Xin ở lại với chúng tôi, vì trời đã gần tối và ngày sắp hết.” Vậy là Chúa Giê-xu vào ở lại với họ. 30 Khi đã ngồi xuống để cùng ăn với họ, Ngài lấy bánh, chúc phước và bẻ ra rồi phát cho họ. 31 Lúc ấy, mắt hai người mở ra và biết đó là Ngài, nhưng Ngài biến đi mất. 32 Họ nói với nhau: “Chẳng phải lòng chúng ta bùng cháy khi Ngài trò chuyện và giải nghĩa Kinh Thánh cho chúng ta trên đường đi sao?” 33 Ngay lúc ấy, họ đứng dậy và trở về Giê-ru-sa-lem. Họ gặp mười một sứ đồ đang nhóm lại, cùng những người khác, 34 báo cho hai người biết: “Chúa đã sống lại thật rồi, Ngài đã hiện ra với Si-môn.” 35 Rồi hai người thuật lại mọi chuyện đã xảy ra trên đường đi, và thế nào họ đã nhận ra Ngài khi Ngài bẻ bánh. 36 Khi họ còn đang nói, Chúa Giê-xu hiện ra ở giữa họ, Ngài nói: “Bình an cho anh em.” 37 Nhưng họ lại kinh khiếp và sợ hãi, cứ tưởng là thấy thần linh. 38 Chúa Giê-xu nói với họ: “Sao anh em bối rối? Sao anh em nghi ngờ trong lòng? 39 Hãy xem tay và chân của Thầy, chính là Thầy đây. Hãy chạm vào Thầy mà xem. Vì thần linh thì không có thịt xương, còn Thầy thì có.” 40 Nói xong, Ngài cho họ xem tay và chân mình. 41 Trong lúc họ chưa dám tin vì quá vui mừng và kinh ngạc, thì Chúa Giê-xu nói với họ: “Anh em có gì ăn không?” 42 Họ đem cho Ngài một miếng cá nướng. 43 Chúa Giê-xu cầm lấy và ăn trước mặt họ. 44 Ngài nói với họ: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã nói rằng tất cả những điều đã chép trong luật pháp Môi-se, các sách tiên tri và các Thi Thiên đều phải được ứng nghiệm.” 45 Rồi Ngài mở tâm trí họ để họ hiểu Kinh Thánh. 46 Ngài nói với họ: “Lời chép thế này: Chúa Cứu Thế phải chịu thương khó, đến ngày thứ ba phải từ cõi chết sống lại. 47 Người ta phải nhân danh Ngài rao giảng về sự ăn năn và tha tội cho tất cả các nước, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem. 48 Anh em là nhân chứng về những việc này. 49 Thầy sẽ ban cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Nhưng hãy chờ đợi trong thành cho đến khi anh em được mặc lấy quyền năng từ trên cao.” 50 Sau đó, Chúa Giê-xu dẫn các môn đồ ra ngoài thành, đến gần làng Bê-tha-ny. Ngài giơ tay lên ban phước cho họ. 51 Trong khi ban phước, Ngài lìa các môn đồ và được đem lên trời. 52 Các môn đồ thờ lạy Ngài và vui mừng trở về Giê-ru-sa-lem. 53 Họ cứ ở trong đền thờ, chúc tụng Đức Chúa Trời.
"trước khi bình mình ngày thứ bảy"
"đến tại". Người thuật chuyện như đã có mặt tại mồ và nhìn thấy mấy người đàn bà đền đó. Phân đoạn Kinh Thánh được chép lại giống như người thuật chuyện nhìn thấy mấy người đàn bà rời khỏi địa điểm kia rồi đi đến mồ.
mồ nầy được đục từ đá trên vách núi.
một hòn đá tròn to, được đục ra, đủ để khoá ngay cửa mồ. Nó đòi hỏi mấy người đàn ông mới lăn đi được.
Đây là một tảng đá lớn, tròn, được đẻo đủ để chặn lối vào mộ. Cần có phải có vài người lăn tảng đá đó.
Cụm từ nầy được sử dụng ở đây để đánh dấu một sự kiện quan trọng trong câu chuyện. Nếu ngôn ngữ của bạn có cách thức để làm công việc nầy, bạn có thể xem xét sử dụng nó ở đây.
"mặc loại áo xống rực rỡ, sáng loà"
"bật sợ hãi"
Đây là câu hỏi hùng biện. Cụm từ nầy có thể được dịch là "các ngươi đang tìm kiếm một người sống giữa vòng kẻ chết" hay "các ngươi không nên tìm một người đang sống ở chỗ mà họ chôn kẻ chết sao!"
"các ngươi" ở đây là số nhiều, đề cập đến mấy người đàn bà mới đến kia.
"hãy nhớ những gì"
Chúa Giê-xu đã nói việc nầy ít nhất là một tuần lễ trước đó.
Cụm từ "các ngươi" ở số nhiều. Cụm từ nầy đề cập đến mấy người đàn bà và các môn đồ khác.
Đây là phần mở đầu của một trưng dẫn gián tiếp. Cụm từ nầy có thể được dịch với một trưng dẫn trực tiếp như trong Kinh Thánh.
Đây là một điều sẽ chắc chắn xảy ra vì Đức Chúa Trời đã quyết định rằng việc đó sẽ xảy đến. Tham khảo: “nhất thiết họ phải nộp Con Người vào tay những người tội lỗi để họ có thể đóng đinh Ngài.”
"giao cho" hay "được giao cho". Ở đây "nộp" đề cập đến quyền lực hoặc sự khống chế. Câu nói cũng được dịch với một động từ chủ động: "họ sẽ nộp ta, Con Người, cho kẻ có tội" hay "có ai đó chắc chắn giúp cho kẻ có tội đến bắt lấy Con Người”.
"nhớ lại lời lẽ của Chúa Giê-xu"
Điểm quan sát của người thuật chuyện là từ con đường giữa mồ và các sứ đồ. Kinh Thánh có điểm quan sát tại mồ, lưu ý rằng mấy người đàn bà rời đi. Trong từng trường hợp, mấy người đàn bà đã rời mồ rồi đi đến chỗ ở của các sứ đồ.
"phần còn lại các môn đồ ở với 11 sứ đồ"
Từ này được dùng để đánh dấu phần xen vào cốt truyện chính. Ở đây Lu-ca ghi lại tên của một vài người phụ nữ và giải thích cách các môn đồ phản ứng với những gì họ nói.
This word is used here to mark a break in the main storyline. Here Luke gives the names of some of the women and explains how the apostles reacted to what they said.
"nhưng các sứ đồ nghĩ rằng những gì mấy người đàn bà nói là chuyện hảo"
Đây là thành ngữ Hybálai ý nói "bắt đầu hành động". Dù là Phi-e-rơ đang ngồi hay đang đứng khi ông quyết định hành động là không quan trọng. Cụm từ nầy có thể được dịch là "khởi sự".
"khom mình" để nhìn vào trong mồ
"chỉ có vải liệm"
Từ ngữ nầy đánh dấu phần mở đầu của sự cố khác, khác với những những gì từ mấy người đàn bà và Phi-e-rơ.
"trong chính ngày đó"
Đây là tên của một thị trấn.
"11 km". Một "ếchtađơ" bằng 185m.
Cụm từ nầy được sử dụng ở đây đánh dấu chỗ hành động khởi sự. Nó khởi sự với Chúa Giê-xu tiếp cận họ. Nếu ngôn ngữ của bạn có cách thức để làm công việc nầy, bạn có thể xem xét xử dụng nó ở đây.
Từ ngữ "chính" nhắm vào Chúa Giê-xu và sự ngạc nhiên của Chúa Giê-xu khi hiện ra với họ. Mấy người đàn bà đã nhìn thấy các thiên sứ, nhưng chưa có người nào nhìn thấy Chúa Giê-xu.
"Mắt của họ bị ngăn trở không nhận ra Chúa Giê-xu". Khả năng nhận ra Chúa Giê-xu của hai người nầy được nói tới như khả năng nhận ra Ngài của mắt họ. Cụm từ nầy có thể được dịch là "họ bị chặn không nhận ra Ngài" hay "Có cái gì đó đã ngăn họ hầu cho họ không thể nhận ra Ngài".
Đây là tên của một người.
"ngươi" đề cập đến Chúa Giê-xu, ngươi là số ít. Đây là phần mở đầu của câu hỏi hùng biện. Cờ-lê-ô-ba đã tỏ ra sự ngạc nhiên khi Chúa Giê-xu hiện ra chưa biết những việc đã xảy ra tạo thành Giê-ru-sa-lem. Cụm từ nầy có thể được dịch là "người là người duy nhứt"
"Những việc gì đã xảy ra vậy?" hay "Việc gì đã diễn ra chứ?"
Câu nầy ý nói rằng Đức Chúa Trời đã khiến cho Chúa Giê-xu có quyền phép và dân chúng đã nhìn thấy Ngài có quyền phép. Cụm từ nầy có thể được dịch là "Đức Chúa Trời đã ban cho Ngài quyền phép để làm và dạy rỗ những việc lớn và dân chúng lấy làm kinh ngạc"
Tham khảo cách dịch: "nộp Chúa Giê-xu cho quan Tổng đốc Lamã để quan Tổng đốc tử hình Chúa Giê-xu"
Người Do thái bị người Lamã cai trị. Các môn đồ muốn nói: "Đấng sẽ giải phóng Y-sơ-ra-ên ra khỏi kẻ thù Lamã của họ"
"từ khi Ngài bị giết"
Mấy người đàn ông đã xem tường trình của mấy người đàn bà là việc tốt lành, chớ không phải việc xấu xa nói tới sự chết của Chúa Giê-xu.
mấy người đàn bà là những người có mặt tại mồ.
"thiên sứ trong một sự hiện thấy"
Sử dụng hình thức kép của "họ".
Tham khảo cách dịch: "lý trí các ngươi chậm tin" hay "các ngươi thiệt là chậm tin"
Đây là câu hỏi hùng biện ý nói "Đúng là cần thiết" Chúa Giê-xu đã làm đúng do chịu khổ và đã sai trái do không chịu khổ.
Câu nầy đề cập đến thời điểm Chúa Giê-xu tỏ ra cho mọi người thấy vẻ đẹp và sự cao trọng của Ngài và nhận được sự vinh hiển và thờ lạy.
Sử dụng hình thức kép của "them" [họ].
"khi họ đến gần"
Hai người hiểu rõ từ mọi hành động của Ngài cho thấy Ngài sẽ đi tiếp đến nơi khác. Có lẽ Ngài cứ đi trên con đường khi họ dừng lại để vào trong làng. Không có điều gì cho thấy Chúa Giê-xu lừa dối họ bằng lời nói.
"họ mạnh mẽ giục giã Ngài". Từ ngữ Hi-lạp ý nói sử dụng sức mạnh vật lý đối với thời gian đã dự định, song dường như sự việc hơi cường điệu. Cần có thời gian và nỗ lực để thuyết phục Ngài.
"Chúa Giê-xu vào nhà"
Sử dụng hình thức kép của "them" [họ]
Cụm từ nầy được sử dụng ở đây đánh dấu sự kiện quan trọng trong lịch sử. Nếu ngôn ngữ của bạn có cách thức để làm công việc nầy, bạn có thể xem xét sử dụng nó ở đây.
Cụm từ nầy đề cập đến bánh được làm với men. Nó không đề cập đến thức ăn nói chung.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "dâng lời cảm tạ" hay "cảm tạ Đức Chúa Trời về bánh ấy"
Cụm từ nầy ý nói thình lình Ngài không còn có ở đó nữa. Nó không có ý nói rằng không thấy Ngài đâu nữa.
Câu này có nghĩa là bỗng nhiên Ngài không ở đó nữa. Như vậy không có nghĩa là Ngài trở thành vô hình.
"Lòng chúng ta nung nấu trong chúng ta". Đây là câu hỏi hùng biện.
Đây là ẩn dụ mô tả cảm xúc họ đã có khi trao đổi với Chúa Giê-xu. Cụm từ nầy có thể được dịch là "Chúng ta có những cảm xúc dậy lên khi Ngài phán cùng chúng ta..."
Hai người đang nói với nhau. Vì vậy, chữ "us" [chúng ta] bao hàm kép cho thứ ngôn ngữ tạo sự phân biệt ở đây.
"trong khi Ngài giải thích Kinh Thánh cho chúng ta". Chúa Giê-xu không có mở một quyển sách hay cuộn giấy nào hết.
"họ" đề cập đến hai người. Ngôn ngữ nào có hình thức kép của "they" [họ] sẽ sử dụng nó ở đây.
"chỗi dậy" hay "đứng lên"
Cụm từ nầy đề cập đến các sứ đồ của Chúa Giê-xu. Giuđa không ở với họ.
mười một sứ đồ và những ai có mặt với họ đang nói ra điều nầy.
"vậy hai người nói"
Cụm từ nầy đề cập đến Chúa Giê-xu hiện ra với họ trong khi họ đi đường về làng Emmaút.
Tham khảo: “làm thế nào họ đã nhận ra Chúa Giê-xu”
"khi Chúa Giê-xu bẻ bánh" hay "khi Chúa Giê-xu xé bánh ra"
Từ ngữ “chính” nhằm vào Chúa Giê-xu và sự kinh ngạc của Chúa Giê-xu khi hiện ra với họ. Hầu hết họ đều không gặp Ngài sau sự sống lại của Ngài.
Cụm từ nầy có thể được dịch là "ở đó hết thảy họ đều thấy Ngài"
"nguyện các ngươi có sự bình an" hay "nguyện Đức Chúa Trời ban bình an cho các ngươi!" Chữ "you" [các ngươi] ở số nhiều.
"họ giật mình và sợ hãi"
Họ thực sự không hiểu Chúa Giê-xu quả thực còn sống.
Ở đây từ nầy đề cập đến linh hồn của một người đã chết.
Đây là câu hỏi hùng biện được sử dụng để yên ủi họ. Cụm từ nầy có thể được dịch là "đừng lo sợ"
"Sao các ngươi nghi trong lòng chứ?" Câu hỏi hùng biện nầy là một lời quở trách. Cụm từ nầy có thể được dịch là "thôi đừng nghi ngờ ở trong lòng nữa". Chúa Giê-xu đang nói cho họ biết đừng nghi ngờ việc Ngài còn sống. Điều nầy có thể rất cụ thể như trong Kinh Thánh.
Đây là cách đề cập đến thân thể.
"vẫn không thể tin rằng điều nầy là sự thật!" Họ rất phấn khích, nhưng đồng thời, tin việc ấy thực sự đã xảy ra thì thật là khó.
"và rất kinh ngạc" hay "lấy làm lạ sao có thể có việc nầy chứ"
"trước mặt họ" hay "đang khi họ quan sát"
"khi ta còn ở với các ngươi trước đây"
Cụm từ nầy có thể được dịch với động từ chủ động: "mọi sự mà Môi-se, các tiên tri, và tác giả Thi-thiên đã chép"
"Đức Chúa Trời sẽ làm ứng nghiệm hết thảy"
Tham khảo: “rồi Ngài khiến họ có thể hiểu Kinh Thánh”
Tham khảo cách dịch: "Đây là những điều mà người ta đã chép từ lâu"
"sau hai đêm"
Cụm từ nầy có thể được dịch là với động từ chủ động: "các môn đồ của Đấng Mêsi sẽ rao giảng người ta cần phải ăn năn và Đức Chúa Trời tha thứ tội lỗi của họ"
Tham khảo: “đại diện cho Ngài” hoặc “bằng thẩm quyền của Ngài”
"mọi cộng đồng chủng tộc" hay "hết thảy các nhóm dân tộc"
"các ngươi cần phải nói cho nhiều người khác biết mọi điều các ngươi đã thấy về ta là sự thật". Các môn đồ đã trông thấy sự sống, sự chết và sự sống lại của Chúa Giê-xu, và có thể mô tả những điều Ngài đã làm cho người khác.
"ta ban cho các ngươi những gì Cha ta đã hứa ban cho các ngươi"
Đây là một danh hiệu quan trọng chỉ về Đức Chúa Trời.
"được mặc lấy quyền phép" hay "nhận lãnh quyền phép". Quyền phép của Đức Chúa Trời sẽ bao phủ họ theo cùng một cách với quần áo bao phủ lấy một người.
"từ trên cao" hay "từ Đức Chúa Trời"
"Như đã xảy ra”
"trong khi Chúa Giê-xu cầu xin Đức Chúa Trời làm lành cho họ"
Kể từ khi Lu-ca không nói rõ ai đem Chúa Giê-xu về trời, chúng ta không biết có phải đấy là chính Đức Chúa Trời hay nhiều vị thiên sứ. Nếu ngôn ngữ của bạn phải nói rõ ai làm việc nầy, tốt nhứt là sử dụng như Kinh Thánh "lên"
Họ đến rất sớm vào ngày thứ nhứt của tuần lễ.
Họ nói Chúa Giê-xu đã sống lại..
Họ cho lời ấy như là hư không.
Họ hy vọng rằng Ngài sẽ giải phóng Y-sơ-ra-ên khỏi tay kẻ thù của họ.
Họ nhận ra Ngài khi Ngài chúc phước cho bánh, bẻ nó ra, rồi ban bánh cho họ.
Ngài phán: "Bình an cho các ngươi.”
Chúa Giê-xu mở trí họ ra để họ có thể hiểu được.
A-bên là con trai thứ của A-đam và Ê-va. Ông là em trai của Ca-in. - A-bên làm nghề chăn chiên - A-bên giết những vật nuôi của ông để làm của lễ dâng lên cho Đức Chúa Trời. - Đức Chúa Trời vui lòng vì đời sống và của lễ của ông - Con trai đầu lòng của A-đam và Ê-va là Ca-in đã giết chết A-bên
A-mốt là cha của tiên tri Ê-sai. - Tên “A-mốt” nầy chỉ được đề cập một lần duy nhất trong Kinh Thánh để xác định Ê-sai với tư cách là “con trai của A-mốt” - Tên nầy khác với tên của tiên tri A-mốt nên cần phải đánh vần khác nhau.
A-mốt là một tiên tri của dân Y-sơ-ra-ên sống trong thời đại của vua Ô-xia ở vương quốc Giu-đa. - Trước khi được kêu gọi làm tiên tri, ban đầu A-mốt làm nghề chăn chiên và trồng cây vả để sinh sống ở vương quốc Giu-đa. - A-mốt nói tiên tri chống lại vương quốc Y-sơ-ra-ên thịnh vượng ở phía bắc vì cớ sự bất công của họ.
A-rôn là anh của Môi-se. Đức Chúa Trời chọn A-rôn làm thầy tế lễ thượng phẩm đầu tiên cho dân Y-sơ-ra-ên.. - A-rôn giúp Môi-se nói với Pha ra ôn về việc cho phép dân Y-sơ-ra-ên được ra đi tự do - Khi dân Y-sơ-ra-ên đi lang thang trong đồng vắng, A-rôn phạm tội vì làm một thần tượng cho dân sự thờ phượng. - Đức Chúa Trời cũng chọn A-rôn và con cháu của ông làm thầy tế lễ cho dân Y-sơ-ra-ên.
A-se là con thứ tám của Gia cốp. A-se cùng với con cháu lập thành một trong mười hai chi phái Y-sơ-ra-ên. Chi phái nầy cũng được gọi là A-se. - Mẹ của A-se là nàng hầu Xinh-ba của Lê-a. - Tên A-se có nghĩa là “hạnh phúc” hay là “được phước” - A-se cũng là tên của một lãnh thổ được giao cho chi phái A se khi dân Y-sơ-ra-ên vào đất hứa.
A-đam là con người đầu tiên được Đức Chúa Trời tạo dựng. Ông và vợ mình là Ê-va được tạo dựng theo hình ảnh của Đức Chúa Trời. - Đức Chúa Trời đã nắn nên A-đam bằng bụi đất và hà hơi linh để ông được sống. - Tên “A-đam” nghe tương tự như một từ ngữ tiếng Hê-bơ-rơ có nghĩa là “bụi đỏ” hoặc là “đất”. - Trong Cựu Ước, “A-đam” có nghĩa là “nhân loại” hoặc “loài người”. - Mọi người đều là hậu tự của A-đam và Ê-va. - A-đam và Ê-va không vâng lời Chúa. Điều này ngăn cách họ khỏi Đức Chúa Trời và khiến cho tội lỗi cùng sự chết vào trong thế giới này.
An-ne là thầy tế lễ thượng phẩm của dân Do Thái ở Giê-ru-sa-lem trong 10 năm khoảng năm thứ 6 đến 15 Sau Chúa. Sau đó bị chính quyền La Mã cất chức mặc dù ông vẫn còn là lãnh đạo có thế lực giữa dân Do Thái
- An-ne là ông gia của Cai-phe, thầy tế lễ thượng phẩm chính thức trong thời gian Chúa Giê-xu thi hành chức vụ.
- Sau khi thầy tế lễ thượng phẩm nghỉ hưu họ vẫn giữ chức danh đó cùng với trách nhiệm của công việc, nên An-ne vẫn được nhắc đến như một thầy tế lễ thượng phẩm trong thời gian Cai-phe và những người khác làm thầy tế lễ.
- Trong thời gian bị xét xử trước những lãnh đạo người Do Thái, Chúa Giê-xu đã bị đem đến trước An-ne để thẩm vấn.
Thuật ngữ “anh em” thường đề cập đến một người nam có chung ít nhất một cha hoặc mẹ ruột với một người khác. - Trong thời Cựu Ước, thuật ngữ “anh em” cũng được dùng để nói chung về họ hàng như một thành viên trong cùng một chi phái, thị tộc hay bộ tộc. - Trong Tân Ước, các sứ đồ thường dùng từ ngữ “anh em” để nhắc đến các tín đồ Cơ Đốc, bao gồm cả nam lẫn nữ, vì tất cả tín đồ trong Đấng Christ đều là thành viên của gia đình thuộc linh, có Đức Chúa Trời với tư cách là Cha thiên thượng. - Có đôi lần trong Tân Ước các sứ đồ dùng thuật ngữ “chị em” khi đề cập đặc biệt đến một nữ tín đồ, hoặc để nhấn mạnh cả nam lẫn nữ đều là tín đồ. Ví dụ, Gia cơ nhấn mạnh rằng ông đang nói với tất cả tín đồ khi nói “có anh em hoặc chị em nào không quần áo mặc, thiếu của ăn uống hằng ngày”. Gợi ý dịch: - Tốt nhất nên dịch thuật ngữ nầy bằng một từ ngữ theo nghĩa đen sử dụng trong ngôn ngữ mục tiêu để đề cập đến một người anh em ruột, nếu không sẽ dịch nghĩa sai. - Đặc biệt trong Cựu Ước, khi “anh em” được sử dụng để nói chung về các thành viên trong cùng gia đình, bộ tộc hay tộc người, có nhiều khả năng dịch là “họ hàng” hoặc là “thành viên trong chi phái” hoặc là “anh em mình, là dân Y-sơ-ra-ên”. - Trong ngữ cảnh đề cập đến tín đồ trong Đấng Christ, thuật ngữ có thể dịch là “anh em trong Đấng Christ” hoặc là” anh em thuộc linh” - Nếu muốn nói về cả nam lẫn nữ, nhưng từ “anh em” làm hiểu sai nghĩa thì có thể dùng thuật ngữ chỉ về quan hệ họ hàng nói chung gồm cả nam lẫn nữ. - Có cách khác để dịch thuật ngữ nầy để sử dụng chung cho nam lẫn nữ tín đồ có thể là “tín đồ” hoặc “anh chị em trong Đấng Christ”. - Đảm bảo kiểm tra ngữ cảnh để xác định xem nếu chỉ để cập đến nam tín đồ hoặc là bao gồm cả nam lẫn nữ.
Anh-rê là một trong mười hai người được Chúa Giê-su chọn làm môn đồ của Ngài (sau nầy gọi là sứ đồ). - Em của Anh-rê là Si-môn Phi-e-rơ. Cả hai đều làm nghề đánh cá. - Phi-e-rơ và Anh-rê là hai môn đồ đầu tiên của Chúa Giê-su được đề cập trong Kinh Thánh. Đang khi họ đánh cá ở Biển Ga-li-lê thì Chúa Giê-su kêu gọi họ làm môn đồ Ngài. - Trước khi Phi-e-rơ và Anh-rê gặp Chúa Giê-su, họ từng là môn đồ của Giăng Báp-tít.
Ba-ra-ba là một tù nhân ở Giê-ru-sa-lem ở vào thời điểm khi Chúa Giê-xu bị bắt giữ. - Ba-ra-ba đã phạm tội sát nhân và nổi loạn chống lại chính quyền La mã. - Khi Bôn-xơ Phi-lát đề nghị thả Ba-ra-ba hoặc Chúa Giê-xu thì dân chúng chọn Ba-ra-ba. - Vì thế Phi-lát thả Ba-ra-ba được tự do nhưng kết án tử hình Chúa Giê-xu.
“Biết” có nghĩa là hiểu một việc gì đó hay nhận thức đươc một sự thật. Cụm từ “làm nhận biết” là một thành ngữ có nghĩa là cho biết thông tin. - Thuật ngữ “sự hiểu biết” chỉ về những điều con người hiểu biết. Từ này có thể áp dụng cho việc nhận biết những việc trong cả linh vực thuộc thể và thuộc linh. - Đức Chúa Trời đã bày tỏ những chân lý về chính Ngài để con người có thể biết Ngài. - Chúng ta biết người khác nhờ vào việc nói chuyện và quan sát lẫn nhau. - Chúng ta cũng biết những thực tế về khoa học, nghệ thuật và những lĩnh vực khác trong cuộc sống bằng cách quan sát và nghiên cứu chúng. - Biết ý muốn của Đức Chúa Trời nghĩa là nhận thức được điều Ngài truyền dạy hay hiểu được Ngài muốn một người phải làm gì. - “Biết luật pháp” có nghĩa là nhận thức được mạng lệnh hay hiểu được sự hướng dẫn của Đức Chúa Trời trong luật pháp Ngài ban cho Môi-se. - Đôi khi “sự hiểu biết” được dùng làm từ đồng nghĩa với “sự khôn ngoan”, trong đó bao hàm cách sống làm vui lòng Đức Chúa Trời. - Cụm từ “nhận biết Đức Chúa Trời” đôi khi được dùng đồng nghĩa với cụm từ “kính sợ Đức Giê-hô-va”. Gợi ý dịch - Tùy vào ngữ cảnh, các cách dịch từ “biết” có thể bao gồm “hiểu”, “quen thuộc”, “nhận thức”, “quen với” hay “ở trong mối liên hệ với”. - Một số ngôn ngữ có hai từ “biết” khác nhau tùy thuộc vào việc nó chỉ về việc nhận biết sự kiện hay con người. Cần đảm bảo sử dụng đúng từ trong mỗi ngữ cảnh. - Từ “làm nhận biết” có thể được dịch là “bày tỏ”, “nói” hay “giải thích”. - “Biết về” điều gì đó có thể được dịch là “nhận thức về” hay “quen thuộc với”. - Cụm từ “biết cách” có nghĩa là hiều được tiến trình hay cách thức làm việc gì đó. Từ này còn có thể được dịch là “có khả năng” hay “có kỹ năng”.
Bánh mì là một loại thực phẩm làm từ bột mì trộn với nước và dầu để tạo thành bột nhão. Rồi người ta nắn bột đó thành ổ và đem nướng.
- Bột bánh thường có thêm một nguyên liệu làm cho bột nổi lên chẳng hạn như men.
- Bánh vẫn có thể làm không cần có men để nó không dậy lên. Bánh nầy gọi là “bánh không men” và được dùng trong bữa ăn lễ Vượt qua của người Do Thái.
- Vì bánh là thức ăn chính của nhiều dân tộc trong thời đại thánh kinh, thuật ngữ nầy đôi khi được dùng trong Kinh Thánh để đề cập đến thực phẩm nói chung.
- Thuật ngữ “bánh trần thiết” chỉ về mười hai ổ bánh mì đặt trên chiếc bàn bằng vàng trong đền tạm hoặc đền thờ làm của lễ cho Đức Chúa Trời. Những ổ bánh này đại diện cho mười hai chi phái Y-sơ-ra-ên và chỉ thầy tế lễ mới được ăn. Có thể dịch là “bánh mì biểu thị Đức Chúa Trời ở giữa họ”.
- Thuật ngữ mang tính hình tượng “bánh từ trời” chỉ về một loại bánh đặc biệt màu trắng tên là “ma-na” mà Đức Chúa Trời ban cho dân Y-sơ-ra-ên khi họ lang thang trong đồng vắng.
- Chúa Giê-xu cũng tự xưng Ngài là “bánh từ trời” hoặc “bánh sự sống”.
- Khi Chúa Giê-xu và các môn đồ đang dự bữa ăn lễ Vượt qua trước khi Ngài chịu chết, Ngài ví sánh bánh trong bữa ăn đó là thân thể Ngài sẽ chịu thương khó và chịu chết trên cây thập tự.
Bê-ên-xê-bun là chúa quỉ và là một tên gọi khác của Sa tan, hay ma quỉ.
- Trong nhiều bản Kinh Thánh Bê-ên-xê-bun cũng được viết một cách khác là Bê-ên-dê-bun.
- Nghĩa đen của nó là “chúa tể loài ruồi”, có nghĩa là “thủ lĩnh của ma quỷ”.
- Vì đây là một tên gọi nên cần được dịch thành một tên gọi.
- Có thể dịch là “quỷ Bê-ên-xê-bun” để làm rõ nó chỉ về ai.
Bô-ô là chồng của Ru-tơ, ông cố nội của vua Đa-vít, và là tổ phụ của Chúa Giê-xu Christ.
- Bô ô sống trong thời Các quan xét ở Y-sơ-ra-ên.
- Ông là bà con của một người phụ nữ Y-sơ-ra-ên tên là Na-ô-mi, bà đã trở về Y-sơ-ra-ên sau khi chồng và con trai qua đời ở Mô-áp.
- Bô-ô “đã chuộc lại” con dâu góa phụ của Na-ô-mi là Ru-tơ bằng cách cưới nàng, cho nàng một tương lại có chồng và con cái.
- Ông được xem là hình ảnh của Chúa Giê-xu giải cứu và chuộc chúng ta khỏi tội lỗi.
Bết-lê-hem là một thành phố nhỏ trong xứ Y-sơ-ra -ên, gần thành Giê-ru-sa-lem. Thành nầy cũng có tên là Ép-ra-ta, đây có lẽ là tên gọi ban đầu của nó. - Bết-lê-hem được gọi là “thành Đa-vít”, vì vua Đa-vít ra đời tại đó. - Tiên tri Mi-chê nói rằng Đấng Mê-si-a sẽ đến từ “Bết-lê-hem Ép-ra-ta”. - Ứng nghiệm lời tiên tri nầy, Chúa Giê-xu đã giáng sinh tại Bết-lê-hem nhiều năm sau đó. - Bết-lê-hem có nghĩa là “nhà bánh mì” hoặc là “nhà thực phẩm”.
Ca-bê-na-um là một làng đánh cá tọa lạc ở bờ biển tây bắc của biển Ga li lê. - Chúa Giê-xu ở tại Ca-bê-na-um khi Ngài đến dạy dỗ ở Ga-li-lê. - Một số môn đồ của Ngài xuất thân từ Ca-bê-na-um. - Chúa Giê-xu cũng làm nhiều phép lạ ở thành này, bao gồm việc khiến bé gái đã chết sống lại. - Ca-bê-na-um là một trong ba thành phố Chúa Giê-xu công khai quở trách vì dân ở đó từ chối Ngài và không tin sứ điệp của Ngài. Ngài cảnh báo họ rằng Đức Chúa Trời sẽ trừng phạt họ vì sự vô tín của họ.
Cai-phe là thầy tế lễ thượng phẩm của dân Y-sơ-ra-ên trong thời của Giăng Báp tít và Chúa Giê-xu. - Cai-phe đóng một vai trò quan trọng trong sự xét xử và định tội Chúa Giê-xu. - Thấy tế lễ thượng phẩm An-ne va Cai-phe là người xét xử Phi-e-rơ và Giăng lúc họ bị bắt giữ sau khi chưa lành cho người què. - Cai-phe là người nói rằng thà một người chết vì cả đất nước hơn là cả đất nước phải tàn lụi. Đức Chúa Trời khiến ông nói điều này như một lời tiên tri về việc Chúa Giê-xu sẽ chết để cứu con dân của Ngài.
Khi được dùng theo nghĩa đen, thuật ngữ “cha” nói đến bậc phụ huynh là nam, nhưng từ này cũng có một số cách dùng theo nghĩa bóng. - “Cha” và “tổ phụ” thường được dùng để nói đến tổ tiên của của một người hay một nhóm người nào đó. Hai từ này có thể được dịch thành “tổ tiên” hay “ông tổ”. - Cách nói “cha của” có thể được hiểu theo nghĩa bóng, tức là chỉ về người làm đầu hay người khởi xướng điều gì đó. Ví dụ, trong Sáng Thế Ký 4, "cha của những người sống trong lều trại” nghĩa là “thủ lãnh của tộc người đầu tiên sống trong lều trại”. - Sứ đồ Phao-lô gọi mình cách ẩn dụ là “cha” của những người ông đã giúp trở thành Cơ Đốc nhân qua việc rao truyền tin lành cho họ. Gợi ý dịch - Khi nói về cha và con theo nghĩa đen, từ này nên được dịch bằng từ ngữ thông thường chỉ về người cha. - “Đức Chúa Cha” cũng nên được dịch bằng từ ngữ thông thường chỉ về “cha”. - Khi đề cập đến tổ phụ, hai từ này có thể được dịch thành “tổ tiên” hay “ông tổ”. - Khi Phao-lô tự nhận mình theo nghĩa bóng là cha của những người tin Đấng Christ, từ này có thể được dịch thành “cha thuộc linh” hay “cha trong Đấng Christ”. - Đôi khi từ “cha” có thể được dịch “thủ lãnh thị tộc”. - Cụm từ “cha của sự nói dối” có thể được dịch thành “nguồn gốc của mọi sự dối trá” hay “kẻ mà từ nó sinh ra mọi sự dối trá.”
Thuật ngữ “Chúa” chỉ về người làm chủ hay có quyền trên người khác. Khi được viết hoa, từ này là danh hiệu chỉ về Đức Chúa Trời.
- Trong Cựu Ước, thuật ngữ này được dùng để chỉ về Đức Chúa Trời chẳng hạn như “Chúa là Đức Chúa Trời quyền năng”, “Chúa Giê-hô-va” hay “Giê-hô-va Chúa chúng ta”.
- Trong Tân Ước, các sứ đồ sử dụng thuật ngữ này trong những câu nói như “Đức Chúa Giê-xu” và “Đức Chúa Giê-xu Christ”, điều này thể hiện Chúa Giê-xu là Đức Chúa Trời.
- Từ “Chúa” trong Tân Ước cũng được dùng riêng để chỉ trực tiếp về Đức Chúa Trời, đặc biệt là trong câu trích dẫn từ Cựu Ước. Chẳng hạn như Cựu Ước có câu “Đáng ngợi khen đấng nhân danh Đức Giê-hô-va mà đến”, trong Tân Ước chép “Đáng ngợi khen đấng nhân danh Chúa mà đến”.
- Bản Kinh Thánh ULB và UDB chỉ dùng từ “Chúa” để dịch từ “Chúa” của tiếng Hê-bơ-rơ và tiếng Hy Lạp, chứ không bao giờ được dùng để dịch danh xưng (Giê-hô-va) của Đức Chúa Trời như trong những bản dịch khác.
Gợi ý dịch
- Một số ngôn ngữ dịch thuật ngữ này là “Chủ” hoặc “Vua” hoặc một vài thuật ngữ khác chỉ về quyền làm chủ hay người cai trị tối cao.
- Nhiều bản dịch viết hoa chữ cái đầu để độc giả biết đây là danh hiệu chỉ về Đức Chúa Trời.
- Đối với những chỗ trong Tân Ước trích dẫn từ Cựu Ước thì có thể sử dụng từ “Chúa Giê-hô-va” để làm rõ từ này chỉ về Đức Chúa Trời.
Chúa Giê-xu là Con Đức Chúa Trời. Danh xưng “Giê-xu” có nghĩa là “Đức Giê-hô-va giải cứu”. Thuật ngữ “Đấng Christ” là một danh hiệu mang ý nghĩa là “Đấng được xức dầu” và là một từ chỉ về Đấng Mê-si-a. - Hai danh xưng này thường được kết hợp với nhau thành “Chúa Giê-xu Christ” hay “Chúa Cứu thế Giê-xu”. Những danh xưng này nhấn mạnh rằng Con Đức Chúa Trời là Chúa Cứu Thế đến để cứu con người khỏi hình phạt đời đời vì tội lỗi của họ. - Bằng một phương cách kỳ diệu, Đức Thánh Linh làm cho Con đời đời của Đức Chúa Trời được sinh ra làm người. Cha mẹ trên đất của Ngài được thiên sứ phán dặn phải đặt tên Ngài là “Giê-xu” vì Ngài được định sẵn để giải cứu con người ra khỏi tội lỗi. - Chúa Giê-xu làm nhiều phép lạ bày tỏ Ngài chính là Đức Chúa Trời và là Đấng Christ hay là Chúa Cứu Thế. Gợi ý dịch - Nhiều ngôn ngữ viết danh xưng “Giê-xu” và “Christ” theo sát âm vực và chính tả của từ gốc hết mức có thể. Ví dụ, “Jesucristo,” “Jezus Christus,” “Yesus Kristus”, và “Hesukristo” là những cách gọi được dịch ra thành các ngôn ngữ khác nhau. - Với thuật ngữ “Christ”, một số ngôn ngữ có thể chuộng sử dụng thuật ngữ “Mê-si-a” xuyên suốt. - Cần xem xét những danh xưng này được viết thế nào trong ngôn ngữ địa phương hay ngôn ngữ quốc gia.
“Con Người” là danh hiệu Chúa Giê-xu dùng để chỉ về chính mình. Trong Cựu Ước, từ “con người” là cách nói đến một người. - Trong Cựu Ước, cụm từ “con người” thường có nghĩa là “người” hay “loài người." - Đức Chúa Trời dùng từ “con người” như một cách gọi, chẳng hạn khi Ngài phán cùng Ê-xê-chi-ên “…hỡi con người, hãy nói tiên tri…” Cách gọi này được dùng xuyên suốt trong sách Ê-xê-chi-ên." - Chúa Giê-xu thường dùng từ này để chỉ về chính mình thay vì nói “Ta”. Đây cũng có thể là cách nói khiêm tốn chỉ về bản thân trong thời đó." - Tiên tri Đa-ni-ên nhìn thấy khải tượng “con người” ngự xuống với đám mây, điều này chỉ về sự trở lại của Chúa Cứu Thế. Chúa Giê-xu cũng phán rằng một ngày nào đó Con Người sẽ trở lại trên những đám mây. - Chúa Giê-xu nói về chính Ngài rằng rồi đây “Con Người” sẽ trở lại trong đám mây. - Những chi tiết về việc Chúa Giê-xu trở lại trên những đám mây bày tỏ Chúa Giê-xu là Đức Chúa Trời. Gợi ý dịch - Trường hợp khi Chúa Giê-xu dùng từ “Con Người” thì có thể dịch là “Đấng đến làm người”, “Người đến từ thiên đàng” hay “Đấng đến từ thiên đàng”." - Một số dịch giả thỉnh thoảng dùng từ “Ta” đi kèm với cụm từ này (chẳng hạn như “Ta, Con Người”) để làm rõ Chúa Giê-xu đang nói về chính Ngài
Trong Kinh Thánh, thuật ngữ “con” thường được dùng một cách phổ biến để nói đến một người còn rất nhỏ tuổi, bao gồm cả bé sơ sinh. Thuật ngữ “con cái” là hình thức số nhiều và cũng có một số cách dùng mang tính hình tượng khác. - Trong Kinh Thánh, các môn đồ và người theo Chúa đôi khi được gọi là “con cái”. - Thông thường, thuật ngữ “con cái” được dùng để nói tới dòng dõi của một người. - Cụm từ “con cái của” có thể đề cập tới sự mô tả về điều gì đó. Có một số thí dụ về từ này như: - con cái của sự sáng - con cái của sự vâng phục - con cái ma quỷ - Thuật ngữ này cũng có thể nói đến những người là con cái thuộc linh. Ví dụ, “con cái của Đức Chúa Trời” nói đến những người thuộc về Đức Chúa Trời nhờ đức tin nơi Chúa Giê-xu. Gợi ý dịch: - The term "children" could be translated as "descendants" when it is referring to a person's great-grandchildren or great-great-grandchildren, etc. - Thuật ngữ “con cái” có thể được dịch là “dòng dõi” khi nói đến chắt hoặc chít của một người, v. v. - Tùy theo ngữ cảnh “con cái của” có thể được dịch là “người có đặc tính của” hoặc là “người có cách đối xử như”. - Nếu có thể, cụm từ “con cái Đức Chúa Trời” nên được dịch theo nghĩa đen vì theo một chủ đề quan trọng trong Kinh Thánh thì Đức Chúa Trời là Cha thiên thượng của chúng ta. Một cách dịch thay thế khác là “người thuộc về Đức Chúa Trời” hoặc “con cái thuộc linh của Đức Chúa Trời”. - Khi Phao-lô và Giăng đề cập đến các tín hữu trong Chúa Giê-xu như “con cái”, thì có thể dịch là “các tín hữu thân mến”. - Cụm từ “con của lời hứa” có thể được dịch là “người đã nhận lãnh lời Đức Chúa Trời hứa cho họ”.
Con cái là một thuật ngữ tổng quát chỉ về các thế hệ con cái sinh học của con người và động vật. - Trong Kinh Thánh, “con cái” có nghĩa tương tự như “các con” hay “hậu duệ”. - Thuật ngữ “hạt giống” đôi khi được dùng theo nghĩa bóng để chỉ về con cái.
Từ “con trai” chỉ về một cậu bé hoặc một người nam trong mối quan hệ với ba mẹ. Từ này có thể chỉ về con trai ruột hoặc con trai được nhận nuôi.
- Trong Kinh Thánh “con trai” thường được dùng theo nghĩa tượng trưng để chỉ về bất kì những hậu tự nào là nam giới, chẳng hạn như cháu hoặc chắc.
- Từ “con trai” cũng được dùng làm cách gọi lịch sự để gọi một cậu bé hoặc người nam nhỏ tuổi hơn.
- Đôi khi cụm từ “các con trai của Đức Chúa Trời” được dùng theo nghĩa hình tượng trong Tân Ước để chỉ về những người tin nơi Đấng Christ.
- Cụm từ “con trai của” có nghĩa bóng là “có bản tính của”. Ví dụ như “con trai của sự sáng”, “con trai của sự không vâng lời”, “con trai của hòa bình”, “con trai của sấm sét”.
- Cụm từ “con trai của” thường được dùng để cho biết cha của người đó là ai. Cụm từ này thường được dùng trong gia phả và nhiều chỗ khác.
- Sử dụng cụm từ “con trai của” để cho biết tên cha của người đó thường giúp phân biệt những người có cùng tên. Chẳng hạn như “A-xa-ria, con trai của Xa-đốc” và “A-xa-ria, con trai của Na-than” trong I Các Vua 4 với “A-xa-ria, con trai A-ma-xia” ở II Các vua 15 là ba người khác nhau.
Gợi ý dịch:
- Hầu hết nên dịch từ “con trai” bằng thuật ngữ nghĩa đen nói đến con trai ngôn ngữ dịch.
- Nên dùng từ “con trai” theo nghĩa thông thường để dịch cho cụm từ “Con trai của Đức Chúa Trời”.
- Khi từ này được dùng để chỉ về một hậu duệ chứ không phải là con trai trực tiếp thì có thể dịch bằng từ “dòng dõi”, như khi nói Chúa Giê-xu là “dòng dõi của vua Đa-vít” hoặc trong gia phả đôi khi từ “con trai” chỉ về một hậu duệ.
- Đôi khi từ “con trai” có thể được dịch là “con cái” khi ám chỉ đến cả con trai và con gái. Chẳng hạn như “con trai của Đức Chúa Trời” nên dịch là “con cái của Đức Chúa Trời” vì cách nói này bao gồm cả các em gái và phụ nữ.
- Cách nói tượng trưng “con của” có thể được dịch là “người có bản tính của”, “người giống”, “người có” hay “người hành động giống”.
Con Đức Chúa Trời là Chúa Giê-xu, Ngài đến thế gian làm người để cứu chuộc và cai trị thế gian." - Con Đức Chúa Trời có bản tính giống như Đức Chúa Cha, và như vậy Ngài hoàn toàn là Đức Chúa Trời. - Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Linh có cùng một bản tính. - Không giống như con trai loài người, Con Đức Chúa Trời luôn luôn tồn tại. - Ban đầu, Con Đức Chúa Trời đã vận hành trong sự sáng tạo thế giới cùng với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Thánh Linh. - Vì Chúa Giê-xu là Con Đức Chúa Trời nên Ngài yêu mến và vâng phục Cha, Cha cũng yêu mến Ngài. Gợi ý dịch - Đối với thuật ngữ “Con Đức Chúa Trời”, tốt nhất nên dịch từ “Con” bằng từ tương tự ở ngôn ngữ dịch chỉ về con trai thuộc thể của một người cha. - Cần đảm bảo cách dịch từ “con trai” phù hợp với cách dịch từ “cha” và chúng là những từ tự nhiên nhất để thể hiện mối quan hệ cha-con thực sự. - In hoa chữ đầu tiên trong từ “Con” để cho thấy đang nói về Đức Chúa Trời.
Rìu là dụng cụ dùng để chặt hay đốn củi. - Rìu là dụng cụ dùng để chặt hay đốn củi. - Rìu thường có cán gỗ dài với một lưỡi rìu bằng kim loại gắn chặt vào phần cuối cây rìu - Nếu trong nền văn hóa của nước bạn có sử dụng một dụng cụ tương tự như cái rìu, thì tên gọi của dụng cụ đó có thể được dùng để dịch cho thuật ngữ “cái rìu”. - Có thể dịch thuật ngữ này thành “dụng cụ chặt cây” hoặc “dụng cụ gỗ có lưỡi” hay "hay một dụng cụ có cán bằng gỗ dài dùng để chặt cây." - Có một sự kiện xảy ra trong Cựu Ước, trong đó lưỡi rìu rơi xuống sông, vì vậy tốt nhất nên mô tả là dụng cụ này là có lưỡi có thể tháo rời ra khỏi cán gỗ.
Cô-ra là tên của ít nhất hai người trong Cựu Ước. - Một trong các con trai của Ê-sau tên là Cô-ra. Ông trở thành một lãnh đạo của dân tộc. - Cô-ra cũng là một hậu duệ của Lê-vi, ông làm thầy tế lễ phục vụ trong đền tạm. Ông ghen tị với địa vị và thẩm quyền Đức Chúa Trời ban cho Môi-se và A-rôn. - Ông đã âm mưu cùng với Đa-than và A-bi-ram kích động dân chúng nổi loạn chống lại những người lãnh đạo mà Đức Chúa Trời lập trên họ..
Từ “cứu” chỉ về việc gìn giữ một người hay một vật khỏi điều xấu xa hay bị thiệt hại. “An toàn” là được bảo vệ khỏi thiệt hại hay nguy hiểm. - Từ “giải cứu” cũng có ý nghĩa tương tự nhưng thường có ngụ ý là được đem ra khỏi tình trạng đang phải chịu tổn hại. - Về thuộc thể, một người có thể được cứu hay được giải cứu khỏi những tổn hại, nguy hiểm hay sự chết. - Người ta có thể cứu hay giải cứu một người khỏi nguy hiểm, nhưng chỉ duy Đức Chúa Trời có thể cứu con người khỏi bị trừng phạt đời đời do hậu quả của tội lỗi. Gợi ý dịch - Các cách dịch từ “cứu” có thể bao gồm “giải thoát”, “giữ khỏi nguy hại”, “đem ra khỏi con đường nguy hại” hay “kéo ra khỏi nguy hiểm”. Từ “an toàn” có thể được dịch là “được bảo vệ khỏi nguy hại”, “nằm ngoài con đường nguy hại” hay “ở nơi không điều gì có thể làm hại”.
Người Do Thái là dòng dõi của Áp-ra-ham qua cháu của ông là Gia-cốp. - Người ta bắt đầu gọi dân Y-sơ-ra-ên là “người Do Thái” sau khi họ trở về Giu-đa từ cuộc lưu đày tại Ba-by-lôn. - Từ “Do Thái” xuất phát từ chữ “Giu-đa”. Những người Y-sơ-ra-ên bị đưa sang Ba-by-lôn xuất thân từ vương quốc Giu-đa ở phía nam. - Chúa Cứu Thế Giê-xu là người Do Thái. Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo tôn giáo người Do Thái chối bỏ Chúa Giê-xu và yêu cầu xử tử Ngài.
Ga-li-lê là vùng cực bắc của nước Do Thái, xa hơn về phía bắc so với Sa-ma-ri. - Ga-li-lê giáp với một cái hồ lớn về phía tây gọi là “biển Ga-li-lê”. - Chúa Giê-su sống và lớn lên ở thành Na-xa-rét xứ Ga-li-lê. - Người Ga-li-lê là người sống ở Ga-li-lê.
Gia-cốp là con trai song sinh của Y-sác và Rê-bê-ca, Gia-cốp là em. - Tên gọi Gia-cốp có nghĩa là “kẻ lừa dối” hay “kẻ lường gạt”. - Gia-cốp lanh lợi và dối trá. Ông tìm cách cướp quyền thừa kế của con trưởng và những phước lành từ anh trai là Ê-sau. - Ê-sau rất tức giận và lập kế hoạch giết ông nên ông rời khỏi quê nhà. Nhưng sau này ông trở về và sống hòa thuận với anh trai. - Đức Chúa Trời đổi tên của Gia-cốp thành Y-sơ-ra-ên, có nghĩa là “người tranh đấu cùng Đức Chúa Trời." - Đức Chúa Trời giữ giao ước với Áp-ra-ham và dòng dõi của ông qua con trai ông là Y-sác, và con trai Y-sác là Gia-cốp. - Gia-cốp có mười hai con trai. Con cháu của họ trở thành mười hai chi phái Y-sơ-ra-ên.
Gie-sê là cháu của Bô-ô và là cha của vua Đa-vít. - Gie-sê xuất thân từ thành Bết-lê-hem, thuộc chi phái Giu-đa. - Ê-sai nói tiên tri rất nhiều về một người thuộc dòng dõi Gie-sê. - Chúa Giê-xu là hậu duệ của Gie-sê, là Đấng làm ứng nghiệm lời tiên tri đó.
Giu-đa là con thứ tư trong mười hai con trai của Gia-cốp. Mẹ của ông là Lê-a. - Dòng dõi của Giu-đa trở thành chi phái Giu-đa. - Từ “Do Thái” xuất phát từ tên gọi “Giu-đa”. - Khi nước Y-sơ-ra-ên bị chia cắt sau khi triều đại vua Sa-lô-môn chấm dứt, vương quốc Giu-đa được đặt ở phía nam.
Giu-đa là chi phái lớn nhất trong số mười hai chi phái Y-sơ-ra-ên. Sau khi vua Sa-lô-môn chết, Y-sơ-ra-ên chia thành hai vương quốc: Y-sơ-ra-ên và Giu-đa. Vương quốc Giu-đa nằm ở phía nam bao gồm chi phái Giu-đa và Bên-gia-min. - Thủ đô của vương quốc Giu-đa là Giê-ru-sa-lem. - Một số vị vua của vương quốc Giu-đa vâng lời Đức Chúa Trời và dẫn dắt dân sự thờ phượng Ngài. Nhưng phần nhiều là những vị vua gian ác. - Hơn 120 năm sau khi A-si-ri đánh bại Y-sơ-ra-ên (vương quốc phía bắc) thì Giu-đa cũng bị nước Ba-by-lôn chinh phục. Người Ba-by-lôn phá hủy thành phố và đền thờ, bắt đi hầu hết dân chúng ở Giu-đa sang làm tù binh tại Ba-by-lôn.
Giu-đa là một trong mười hai sứ đồ của Chúa Giê-xu nhưng ông đã bán Ngài cho các nhà lãnh đạo Do Thái. - Tên gọi “Ích-ca-ri-ốt” có thể có nghĩa là “đến từ Kê-ri-ốt”. - Giu-đa Ích-ca-ri-ốt là một tên trộm; ông ta quản lí tiền của các sứ đồ nhưng bòn rút để bỏ túi riêng. - Giu-đa phản bội Chúa Giê-xu bằng cách báo cho các nhà lãnh đạo tôn giáo biết nơi Chúa Giê-xu đang ở để họ đến bắt Ngài. - Khi các lãnh đạo tôn giáo kết án tử hình Chúa Giê-xu thì Giu-đa hối hận vì đã phản Ngài và đi tự vẫn. - Cũng có những người khác có tên là Giu-đa trong Kinh Thánh, chẳng hạn như em của Chúa Giê-xu và một người khác trong mười hai môn đồ.
Giê-ri-cô là một thành phố hùng mạnh trong vùng đất hứa Ca-na-an. - Đây là thành đầu tiên Đức Chúa Trời bảo dân Y-sơ-ra-ên phải chinh phục ở Ca-na-an. - Giống như tất cả những cư dân tại Ca-na-an, người Giê-ri-cô cũng thờ lạy các tà thần. - Khi Giô-suê dẫn dắt dân Y-sơ-ra-ên tấn công Giê-ri-cô thì Đức Chúa Trời đã làm một phép lạ lớn giúp họ đánh bại thành phố này.
Giê-ru-sa-lem ban đầu là một thành phố cổ của dân Ca-na-an, sau này trở thành trung tâm chính trị tôn giáo quan trọng của Y-sơ-ra-ên. Đây cũng là thủ đô của nước Y-sơ-ra-ên ngày nay. - Thành phố Sa-lem trong Cựu Ước có lẽ cũng chính là thành phố Giê-ru-sa-lem. Cả hai cái tên này đều có gốc từ là “hòa bình”. - Áp-ra-ham dâng con trai mình là Y-sác trên núi Mô-ri-a thuộc thành phố Giê-ru-sa-lem. - King David captured Jerusalem from the Jebusites and made it his capital city. - Vua Đa-vít chiếm thành Giê-ru-sa-lem từ tay dân Giê-bu-sít và đặt làm thủ đô. - Người Ba-by-lôn đã phá hủy Giê-ru-sa-lem, nhưng 70 năm sau đó Đức Chúa Trời cho phép dân sự trở về và xây dựng lại thành phố. - Vì đền thờ nằm ở Giê-ru-sa-lem nên đây cũng là trung tâm tổ chức những lễ hội lớn của người Do Thái. - Trong Tân Ước, Chúa Giê-xu khi còn bé được dâng tại đền thờ Giê-ru-sa-lem, cũng chính tại đây Ngài chịu xét xử và kết án tử hình trên cây thập tự. - Sau khi Chúa Giê-xu sống lại, Giê-ru-sa-lem là một trong những nơi chính yếu Ngài thường dành thời gian với các môn đồ trước khi về trời. - Vì Giê-ru-sa-lem thuộc miền núi của Y-sơ-ra-ên nên người ta thường gọi đi đến Giê-ru-sa-lem là “đi lên Giê-ru-sa-lem."
Giô-na là một tiên tri người Hê-bơ-rơ trong Cựu Ước. - Sách Giô-na viết về thời điểm Đức Chúa Trời sai Giô-na đi đến Ni-ni-ve. - Đức Chúa Trời sai Giô-na đến thành Ni-ni-ve và kêu gọi họ từ bỏ tội lỗi. - Giô-na đã từ chối và đi tàu đến một nước khác. - Những người trên tàu ném Giô-na xuống biển và một con cá lớn đã nuốt lấy ông. - Giô-na ở trong bụng cá ba ngày. - Giô-na đến thành Ni-ni-ve và rao giảng cho dân chúng, họ từ bỏ tội lỗi của mình.
Có một số người Y-sơ-ra-ên tên là Giô-suê trong Kinh Thánh. Người được biết đến nhiều nhất là Giô-suê con của Nun, là người giúp đỡ Môi-se và sau này trở thành người lãnh đạo quan trọng của dân sự Đức Chúa Trời. - Giô-suê là một trong mười hai thám tử được Môi-se sai đi do thám đất hứa. - Cùng với Ca-lép, Giô-suê bày tỏ lòng dũng cảm và tin cây Đức Chúa Trời khi ông khích lệ dân Y-sơ-ra-ên vâng theo mạng lệnh Đức Chúa Trời tiến vào đất hứa và đánh bại dân Ca-na-an. - Nhiều năm sau khi Môi-se qua đời, Đức Chúa Trời đặt Giô-suê lên lãnh đạo dân Y-sơ-ra-ên vào đất hứa. - Trong trân chiến đầu tiên và danh tiếng nhất đánh dân Ca-na-an, Giô-suê lãnh đạo dân sự đánh bại thành Giê-ri-cô theo cách Đức Chúa Trời bày tỏ. - Sách Giô-suê ở Cựu Ước viết về các sự kiện diễn ra trong thời kỳ Giô-suê làm lãnh đạo, bao gồm việc chính phục đất hứa và việc phân chia đất cho các chi phái Y-sơ-ra-ên. - Một người tên Giô-suê khác được nhắc đến trong Cựu Ước ở sách A-ghê và Xa-cha-ri. Đây là một thầy tế lễ thượng phẩm đã giúp xây sửa lại tường thành Giê-ru-sa-lem. Ông là con của Giô-sa-đác.
Gáp-ri-ên là tên một thiên sứ của Đức Chúa Trời. - Chúa sai thiên sức đến truyền đạt một tin tức quan trọng cho tiên tri Đa-ni-ên, cho thầy tế lễ Xa-cha-ri, và cho tring nữ Ma-ri. - Trong Cựu Ước, Ngài được mô tả là trông như con người, và con người bay được.
Tên Hê-nóc được đề cập vài lần trong Cựu và Tân Ước, ông là cha của Mê-tu-sê-la và là ông cố của Nô-ê. - Hê-nóc có quan hệ mật thiết với Đức Chúa Trời. - Khi được 365 tuổi, ông được Đức Chúa Trời tiếp lên với Ngài mà không trải qua sự chết. - Một người khác tên là Hê-nóc, con của Ca-in.
Hê-rô-đia là vợ của vua Hê-rốt (An-ti-pa) ở Giu-đa trong thời Giăng Báp-tít. - Hê-rô-đia ban đầu là vợ của em trai Hê-rốt là Phi-líp, nhưng lại bất chính kết hôn với Hê-rốt. - Giăng Báp-tít lên án Hê-rốt và Hê-rô-đia vì hôn nhân phi pháp của họ. Vậy nên Hê-rốt bỏ tù Giăng và cuối cùng là cho chặt đầu ông.
Hạt giống là một phần của cây được trồng xuống đất để làm loại cây đó sinh sản thêm nhiều. Từ này cũng mang nhiều ý nghĩa biểu tượng. - Từ “hạt giống” cũng được dùng theo nghĩa bóng và hoa mỹ để chỉ về những tế bào nhỏ trong người nam và người nữ khi kết hợp với nhau hình thành nên em bé trong lòng người nữ. - Từ “hạt giống” thường được dùng để chỉ về con cái hay dòng dõi của một người. - Từ này thường mang nghĩa số nhiều, nghĩa là nhiều hơn một hạt giống hay một hậu duệ. - Trong ẩn dụ về người gieo giống, Chúa Giê-xu so sánh hạt giống với Lời Chúa được gieo vào lòng người để sanh trái tốt thuộc linh. - Sứ đồ Phao-lô dùng từ “hạt giống” để chỉ về Lời Chúa. Gợi ý dịch - Đối với từ hạt giống theo nghĩa đen thì tốt nhất nên dịch bằng từ có nghĩa đen ở ngôn ngữ dịch chỉ về vật người nông dân dùng để trồng trong vườn. - Nên dùng từ này ở nghĩa đen trong ngữ cảnh nó được dùng theo lối ẩn dụ để chỉ về Lời Chúa. - Đối với nghĩa bóng chỉ về những người cùng gia đình thì có thể dùng từ “hậu duệ” hay “con cháu” thay vì từ hạt giống để làm cho rõ nghĩa. Một số ngôn ngữ có thể có một từ chỉ chung về “con và cháu." - Đối với ý nghĩa là “hạt giống” của người nam hay người nữ thì cần xem xét cách dịch thế nào để người nghe không cảm thấy bị xúc phạm hay xấu hổ.
La-xa-rơ là một người bạn của Chúa Giê-xu được Ngài gọi sống dậy. - La-xa-rơ có hai em gái tên là Ma-ri và Ma-thê cũng tin Chúa Giê-xu. - Sau khi Chúa Giê-xu gọi La-xa-rơ sống lại, các lãnh đạo Do Thái tức giận và cố gắng tìm cách để giết cả hai người.
Thuật ngữ “linh” chỉ về phần phi vật chất, là phần không thể thấy được của con người. Khi chết, linh hồn của con người sẽ lìa khỏi thân xác. - Thuật ngữ “linh” có thể chỉ về một bản chất không có thân thể vật lý, đặc biệt là chỉ về ác linh. - Linh hồn là một phần của con người, linh hồn có thể biết Chúa và tin nhận Ngài. - Nói chung, từ “thuộc linh” mô tả tất cả những thứ thuộc về thế giới phi vật chất. - Trong Kinh Thánh, thuật ngữ “thuộc linh” đặc biệt chỉ về những thứ liên quan đến Đức Chúa Trời, cụ thể là Đức Thánh Linh. - Ví dụ “thức ăn thuộc linh” chỉ về sự dạy dỗ của Đức Chúa Trời nuôi dưỡng linh hồn con người, “sự khôn ngoan thuộc linh” chỉ về sự hiểu biết và cách hành xử công chính đến từ quyền năng của Đức Thánh Linh. - Đức Chúa Trời là thần linh, Ngài tạo dựng nên các thể linh khác, là những thể không có cơ thể vật lí. - Thiên sứ là thể linh, bao gồm cả những thiên sứ phản nghịch Đức Chúa Trời và trở thành ác linh. - Thuật ngữ “linh của” có thể được dịch là “có bản tính của”, chẳng hạn như “linh của sự khôn ngoan." Gợi ý dịch - Tùy vào ngữ cảnh, có thể dịch từ “linh” là “linh hồn”, “thể phi vật chất”, “phần bên trong” hay “nội thể." - Trong một số ngữ cảnh, thuật ngữ “linh” có thể được dịch là “ác linh” hay “tà linh." - Đôi khi từ “linh” được dùng để bày tỏ cảm xúc của một con người như trong câu “lòng tôi chua xót”. Câu này có thể được dịch là “tôi thấy đau buồn trong tâm linh” hay “tôi đau buồn cùng cực”." - Cụm từ “linh của” có thể được dịch là “sự khôn ngoan của”, “bản tính của” hay “sự ảnh hưởng của”." - Tùy vào ngữ cảnh, “thuộc linh” có thể được dịch là “phi vật chất”, “đến từ Đức Thánh Linh”, “thuộc về Đức Chúa Trời” hay “thuộc về thế giới phi vật chất”. - Sữa thiêng liêng = “sự dạy dỗ căn bản từ Đức Chúa Trời” hay “sự dạy dỗ của Đức Chúa Trời nuôi dưỡng tâm linh (giống như công dụng của sữa)”
Linh hồn là phần bên trong, vô hình và tồn tại đời đời, là phần phi vật chất của con người và có ý nghĩa tương tự như “tâm linh”. - Thuật ngữ “linh hồn” và “tâm linh” có thể là hai khái niệm khác nhau, hoặc cũng có thể là hai thuật ngữ chỉ về cùng một khái niệm. - Khi chết, linh hồn của con người sẽ rời khỏi thể xác. - Từ “linh hồn” đôi khi được dùng để chỉ về cả một con người. Ví dụ, “linh hồn nào phạm tội” có nghĩa là “người nào phạm tội”, và “linh hồn tôi mệt mỏi” có nghĩa là “tôi mệt mỏi." Gợi ý dịch - Thuật ngữ “linh hồn” có thể được dịch là “bản thân bên trong” hay “con người bên trong." - Trong một số ngữ cảnh, “linh hồn tôi” có thể được dịch là “tôi." - Cụm từ “linh hồn” thường được dịch là “người” hay “anh ta” tùy vào ngữ cảnh. - Một số ngôn ngữ có thể chỉ có một từ chỉ chung cho cả “linh hồn” và “tâm linh." - Trong Hê-bơ-rơ 4:12, cụm từ nghĩa bóng “chia hồn và linh” có nghĩa là “thấu hiểu hay phơi bày con người bên trong."
Lu-ca là tác giả của hai sách trong Kinh Thánh: phúc âm Giăng và Công Vụ.
- Trong thư gửi cho người Cô-lô-se, Phao-lô gọi Lu-ca là bác sĩ. Phao-lô cũng nhắc đến Lu-ca trong hai bức thư của ông.
- Lu-ca đồng hành với Phao-lô trong hai chuyến hành trình truyền giáo và phụ giúp công việc cho Phao-lô.
- Một số bản ghi chép của hội thánh đầu tiên cho biết Lu-ca được sinh ra tại thành An-ti-ốt xứ Sy-ri.
Luật là quy tắt pháp lý thường được viết ra và được thực thi bởi người có thẩm quyền. Nguyên tắt là sự hướng dẫn hay tiêu chuẩn để đưa ra quyết định. - Từ “luật” và “nguyên tắc” đều chỉ về quy tắt hay niềm tin chung chi phối hành vi của con người. - Ý nghĩa của từ “luật” này khác với từ luật pháp của Môi-se. - Khi chỉ về luật pháp nói chung thì từ “luật” có thể được dịch là “nguyên tắc” hay “quy tắc chung”.
Tất cả những thuật ngữ này chỉ về những mệnh lệnh và chỉ dẫn mà Đức Chúa Trời truyền cho Môi-se để dân Y-sơ-ra-ên phải vâng giữ. Các thuật ngữ “luật pháp của Đức Giê-hô-va” và “luật pháp của Đức Chúa Trời” cũng được dùng phổ biến hơn để nói đến những gì Chúa muốn dân Ngài vâng theo.
- Tùy vào ngữ cảnh, từ “luật pháp” con thể chỉ về:
- Mười điều răn Đức Chúa Trời viết trên bảng đá cho dân Y-sơ-ra-ên.
- Tất các các luật pháp ban cho Môi-se
- Năm sách đầu tiên của Cựu Ước.
- Toàn bộ Cựu Ước (còn được Tân Ước gọi là Kinh Thánh).
- Mọi chỉ dẫn và ý muốn của Đức Chúa Trời.
- Đôi khi cụm từ “luật pháp và các đấng tiên tri” được dùng trong Tân Ước để chỉ về Kinh Thánh Hy Bá Lai (hoặc “Cựu Ước”).
Gợi ý dịch
- Vì có rất nhiều mạng lệnh nên một số bản dịch dùng từ này ở số nhiều là “các luật pháp”.
- “Luật Môi-se” có thể được dịch là “Luật pháp Đức Chúa Trời bảo Môi-se truyền cho dân Y-sơ-ra-ên”.
- Tùy vào ngữ cảnh, từ “luật Môi-se” còn có thể được dịch là “luật pháp Đức Chúa Trời phán với Môi-se”, “luật pháp của Đức Chúa Trời được Môi-se ghi lại” hay “luật pháp Đức Chúa Trời bảo Môi-se truyền cho dân Y-sơ-ra-ên”.
- Các cách dịch từ “luật pháp”, “luật pháp của Đức Chúa Trời” có thể bao gồm: “luật pháp từ Đức Chúa Trời”, “mạng lệnh của Đức Chúa Trời”, “luật pháp Chúa ban”, “mọi điều Chúa truyền”, hoặc “những chỉ dẫn của Đức Chúa Trời”.
- Cụm từ “luật pháp của Đức Giê-hô-va” có thể được dịch là “luật pháp Đức Giê-hô-va”, “luật pháp Đức Giê-hô-va truyền phải vâng theo”, “luật pháp từ Đức Giê-hô-va” hay “những điều Đức Giê-hô-va truyền”.
Luật pháp là luật được chép thành văn bản cụ thể, đưa ra những hướng dẫn cho con người vâng theo. - “Luật pháp” có ý nghĩa tương tự như “pháp lệnh”, “mệnh lệnh”, “luật pháp” hay “sắc lệnh”. Tất cả những từ này đều chỉ về những hướng dẫn hoặc yêu cầu mà Đức Chúa Trời truyền cho dân sự. - Vua Đa-vít nói rằng ông vui vẻ trong luật pháp của Đức Giê-hô-va. - Từ “luật pháp” có thể được dịch là “mệnh lệnh cụ thể” hay “sắc lệnh đặc biệt."
Lê-méc là tên của hai người được nhắc đến trong sách Sáng Thế Ký.
- Lê-méc thứ nhất được nhắc đến là một hậu duệ của Ca-in. Ông khoe khoang với hai người vợ rằng ông đã giết một người.
- Lê-méc thứ hai là một hậu duệ của Sết. Ông cũng là cha của Nô-ê.
Trong Kinh Thánh, Lót là cháu của Áp-ra-ham. - Lót là tổ phụ của dân Mô-áp và Am-môn.
Lạc đà là một con vật to lớn, có bốn chân, và trên lưng có một hoặc hai cái bướu. - Trong thời Kinh Thánh, lạc đà là con vật to lớn nhất được phát hiện ở Y-sơ-ra-ên và các vùng lân cận. - Công việc chính của lạc đà là chuyên chở người hoặc hàng hóa. - Một số dân tộc cũng ăn thịt lạc đà nhưng người Y-sơ-ra-ên thì không bởi vì Đức Chúa Trời dạy rằng lạc đà là con vật ô uế nên không được ăn thịt. - Lạc đà rất có ích bởi vì nó có thể di chuyển nhanh chóng trên cát và có thể sống không cần thức ăn, thức uống trong vòng vài tuần.
Từ “lời” chỉ về điều mà một người nói. - Ví dụ như khi thiên sứ nói cùng Xa-cha-ri “Ngươi không tin lời ta” nghĩa là “Ngươi không tin điều ta nói”. - Thuật ngữ này hầu như luôn chỉ về toàn bộ một thông điệp chứ không phải một từ. - Thông thường trong Kinh Thánh từ “lời” chỉ về mọi điều Đức Chúa Trời phán hay truyền lệnh, chẳng hạn như “lời của Đức Chúa Trời” hay “lời chân lý”. - Đôi khi từ “lời” đề cập đến lời nói chung, chẳng hạn như “có năng lực trong lời và việc làm” có nghĩa là “có năng lực trong lời nói và hành vi”. - Cách sử dụng rất đặc biệt của từ này là khi Chúa Giê-xu được gọi là “Ngôi Lời”. Gợi ý dịch: - Các cách khác để dịch từ “lời” hay “những lời” bao gồm “lời dạy”, “thông điệp”, “tin tức”, “lời nói” hoặc “điều được nói”. - Khi chỉ về Chúa Giê-xu thì từ “Ngôi Lời” có thể được dịch là “Thông điệp” hoặc “Lời phán”.
Tất cả các thuật ngữ nầy đều có liên quan đến ma quỷ là những linh thể chống đối ý chỉ của Đức Chúa Trời - Đức Chúa Trời tạo dựng thiên sứ để phục vụ Ngài. Khi ma quỷ chống nghịch lại Đức Chúa Trời, một số các thiên sứ cũng chống nghịch Ngài và bị đuổi ra khỏi thiên đàng. Người ta tin rằng ma quỷ và tà linh là những “thiên sứ sa ngã” nầy. - Đôi khi những con quỷ này còn được gọi là “linh ô uế”. Thuật ngữ “ô uế” có nghĩa là “không tinh sạch”, hoặc “xấu” hoặc “không thánh khiết”. - Vì quỷ phục vụ ma quỷ, nên chúng hay làm điều ác. Đôi khi chúng nhập vào con người và kiểm soát họ - Ma quỷ có quyền năng hơn con người nhưng kém hơn Đức Chúa Trời. Gợi ý dịch - Cũng có thể dịch thuật ngữ “ma quỷ” là “tà linh”. - Có thể dịch thuật ngữ “uế linh” là “linh ô uế” hay là “linh đồi bại” hay là “tà linh”. - Đảm bảo từ ngữ hay cụm từ sử dụng để dịch thuật ngữ nầy phải khác với thuật ngữ sử dụng liên quan đến ma quỷ. - Cũng nên suy nghĩ xem thuật ngữ “ma quỷ” được dịch như thế nào trong ngôn ngữ địa phương hay quốc gia.
Ma-ri Ma-đơ-len bắt đầu theo Chúa Giê-xu sau khi Ngài đuổi bảy quỷ dữ ra khỏi bà. - Ma-ri Ma-đơ-len và một số người nữ khác hỗ trợ Chúa Giê-xu và các sứ đồ bằng việc dâng hiến. - Ma-ri Ma-đơ-len và một số người nữ khác là những người đầu tiên nhìn thấy Chúa Giê-xu sau khi Ngài phục sinh.
Ma-thi-ơ là tên gọi của Lê-vi, con trai A-phê. Ma-thi-ơ là một trong mười hai người được Chúa Giê-xu chọn làm sứ đồ. - Trước khi gặp Chúa Giê-xu, Ma-thi-ơ là một viên thu thuế ở Ca-bê-na-um. - Ma-thi-ơ viết sách phúc âm mang tên ông.
Ma-thê là một người nữ ở Bê-tha-ni tin theo Chúa Giê-xu.
- Ma-thê có một em em gái tên là Ma-ri và anh trai tên là La-xa-rơ, họ cũng theo Chúa Giê-xu.
- Một lần kia, Ma-thê bị phân tâm bởi việc chuẩn bị bữa ăn trong khi em gái cô đang ngồi nghe Chúa Giê-xu dạy dỗ.
- Khi La-xa-rơ chết, Ma-thê nói với Chúa Giê-xu rằng cô tin Chúa Giê-xu là Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời.
Men là một chất làm cho bột nhào bánh nổi lên. Đôi khi từ này được gọi là chất làm lên men. - Trong thời Cựu Ước, chất làm lên men hay làm dậy men được sản xuất bằng cách để bột nhào yên vị một lúc. Những lượng bột nhỏ từ phần trước của bột nhào được để dành làm lên men ở đợt tiếp theo. - Khi dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ai Cập, họ không có thời gian để chờ bột bánh nổi lên, vì vậy họ làm bánh không men để đem theo trong suốt chặng đường. Để kỉ niệm về điều này, hàng năm, dân Do Tháo giữ lễ Vượt qua bằng cách chỉ ăn bánh không men. - Trong các bản dịch tiếng Anh, thuật ngữ men thường được dịch là “men”, là chất lên men mà ngày nay người ta dung để nhồi bánh bằng bọt ga, khiến cho phần bột nở rộng trước khi nướng bánh. Men được nhào trộn vào trong phần bột nhào cho đến khi nó lan ra hết miếng bột. - Thuật ngữ “men” thường được dung theo nghĩa bóng trong Kinh Thánh làm hình ảnh chỉ về tội lỗi đã lan tỏa trong đời sống con người và ảnh hưởng đến người khác. Từ này cũng có thể nói đến sự giảng dạy sai trái. - Thuật ngữ “men” được dung theo nghĩa bóng để giải thích về vương quốc Đức Chúa Trời ảnh hưởng đên từng người. - Nếu trong văn hóa của người dịch người ta làm dậy bánh bằng cách nung chất natri cacbonat, bột nổi, hoặc dùng sản phẩm khác để làm dậy bánh, thì có thể dùng thuật ngữ đó trong ngôn ngữ sẽ dịch ra. Gợi ý dịch - Từ này có thể được dịch là “men” hoặc “chất làm dậy bánh.” Từ “dậy” cũng có thể được giải thích là “mở rộng”, “lớn hơn,” hoặc “phồng lên.” - Nếu chất làm lên men ở địa phương được dùng để làm cho bột bánh nở ra, thì có thể sử dụng thuật ngữ đó.
Môi-se là một vị tiên tri và là người lãnh đạo dân Y-sơ-ra-ên suốt hơn 40 năm. - Đức Chúa Trời chọn Môi-se để giải phóng dân Y-sơ-ra-ên khỏi ách nô lệ tại Ai Cập và dẫn họ vào đất hứa. - Đức Chúa Trời trao cho Môi-se bản đá ghi những điều răn dành cho dân Y-sơ-ra-ên. - Gần cuối đời, Môi-se không vâng lời Chúa nên không được vào sống ở đất hứa Ca-na-an.
Thuật ngữ “môn đồ” nói về một người dành thì giờ theo một người thầy để học về tính cách và giáo lý của người đó. - Người theo Chúa Giê-xu, là những người nghe và vâng theo sự dạy dỗ của Ngài, được gọi là “môn đồ” của Ngài. - Giăng Báp tít cũng có môn đồ. - Trong thời Chúa Giê-su thi hành chức vụ, có nhiều môn đồ theo Ngài và nghe Ngài dạy dỗ. - Chúa Giê-xu chọn mười hai môn đồ để làm những môn đồ thân cận, những người nầy sau nầy là “sứ đồ” của Ngài. - Mọi người đều biết mười hai sứ đồ của Chúa Giê-xu vốn là “môn đồ” của Ngài hay còn gọi là “Mười hai sứ đồ”. - Trước khi Chúa Giê-xu thăng thiên, Ngài cũng truyền dạy môn đồ Ngài đi dạy dỗ tha nhân về cách trở thành môn đồ của Chúa Giê-xu. - Hễ ai tin Chúa Giê-xu và vâng theo sự dạy dỗ của Ngài được gọi là môn đồ của Chúa Giê-xu. Gợi ý dịch - Có thể dịch thuật ngữ “môn đồ” bằng một từ hay cụm từ như “môn sinh”, “sinh viên”, “học trò”, hay “học viên”. - Đảm bảo rằng bản dịch của thuật ngữ nầy không chỉ nói đến một học sinh hay sinh viên trong lớp. - Phải dịch thuật ngữ nầy khác với từ ngữ “sứ đồ”.
“Mộ” và “phần mả” chỉ về nơi người ta đặt xác của người chết. “Nơi chôn cất” là thuật ngữ tổng quát hơn để nói đến điều này.
- Người Do Thái thỉnh thoảng dùng những hang động tự nhiên để làm hầm mộ và đôi khi họ đục đá ở mặt bên của một ngọn đồi để làm hang.
- Trong thời Tân Ước, người ta thường lăn một tảng đá lớn và nặng ở phía trước cửa mộ để đóng nó lại.
- Nếu từ mộ hoặc phần mả chỉ về một cái hố để đặt xác vào lòng đất thì nó còn có thể được dịch là “hang” hay “hốc trong đồi”.
- Cụm từ “nơi chín suối” thường được dùng phổ biến và hình bóng chỉ về tình trạng đã chết hay nơi dành cho linh hồn người chết.
Na-a-man là chỉ huy quân đội của một trong những kẻ thù Y-sơ-ra-ên. - Na-a-man mắc một căn bệnh đáng sợ về da mà không ai biết cách cứu chữa. - Ê-li-sê bảo Na-a-man đi tắm dưới sông Giô-đanh. Khi ông vâng lời thì Đức Chúa Trời chữa lành cho ông. - Na-a-man tin Đức Chúa Trời vì Ngài đã chữa lành cho ông.
Na-cô là tên của hai người trong Kinh Thánh: ông và em trai của Áp-ra-ham. - Rê-bê-ca, vợ của Y-sác là cháu gái Na-cô, em trai Áp-ra-ham. - Cũng có một thành phố gọi là “thành của Na-cô”, có thể nó chỉ về ông của Áp-ra-ham. Cụm từ này có thể có nghĩa là “thành tên là Na-cô”, “thành Na-cô sinh sống” hay “thành thuộc về Na-cô”.
Na-hum là một nhà tiên tri giảng dạy trong suốt thời kỳ vua Ma-na-se gian ác cai trị Giu-đa. - Na-hum xuất thân từ Ên-cốt, cách Giê-ru-sa-lem khoảng 20 dặm. - Sách Na-hum ghi lại những lời tiên tri của ông về sự hủy phá thành Ni-ni-ve của nước Sy-ri.
Na-than là một tiên tri trung tín của Đức Chúa Trời sống trong thời kỳ Đa-vít làm vua cai trị Y-sơ-ra-ên. - Đức Chúa Trời sai Na-than đối mặt với Đa-vít sau khi Đa-vít phạm tội nghiêm trọng với U-ri. - Na-than quở trách Đa-vít cho dù Đa-vít là vua. - Đa-vít ăn năn tội lỗi sau khi Na-than nói chuyện với ông.
Na-xa-rét là một thành thuộc xứ Ga-li-lê ở phía bắc Y-sơ-ra-ên. - Na-xa-rét là một thành thuộc xứ Ga-li-lê ở phía bắc Y-sơ-ra-ên. - Nhiều người ở Na-xa-rét không tôn trọng lời giảng dạy của Chúa Giê-xu vì Ngài lớn lên ở giữa họ và họ nghĩ rằng Chúa Giê-xu chỉ là một người bình thường. - Dân thành Na-xa-rét tìm cách giết Chúa Giê-xu khi Ngài tuyến bố Ngài là Chúa Cứu Thế.
Ngợi khen một người là thể hiện sự ngưỡng mộ và tôn kính người đó.
- Con người ngợi khen Đức Chúa Trời vì sự lớn lao của Ngài và vì mọi điều kỳ diệu Ngài đã làm, Ngài là Đấng Sáng Tạo, là Đấng Cứu Chuộc thế gian.
- Ngợi khen Đức Chúa Trời thường bao gồm lòng biết ơn vì những điều Ngài đã làm.
- Âm nhạc và ca hát thường là một cách để ngợi khen Chúa.
- “Ngơi khen” trực tiếp với Chúa là một phần của “thờ phượng”.
Thuật ngữ “nhà” thường được dùng theo nghĩa bóng trong Kinh Thánh. - Đôi khi từ này có nghĩa là “hộ gia đình”, dùng để nói đến những thành viên cùng sống trong một căn nhà. - Thuật ngữ “nhà” thường nhắc đến tổ tiên của một người nào đó, con cháu hoặc những người thân, chẳng hạn như “nhà Đa-vít.” - Thuật ngữ “nhà của Đức Chúa Trời” và “nhà của Đức Giê-hô-va” thường được dùng để nói đến đền tạm hoặc đền thờ. Hai cụm từ này thường ám chỉ về nơi Đức Chúa Trời hiện diện hoặc ngự. - Trong Hê-bơ-rơ 3, “nhà của Đức Chúa Trời” được dùng làm ẩn dụ nhắc đến dân sự của Đức Chúa Trời hoặc tổng quát hơn, là nói về mọi thứ gắn liền với Đức Chúa Trời. - Cụm từ “nhà Y-sơ-ra-ên” có thể ám chỉ chung đến cả quốc gia Y-sơ-ra-ên hoặc đặc biệt hơn chính là các chi phái của vương quốc Y-sơ-ra-ên nằm ở phía bắc. Gợi ý dịch - Tùy vào ngữ cảnh, “nhà” có thể được dịch là, “hộ gia đình”, “dân tộc”, “gia đình”, “con cháu”, “đền thờ”, hoặc “nơi cư ngụ.” - Cụm từ “nhà Đa-vít” có thể được dịch là, “thị tộc Đa-vít”, “gia đình Đa-vít”, hoặc “con cháu Đa-vít.” Các thành ngữ liên quan có thể được dịch tương tự - Các cách dịch khác để dịch cụm “nhà Y-sơ-ra-ên” có thể bao gồm, “dân Y-sơ-ra-ên”, “con cháu Y-sơ-ra-ên” hoặc “người Y-sơ-ra-ên.” - Cụm từ “nhà Đức Giê-hô-va” có thể được dịch là “đền thờ của Đức Giê-hô-va”, “nơi thờ phượng Đức Giê-hô-va”, “nơi Đức Giê-hô-va gặp dân sự Ngài” hoặc “nơi Đức Giê-hô-va ngự.”
Ni-ni-ve là thành phố thủ đô của A-si-ri. Người Ni-ni-ve là người sống ở thành Ni-ni-ve. - Đức Chúa Trời sai tiên tri Giô-na đi cảnh báo dân thành Ni-ni-ve phải xoay bỏ con đường gian ác. Họ đã vâng theo và Đức Chúa Trời không tiêu diệt họ. - Sau này người A-si-ri không thờ phượng Đức Chúa Trời nữa. Họ chinh phục vương quốc Y-sơ-ra-ên và đem những người ở đây sang Ni-ni-ve.
Nô-ê là người sống vào khoảng hơn 4,000 trước, khi Đức Chúa Trời sai cơn nước lụt tiêu diệt toàn bộ loài người gian ác trên đất. Đức Chúa Trời phán dặn Nô-ê đóng một chiếc tàu khổng lồ để ông và cả gia đình có thể sống sót khi nước lụt bao phủ khắp mặt đất. - Nô-ê là người công bình vâng lời Đức Chúa Trời trong mọi việc. - Khi Đức Chúa Trời chỉ cho Nô-ê cách xây dựng chiếc tàu khổng lồ thì ông làm chính xác như lời Ngài phán dặn. - Bên trong chiếc tàu, Nô-ê và gia đình ông được an toàn, sau đó con cháu của ông tiếp tục sinh sôi đầy dẫy khắp đất. - Tất cả những người được sinh ra sau cơn nước lụt đều là con cháu của gia đình Nô-ê.
Ngoài ý nghĩa cơ bản, từ “nước” cũng thường được dùng để chỉ về những vùng nước, chẳng hạn như đại dương, biển, hồ hay sông.
- Từ “nước” chỉ về những dòng nước hay các nguồn nước. Từ này cũng được dùng để nói chung về một lượng nước lớn.
- Nghĩa bóng của từ này chỉ về những tai hoạ lớn, khó khăn và đau khổ. Chẳng hạn, Đức Chúa Trời hứa rằng khi chúng ta “vượt qua các dòng nước” Ngài sẽ ở cùng.
- Cụm từ “các dòng nước” nhấn mạnh mức độ khó khăn gay gắt.
- Cấp nước cho gia súc và thú vật nghĩa là “cung cấp nước” cho chúng. Trong thời Kinh Thánh, công việc này bao gồm dùng xô múc nước từ giếng sau đó đổ nước vào máng hoặc một loại vật chứa nào đó cho những con vật uống nước.
- Trong Cựu Ước, Đức Chúa Trời được ví như suối hay nguồn “nước sống” cho dân sự Ngài. Điều này có nghĩa là Ngài chính là nguồn năng lực và sự tươi mới thuộc linh.
- Trong Tân Ước, Chúa Giê-xu dùng cụm từ “nước sống” để chỉ về Đức Thánh Linh làm việc trong lòng người để mang đến sự biến đổi và đời sống mới.
Gợi ý dịch:
- Cụm từ “lấy nước” có thể được dịch là “dùng xô múc nước giếng”.
- “Suối nước sống sẽ chảy ra từ họ” có thể được dịch là “năng quyền và phước lành từ Đức Thánh Linh sẽ tuôn tràn qua họ như nguồn nước“.Có thể dùng từ “ân tứ”, “bông trái” hay “đức tính tin kính” thay cho từ “phước lành”.
- Khi Chúa Giê-xu nói chuyện với người phụ nữ Sa-ma-ri bên giếng nước, cụm từ “nước sống” có thể được dịch là “nước ban sự sống”. Trong ngữ cảnh này, hình ảnh của nước phải được giữ nguyên trong bản dịch.
- Từ “dòng nước” hay “nhiều dòng nước” có thể được dịch là “những khổ nạn (bao quanh bạn như nước)” hay “những khó khăn ngập tràn (như nước lụt)”.
Pha-ri-si là một nhóm người quan trọng thuộc giới lãnh đạo tôn giáo của Y-sơ-ra-ên trong thời Chúa Giê-xu. Phần nhiều trong số họ là doanh nhân thuộc tầng lớp trung lưu và một số người cũng là thầy tế lễ. Trong số tất cả các lãnh đạo Do Thái, người Pha-ri-si tuân giữ luật Môi-se và các luật Do Thái và truyền thống nghiêm khắc nhất. Họ rất quan tâm đến việc giữ người Do Thái khỏi những ảnh hưởng của dân ngoại xung quanh. Thực tế, tên gọi “Pha-ri-si” xuất phát từ từ “tách biệt”. Người Pha-ri-si tin vào đời sau, họ cũng tin vào sự tồn tại của thiên sứ và những thể linh khác. Người Pha-ri-si và Sa-đu-sê (bao gồm thầy tế lễ cả) tích cực chống đối Chúa Giê-xu và những Cơ Đốc nhân đầu tiên.
Đây là những tên gọi khác nhau của Phi-e-rơ, một trong mười hai sứ đồ của Chúa Giê-xu. Ông là nhà lãnh đạo quan trọng của Hội Thánh đầu tiên. - Trước khi được Chúa Giê-xu kêu gọi trở thành môn đồ Ngài, ông có tên là Si-môn. - Sau đó, Chúa Giê-xu đặt tên cho ông là Sê-pha, nghĩa là “đá” trong tiếng A-ram. Ông cũng được gọi là Phi-e-rơ, có nghĩa là “đá” trong tiếng Hy Lạp - Ông được biết đên nhiều nhất với tên gọi Phi-e-rơ và Si-môn Phi-e-rơ. - Đức Chúa Trời làm việc qua Phi-e-rơ để chữa lành nhiều người và truyền giảng tin lành về Chúa Giê-xu. - Có hai sách trong Tân Ước là thư Phi-e-rơ viết để khích lệ và dạy dỗ các tín hữu.
Phi-lát là quan tổng đốc La Mã, người kết án tử hình Chúa Giê-xu. - Vì Phi-lát là quan tổng đốc nên ông có quyền xử tử tội phạm. - Các nhà lãnh đạo Do Thái muốn Phi-lát đóng đinh Chúa Giê-xu nên nói dối rằng Chúa Giê-xu là một tội nhân. - Phi-lát nhận ra Chúa Giê-xu không hề có tội nhưng ông sợ đám đông và vì thế ra lệnh cho quân lính đóng đinh Chúa Giê-xu.
Phi-líp là một thành phố nằm ở phía bắc Hy Lạp cổ đại. - Phao-lô và Si-la đi đến Phi-líp để rao giảng về Chúa Giê-xu cho người dân ở đó. - Phao-lô và Si-la bị bắt tại Phi-líp nhưng Chúa đã giải thoát cho họ cách kỳ diệu. - Thư Phi-líp trong Kinh Thánh được Phao-lô viết cho các Cơ Đốc nhân tại Phi-líp.
“Quay” hay “quay khỏi” nghĩa là đổi hướng về mặt vật lý hoặc khiến vật gì đó phải đổi hướng. - Từ “quay lại” có nghĩa là trở lại nơi một người đã ở trước đó. Từ này có thể mang nghĩa bóng là “bắt đầu lại”. - “Quay về” phía ai đó có nghĩa là “đối mặt” trực tiếp với người đó, thường là để nói chuyện. - “Quay trở lại” có nghĩa là “đi khỏi” ai đó hay vật gì đó. - Theo nghĩa bóng, “quay khỏi” có nghĩa là ngừng làm một việc gì đó, còn “quay lại” là bắt đầu làm lại. - Khi đoạn văn nói ai đó đã “quay lại và bỏ đi” hay “xoay lưng bỏ đi” thì có nghĩa là người đó xoay lại và bỏ người kia để đi một hướng khác. - “Biến thành” cũng có nghĩa là “trở thành” hay “khiến trở thành”. Ví dụ như khi cây gậy của Môi-se “biến thành” con rắn thì có nghĩa là nó đã trở thành một con rắn. Gợi ý dịch - Dựa vào ngữ cảnh, từ “quay” có thể được dịch là “đổi hướng”, “đi” hay “di chuyển”. - Từ “trở lại” có thể được dịch là “đi trở lại”, “trả lại” hay “bắt đầu làm lại”.
Từ “quyền năng” chỉ về khả năng làm hoặc khiến điều gì xảy ra bằng sức mạnh to lớn và thẩm quyền.
- “Quyền năng của Đức Chúa Trời” chỉ về khả năng của Đức Chúa Trời làm những việc con người không làm được.
- Đức Chúa Trời là tối cao, có quyền năng hoàn toàn trên mọi vật Ngài tạo dựng.
- Đức Chúa Trời ban cho con dân Ngài năng lực để làm điều Ngài muốn, để khi họ chữa lành hay làm những phép lạ, họ sẽ làm bằng quyền năng của Ngài.
- Vì Chúa Giê-xu và Đức Thánh Linh cũng là Đức Chúa Trời nên cả hai Đấng cũng có quyền năng tương tự.
Gợi ý dịch:
- Tuỳ vào ngữ cảnh, “quyền năng” có thể được dịch là “khả năng”, “sức mạnh”, “năng lực”, “khả năng làm phép lạ” hoặc “điều khiển”.
- Các cách dịch cho từ “các thế lực” có thể bao gồm “những thể quyền lực” hoặc “những linh thống trị” hoặc “những người kiểm soát người khác”.
- Cách nói như “cứu chúng con khỏi quyền lực của kẻ thù” có thể được dịch là “cứu chúng con khỏi bị kẻ thù áp bức” hoặc “cứu chúng con khỏi bị kẻ thù kiểm soát”. Trong trường hợp này, “quyền lực” có nghĩa là sử dụng sức mạnh của mình để kiểm soát và đàn áp người khác.
Sa-bát là một ngày đặc biệt trong tuần lễ Đức Chúa Trời truyền cho dân Y-sơ-ra-ên phải biệt riêng làm ngày nghỉ. - Ngày Sa-bát là ngày thứ bảy (ngày cuối cùng) của tuần lễ. - Sau khi Đức Chúa Trời hoàn tất việc sáng tạo vũ trụ trong sáu ngày, vào ngày thứ bảy thì Ngài nghỉ. Cũng vậy, Đức Chúa Trời truyền cho dân Y-sơ-ra-ên phải biệt riêng ngày thứ bảy thành một ngày đặc biệt để nghỉ ngơi và thờ phượng Ngài. - Đối với người Do Thái thì ngày Sa-bát bắt đầu vào lúc mặt trời lặn ngày thứ sáu cho đến lúc mặt trời lặn ngày thứ bảy. Gợi ý dịch - Có thể dịch là “ngày nghỉ”, “ngày để nghỉ ngơi”, “ngày không làm việc” hay “ngày nghỉ của Đức Chúa Trời”. - Một số bản dịch viết hoa thuật ngữ này để thể hiên đây là một ngày đặc biệt, chằng hạn như “Ngày Sa-bát” hay “Ngày Nghỉ”. - Cần xem xét cách dịch cụm từ này như thế nào trong ngôn ngữ dịch hay ngôn ngữ địa phương.
Sa-lô-môn là một trong các con trai của vua Đa-vít. Mẹ ông là Bát-sê-ba. - Khi Sa-lô-môn lên làm vua, Đức Chúa Trời bảo ông hãy cầu xin điều gì ông muốn. Sa-lô-môn đã cầu xin được sự khôn ngoan để cai trị dân sự cách công chính và tốt lành. Đức Chúa Trời hài lòng với điều ông cầu xin và ban cho ông cả sự khôn ngoan lẫn sự giàu có. - Sa-lô-môn xây đền thờ cho Đức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem theo như kế hoạch của cha ông là Đa-vít. - Dù Sa-lô-môn cai trị cách khôn ngoan trong những năm đầu cai trị, nhưng về sau ông dại dột cưới nhiều vợ ngoại bang và bắt đầu thờ lạy thần tượng của họ. - Vì sự bất trung của Sa-lô-môn mà sau khi ông chết Đức Chúa Trời đã chia Y-sơ-ra-ên thành hai vương quốc: Y-sơ-ra-ên và Giu-đa. Hai nước này thường gây chiến cùng nhau.
None
Ma quỷ là linh được Đức Chúa Trời tạo dựng nên nhưng nổi loạn nghịch cùng Ngài và trở thành kẻ thù của Ngài. Ma quỷ còn được gọi là “Sa-tan” và “quỷ dữ”." - Ma quỷ, Sa-tan ghét Đức Chúa Trời và mọi điều Ngài dựng nên vì nó muốn thay thế Đức Chúa Trời và được thờ phượng như Ngài. - Sa-tan cám dỗ con người chống nghịch lại Đức Chúa Trời. - Đức Chúa Trời ban Con của Ngài là Chúa Giê-xu để giải cứu con người khỏi sự điều khiển của Sa-tan. - Tên “Sa-tan” có nghĩa là “kẻ đối địch” hay “kẻ thù”. - Từ “ma quỷ” có nghĩa là “kẻ kiện cáo”. Gợi ý dịch - Từ “ma quỷ” cũng có thể được dịch là “kẻ kiện cáo”, “quỷ dữ”, “vua của các quỷ dữ” hay “quỷ trưởng”. - “Sa-tan” có thể được dịch là “Kẻ đối địch”, “Kẻ thù” hoặc những tên gọi khác chỉ về ma quỷ. - Những từ này cần được dịch khác với từ ma quái và ác thần. - Cần xem xét cách dịch những từ này trong ngôn ngữ dịch hay ngôn ngữ địa phương.
Người Sa-đu-sê là một nhóm các thầy tế lễ Do Thái tham gia chính trị trong thời Chúa Giê-xu. Họ ủng hộ sự cai trị của La Mã và không tin vào sự sống lại. - Người Sa-đu-sê thường là những người giàu có, thuộc tầng lớp thượng lưu của người Do Thái. Họ hỗ trợ cho những vị trí lãnh đạo quyền lực chẳng hạn như thầy tế lễ cả và thầy tế lễ thượng phẩm. - Nhiệm vụ của họ là coi sóc khu đền thờ và những công việc của thầy tế lễ như dâng của tế lễ. - Người Sa-đu-sê và người Pha-ri-si là những nhân tố chính trong việc đóng đinh Chúa Cứu Thế Giê-xu. - Chúa Giê-xu lên án hai nhóm tôn giáo này vì sự ích kỷ và giả hình của họ.
Sem là một trong ba con trai của Nô-ê cùng vào tàu với ông trong thời kỳ đại hồng thủy được mô tả trong sách Sáng Thế Ký. - Sem là ông tổ của dòng dõi người Do Thái, sau này dần trở thành dân tộc Y-sơ-ra-ên. - Kinh Thánh ghi lại Sem sống được khoảng 600 năm.
Si-lô là một thành phố của Ca-na-an có tường thành bao bọc được dân Y-sơ-ra-ên chinh phục dưới sự lãnh đạo của Giô-suê. - Thành Si-lô nằm ở phía tây sông Giô-đanh và phía đông bắc thành Bê-tên. - Trong suốt thời kỳ Giô-suê lãnh đạo dân Y-sơ-ra-ên, thành Si-lô là nơi hội họp của dân sự. - Mười hai chi phái Y-sơ-ra-ên tụ họp tại Si-lô để nghe Giô-suê phân chia những phần đất Ca-na-an cho mỗi chi phái. - Trước khi đền thờ được xây dựng ở Giê-ru-sa-lem, Si-lô là nơi dân Y-sơ-ra-ên đến dâng của lễ cho Đức Chúa Trời. - Mẹ của Sa-mu-ên là An-ne mang ông đến Si-lô khi còn nhỏ để dâng ông cho Đức Chúa Trời. Ông ở tại đó với tiên tri Ê-li để được đào tạo phục vụ Chúa.
Trong Kinh Thánh có một số người nam tên là Si-mê-ôn. - Trong Cựu Ước, con trai thứ hai của Gia-cốp (Y-sơ-ra-ên) và Lê-a tên là Si-mê-ôn. Con cháu của ông trở thành một trong mười hai chí phái Y-sơ-ra-ên. - Chi phái của Si-mê-ôn chiếm đóng vùng lãnh thổ cực nam của đất hứa Ca-na-an, là một phần sản nghiệp của Giu-đa. - Trong Tân Ước, một người tin kính Chúa tên là Si-mê-ôn có mặt tại đền thờ Giê-ru-sa-lem khi Giô-sép và Ma-ri mang con trẻ Giê-xu lên dâng cho Đức Chúa Trời. Si-mê-ôn chúc phước cho Chúa Giê-xu và ngợi khen Đức Chúa Trời vì Ngài đã ban cho họ Đấng Mê-si-a làm Cứu Chúa cho toàn nhân loại. - Để tách biệt những người có cùng tên Si-mê-ôn thì các dịch giả có thể viết vần tên của họ khác biệt chút.
Si-đôn là con trai cả của Ca-na-an. Cũng có một thành phố thuộc Ca-na-an tên là Si-đôn. - Thành Si-đôn năm ở bờ biển Địa Trung Hải, ngày nay là một phần của nước Li Băng. - “Người Si-đôn” là dân tộc sống ở Si-đôn cổ đại và những vùng lân cận. Họ là dân ngoại bang. - Theo Kinh Thánh, Si-đôn có liên hệ mật thiết với thành Ty-rơ, cả hai thành phố này đều nổi tiếng về sự thịnh vượng và lối sống vô luân của dân chúng.
Sy-ren là một thành phố Hy Lạp nằm trên bờ biển phía bắc của Phi châu ở Địa Trung Hải, ngay về phía nam của đảo Cơ-rết. - Trong thời Tân Ước, có cả người Do Thái và Cơ Đốc nhân đều sống tại Sy-ren - Trong Kinh Thánh, có lẽ có nhiều người biết Sy-ren vì đây là quê hương của Si-môn, người vác thập giá của Chúa Giê-xu.
Sy-ri là một đất nước nằm ở phía bắc Y-sơ-ra-ên. Vào thời Tân Ước, nó là một tỉnh ở dưới quyền cai trị của đế quốc La Mã. - Vào thời Cựu Ước, quân Sy-ri là kẻ thù rất mạnh của dân Y-sơ-ra-ên. - Na-a-man là một chỉ huy của quân đội Sy-ri, được tiên tri Ê-li-sê chữa lành bệnh phung. - Nhiều dân cư tại Sy-ri là dòng dõi của A-ram, hậu duệ của Sem, con trai Nô-ê. - Đa-mách, thủ đô của Sy-ri, được nhắc đến rất nhiều lần trong Kinh Thánh. - Sau-lơ đến thành Đa-mách với kế hoạch bức hại các Cơ Đốc nhân tại đây, nhưng Chúa Giê-xu đã ngăn ông lại.
“Sê-sa” là tên hay tước hiệu cho nhiều nhà cai trị đế quốc La Mã. Trong Kinh Thánh, tên gọi này chỉ về ba nhà cai trị La Mã khác nhau. - Nhà cai trị La Mã thứ nhất tên Sê-sa là “Sê-sa Au-gút-tơ”, cai trị vào thời gian Chúa Giê-su giáng sinh. - Khoảng ba mươi năm sau đó, khi Giăng Báp-tít đang giảng dạy thì Ti-be-rơ Sê-sa cai trị đế quốc La Mã. - Ti-be-rơ Sê-sa vẫn tiếp tục cai trị La Mã khi Chúa Giê-xu bảo dân chúng trả cho Sê-sa những gì thuộc về Sê-sa và trả cho Đức Chúa Trời những gì thuộc về Ngài. - Khi Phao-lô chống án đến Sê-sa thì ở đây đang chỉ về hoàng đế La Mã là Nê-rô cũng có tước hiệu là “Sê-sa”. - Khi từ “Sê-sa” được dùng làm một tước hiệu thì có thể dịch là “Hoàng đế” hoặc “người cai trị La Mã”. - Trong các tên gọi như Sê-sa Au-gút-tơ hay Ti-be-rơ Sê-sa thì từ “Sê-sa” có thể được viết theo cách phát âm theo ngôn ngữ trong nước.
Sô-đôm là thành phố phía nam Ca-na-an, là nơi Lót, cháu của Áp-ra-ham sinh sống cùng vợ và các con. - Vùng đất xùng quanh Sô-đôm rất tươi tốt và màu mỡ nên Lót chọn để sinh sống khi lần đầu tiên định cư ở Ca-na-an. - Vị trí chính xác của thành phố này chưa được xác định vì Sô-đôm và thành Gô-mô-rơ lân cận đã bị Đức Chúa Trời tiêu diệt hoàn toàn để trừng phạt vì những điều gian ác của cư dân tại đó. - Tội lỗi nghiêm trọng nhất của dân thành Sô-đôm và Gô-mô-rơ là đồng tính luyến ái.
Sết là con trai thứ ba của A-đam và Ê-va được nhắc đến trong Kinh Thánh. - Ê-va nói rằng Đức Chúa Trời ban Sết thay thế cho A-bên, người đã bị anh trai là Ca-in giết chết. - Sết là tổ phụ của Nô-ê và tất cả những người sống kể từ đời Nô-ê trở đi. - Dòng dõi của Sết được biết đến là dòng dõi đầu tiên “kêu cầu danh Chúa”.
Sọ là cấu trúc xương của đầu người. - Động vật cũng có sọ. - “Chỗ cái sọ” là tên gọi khác của đồi Gô-gô-tha, nơi Chúa Giê-xu chịu đóng đinh.
Nhiều lần trong Cựu Ước Đức Chúa Trời nói về chính Ngài, Chúa sử dụng tên của Ngài thay cho đại từ nhân xưng. - Ví dụ, thay vì nói “Hãy kính mến Ta,” Ngài nói, “Hãy kính mến Đức Giê-hô-va." - Để làm rõ rằng Chúa là Đấng nói về chính Ngài, bản ULB khi dịch thường thêm một đại từ nhân xưng như trong “Hãy kính mến Ta, Đức Giê-hô-va” hay “Ta, Đức Giê-hô-va phán”. - Bằng cách thêm vào đại từ nhân xưng “Ta,” bản ULB cho người đọc thấy rằng Chúa đang phán. Gợi ý dịch - Một số người dịch quyết định rằng sẽ tự nhiên và rõ ràng trong ngôn ngữ của họ khi theo văn bản ban đầu và dùng “Đức Giê-hô-va” mà không thêm đại từ nhân xưng. - Một số có thể quyết định dùng đại từ nhân xưng với Đức Giê-hô-va chỉ một số lần vào phần đầu của văn bản, còn sau đó lược bỏ đại từ nhân xưng ở phần còn lại. Một ví dụ trong bản ULB là Phục Truyền 5:9-16. - Nếu có thể, tốt nhất là nên giữ Đức Giê-hô-va khi từ này xuất hiện trong văn bản; một số bản dịch có thể quyết định chỉ dùng đại từ nhân xưng ở một số chỗ để làm văn bản tự nhiên và rõ ràng hơn. - Đây là tóm tắt của các cách để dịch ‘ Đức Giê-hô-va” khi Chúa phán: “Đức Giê-hô-va”.
“Tay” trong Kinh Thánh có một số cách hiểu theo nghĩa bóng . - “Tay” thường được dùng để chỉ quyền năng và việc làm của Đức Chúa Trời, như khi Chúa phán “chẳng phải mọi vật đều do tay Ta tạo dựng sao?” (Xem [[:en:ta:vol2:translate:figs_metonymy]]). - Cách diễn đạt như “trao cho” hay “giao vào tay của” nghĩa là khiến ai đó phải phục dưới quyền lực hay sự kiểm soát của một người khác. - Động từ “trao tay” một vật gì cho ai đó nghĩa là “đưa” vật đó cho họ. - Thuật ngữ “đặt tay” có ý nói đến việc đặt một tay lên một người để dâng người đó cho công tác hầu việc Chúa, hay để cầu nguyện chữa bệnh. - Một số cách sử dụng theo nghĩa bóng của từ “tay” bao gồm: - “Đừng tra tay trên” có nghĩa là “đừng làm hại”. - “Giải cứu khỏi tay của” có nghĩa là ngăn một người làm hại một người khác. - “Cách một bàn tay” có nghĩa là “gần đó - Vị trí “bên tay hữu” có nghĩa là “ở phía bên phải” hay “về phía bên phải”. - Cụm từ “bởi tay của” người nào đó nghĩa là “bởi” hay “qua” hành động của người đó. Ví dụ, “bởi tay của Đức Chúa Trời” có nghĩa Chúa là Đấng khiến việc đó xảy ra. - Khi Phao-lô nói, “được viết bởi tay ta,” có nghĩa là phần này của bức thư được chính Phao-lô viết xuống chứ không phải do người khác ra lệnh ông phải viết. Gợi ý dịch - Những thành ngữ và hình thái tu từ như trên có thể được dịch theo cách sử dụng các cách diễn đạt khác có cùng ý nghĩa. Hoặc ý nghĩa có thể được dịch sử dụng ngôn ngữ văn chương trực tiếp.
Tha-rê là con cháu của Sem, con trai Nô-ê. Ông là cha của Áp-ram, Na-cô và Ha-ran. - Tha-rê rời gia đình tại U-rơ để đi đến vùng đất Ca-na-an cùng với con trai là Áp-ram, cháu là Lót và vợ của Áp-ram là Sa-rai. - Trên đường đến Ca-na-an, họ cư ngụ một thời gian tại thành phố Ha-ran thuộc vùng Lưỡng Hà, Tha-rê qua đời tại Ha-ran hưởng thọ 205 tuổi.
Thuật ngữ “thánh” và “sự thánh khiết” nói đến đặc điểm của Đức Chúa Trời, Ngài hoàn toàn tách biệt khỏi mọi thứ tội lỗi và bất toàn. - Chỉ một mình Chúa là hoàn toàn thánh. Ngài khiến con người và các vật nên thánh. - Người thánh thuộc về Đức Chúa Trời và được biệt riêng vì mục đích phục vụ Chúa và dâng vinh hiển cho Ngài. - Một vật thể được Chúa xưng là thánh là vật mà Ngài đã biệt riêng cho sự vinh hiển và sự sử dụng của Ngài, ví dụ như bàn thờ được cho mục đích dâng lễ vật cho Ngài. - Vì Đức Chúa Trời là thánh, nên con người không tiếp cận Ngài trừ khi Ngài cho phép, vì họ chỉ là con người tội lỗi và bất toàn. - Trong Cựu Ước, Chúa biệt riêng các thầy tế làm người thánh cho công tác phục vụ đặc biệt. Họ phải được tẩy uế khỏi tội lỗi một cách trang trọng để ra mắt Chúa. - Chúa cũng biệt riêng một số nơi chốn và vật dụng làm thánh thuộc về Ngài hay qua đó bày tỏ chính Ngài, như “đất thánh” (Xuất Ê-díp-tô ký 3:5) hay đến thờ của Ngài. Gợi ý dịch - Các cách để dịch từ “thánh” có thể bao gồm, “biệt riêng cho Chúa”, “thuộc về Chúa”, “tinh sạch hoàn toàn”, “hoàn toàn vô tội” hay “tách biệt khỏi tội lỗi” - “Khiến nên thánh” thường được dịch thành “thánh hóa”. Cụm từ này cũng được dịch là “biệt riêng”.
Từ “thánh” mô tả những thứ thánh khiết, được biệt riêng để tôn vinh danh Chúa.
- Kinh Thánh nên thánh vì là lời của Đức Chúa Trời.
- Ngày Sa-bát là thánh vì là ngày nghỉ của Đức Chúa Trời.
- Đền tạm là thánh vì là nơi Đức Chúa Trời gặp gỡ dân sự.
- Những vật được gọi là “thánh” có giá trị vì được biệt riêng cho Đức Chúa Trời sử dụng.
- Từ này cũng có thể chỉ về những vật được dùng để thờ tà thần.
Gợi ý dịch:
- Có thể dịch bằng những từ khác như “thánh hóa”, “biệt riêng” hay “cống hiến”.
- Từ thánh khiết cũng được dùng trong một số ngữ cảnh nhất định, đặc biệt là với ý nghĩa được biệt riêng để Đức Chúa Trời sử dụng và tôn vinh danh Ngài.
- Lưu ý từ “thánh” này chỉ được dùng cho vật, chứ không dùng cho người.
Thô-ma là một trong số mười hai người được Chúa Giê-xu chọn làm môn đồ (còn gọi là sứ đồ). - Thô-ma được biết đến với một tên gọi khác là Đi-đim, có nghĩa là song sinh. - Thô-ma được biết đến nhiều nhất với sự kiện ông nói rằng sẽ không tin Chúa Giê-xu sống lại trừ khi thấy và cảm nhận nơi vết thương của Ngài. - Thô-ma cũng là người xin Chúa giải thích làm cách nào để biết đường đến với Đức Chúa Cha.
Một thế hệ là một nhóm người được sinh ra và sống trong cùng một thời kỳ. - Một thế hệ thường là một nhóm người nối tiếp từ cha mẹ đến con cái. - Trong Kinh Thánh, một thế hệ thường được cho là kéo dài 40 năm.
Thuật ngữ “tin” và “tin vào” có tương quan rất gần nhưng về ý nghĩa có phần khác nhau: Gợi ý dịch: - “Tin” có thể dịch nghĩa là “biết là có thật” hoặc là “biết là đúng”. - “Tin ở” có thể được dịch là “hoàn toàn tin cậy”, “tin cậy và vâng lời” hoặc là “hoàn toàn tin cậy và làm theo.”
"Tro" là chất bột màu xám còn lại sau khi gỗ bị đốt. Từ đó cũng được dùng theo nghĩa bóng trong Kinh Thánh nói đến điều gì đó không có giá trị hoặc vô dụng. - "Đống tro" là tro được chất thành đống. - Thời xưa, ngồi trên đống tro là dấu hiệu của sự tang chế hay đau buồn. - Khi đau buồn, người ta có thói quen mặc đồ bằng vài thô và ngồi trong đống tro hoặc rải tro lên đầu. - Rãi tro lên đầu cũng là dấu hiệu của sự chịu sỉ nhục hoặc là xấu hổ. - Khi có người phấn đấu cho việc gì vô giá trị, người ta nói giống như “ăn tro” - Trong Kinh Thánh, đôi khi từ ngữ “bụi” được dùng để nói về tro. Từ này cũng có thể dùng để nói đến loại đất mịn được hình thành trên đất khô. - Khi dịch từ từ "tro," nên dùng từ trong ngôn ngữ đích chỉ về những thứ còn lại sau khi gỗ đã bị đốt cháy. - Lưu ý rằng "cây tro" là một từ hoàn toàn khác so với từ tro ở đây.
Trong Kinh Thánh, từ “tên” cũng được dùng với nhiều nghĩa bóng khác nhau. - Trong một số ngữ cảnh, từ này có nghĩa là “tên tuổi” chỉ về danh tiếng của một người như trong câu “hãy làm rạng danh chúng ta”. - Thuật ngữ “tên” cũng chỉ về một điều được ghi nhớ. Chẳng hạn như “hãy quên tên của các thần tượng” có nghĩa là phá hủy những thần tượng đó để họ không còn nhớ đến hay thờ lạy chúng nữa. - Khi nói “trong danh Chúa” có nghĩa là nói với quyền năng và thẩm quyền của Ngài hoặc đại diện cho Ngài. - Từ này có thể chỉ về một con người như trong câu “ở dưới trời không có danh nào khác để chúng ta nhờ đó mà được cứu”. Gợi ý dịch: - Cụm từ như “danh tốt của Ngài” có thể được dịch là “danh tiếng của Ngài”. - Làm việc gì “dưới danh nghĩa của” có thể được dịch là “với thẩm quyền của”, “dưới sự cho phép của” hay “đại diện của”. - Cách nói “làm rạng danh chúng ta” có thể được dịch là “làm cho nhiều người biết đến chúng ta”, “làm người khác nghĩ chúng ta rất quan trọng”. - Thành ngữ “gọi tên” có thể được dịch là “đặt tên” hoặc “cho tên”.
Từ “tổ phụ” trong cựu ước chỉ về những người lập nên dân Do Thái, đặc biệt là Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp. - Từ này cũng chỉ về mười hai con trai của Gia-cốp đã trở thành 12 tổ phụ của 12 chi phái Y-sơ-ra-ên. - Từ “tổ phụ” có nghĩa tương tự với “tổ tiên” nhưng nó cụ thể hơn, chỉ về những người lãnh đạo thời tổ tiên nổi tiếng nhất của một dân tộc.
“Tội lỗi” nói về việc có tội hay phạm tội. - “Có tội” nghĩa là làm điều gì đó trái với đạo đức, tức là không vâng phục Chúa. - Trái ngược với “có tội” là “vô tội” Gợi ý dịch - Một số ngôn ngữ có thể dịch “tội lỗi” thành “sức nặng của tội lỗi” hay “điểm buộc tội.” - Các cách để dịch “có tội” có thể bao gồm từ hoặc cụm từ mang nghĩa “mắc sai lầm” hay “làm điều gì đó trái đạo đức” hay “phạm tội”ULB exs: xóa đi bản án có tội của tội lỗi, xóa tội lỗi, của lễ chuộc tội, trừng phạt tội lỗi, người đó sẽ không bị gán tội giết người, mang lấy tội của chính mình, rửa sạch tội, mắc tội lớn, tội của chúng con đã chất cao đến tận trời.
Trong Kinh Thánh, từ “việc”, “việc làm” và “hành động” được dùng để miêu tả chung những việc mà Đức Chúa Trời hay con người thực hiện.
- Từ “làm việc” nói đến sự thực hiện điều gì đó có liên quan đến việc phục vụ người khác.
- “Việc” của Đức Chúa Trời và “công việc của tay Ngài” là những thành ngữ chỉ về tất cả những điều Chúa làm hoặc đã làm, bao gồm sự sáng tạo thế giới, giải cứu tội nhân, chu cấp nhu cầu cho mọi tạo vật và giữ cho toàn bộ vũ trụ theo đúng trật tự. Các thuật ngữ “việc làm” và “hành động” cũng được dùng để chỉ về những phép lạ của Chúa được bày tỏ, ví dụ như “các công việc quyền năng” hoặc “những việc lạ lung.”
- Việc hay việc làm của một người có thể là tốt hoặc xấu.
- Đức Thánh Linh ban năng lực cho những tín hữu để làm việc lành, còn được gọi là “trái tốt”.
- Con người được cứu không nhờ việc lành mà được cứu qua đức tin nới Chúa Giê-xu.
- “Công việc” của một người có thể là việc làm để kiếm tiền hoặc là công việc phục vụ Chúa. Kinh Thánh cũng có đề cập đến khái niệm Đức Chúa Trời "làm việc."
Gợi ý dịch:
- Có thể dịch từ “việc” hay “việc làm” là “hành động” hoặc “những việc đã thực hiện”.
- Cần đảm bảo dịch từ “việc” bao gồm cả ý nghĩa là lời nói và suy nghĩ.
- Khi chỉ về “việc” hay “việc làm” của Đức Chúa Trời và “việc của tay Ngài” thì những từ này có thể dịch là “phép lạ”, “việc quyền năng” hoặc “những điều kỳ diệu Ngài làm”.
- Cụm từ “công việc của Đức Chúa Trời” có thể được dịch là “điều Chúa đang thực hiện”, “phép lạ Chúa làm”, “những điều lạ lùng Chúa làm” hoặc “tất cả những điều Chúa đã hoàn tất”.
- Từ “công việc” có thể là dạng số ít của từ “những công việc” chẳng hạn như “mọi việc lành” hay “mọi việc làm lành”.
- Từ “việc” cũng có thể mang nghĩa rộng hơn là “phục vụ” hoặc “mục vụ”. Ví dụ, “việc trong Chúa” có thể được dịch là “việc bạn làm cho Chúa”. “Hãy xét việc mình làm” có thể được dịch là “hãy đảm bảo bạn đang làm theo ý muốn của Chúa” hoặc “hãy đảm bảo bạn đang làm hết sức có thể”.
- Cụm từ “việc của Đức Thánh Linh” có thể được dịch là “sự thêm sức của Thánh Linh”, “mục vụ của Thánh Linh” hoặc “việc Thánh Linh làm”.
Vua là người cai trị một thành phố, một nhà nước hay một quốc gia độc lập. - Đôi khi một người lên làm vua vì một nhóm người muốn người đó làm vua của họ. - Thông thường khi một vị vua qua đời thì con trai trưởng của ông sẽ lên làm vua. - Đôi khi có người giết vua để thế ngôi.
“Vua dân Do Thái” là một danh hiệu chỉ về Chúa Cứu Thế Giê-xu. - Lần đầu tiên Kinh Thánh kí thuật lại danh hiệu này là khi các nhà thông thái đang trên đường đến Bết-lê-hem để tìm kiếm hài nhi được gọi là “Vua dân Do Thái.” - Thiên sứ mặc khải cho bà Ma-ri biết rằng con trai bà, là con cháu vua Đa-vít, sẽ thiết lập quyền cai trị của Ngài mãi mãi. - Trước khi Chúa Giê-xu chịu đóng đinh, những tên lính La Mã chế giễu gọi Ngài là “Vua dân Do Thái”. Danh hiệu này được viết vào một miếng gỗ đóng trên đầu cây thập tự của Chúa Giê-xu. - Chúa Giê-xu thật sự là vua dân Do Thái và là vua trên mọi loài Gợi ý dịch: - Thuật ngữ “Vua dân Do Thái” có thể được dịch là “vua cai trị dân Do Thái”, “người cai trị dân Do Thái” hay “người cai trị tối cao của dân Do Thái”. - Kiểm tra xem cụm từ “vua của” được dịch như thế nào ở những chỗ khác trong bản dịch.
Vương quốc là một nhóm dân ở dưới sự cai trị của một vị vua. Nó cũng chỉ về địa hạt hay khu vực chính trị thuộc thẩm quyền và sự kiểm soát của một vị vua hoặc một nhà cai trị. - Vương quốc có thể có kích thước địa lý bất kì. Một vị vua có thể cai trị một dân tộc, một quốc gia hay chỉ một thành phố. - Thuật ngữ “vương quốc” cũng chỉ về sự cai trị hay thẩm quyền thuộc linh như trong thuật ngữ “vương quốc của Đức Chúa Trời”. - Đức Chúa Trời là Đấng cai trị muôn vật, nhưng thuật ngữ “vương quốc của Đức Chúa Trời” đặc biệt chỉ về sự cai trị và thẩm quyền của Ngài trên những người tin Chúa Giê-xu và đầu phục uy quyền của Ngài. - Kinh Thánh cũng chép rằng Sa-tan có một “vương quốc” mà tại đó nó đang tạm thời cai trị nhiều thứ trên thế gian. Đó là vương quốc gian ác, được gọi là “bóng tối”. Gợi ý dịch: - Khi chỉ về một khu vực vật lý do một vị vua cai trị, từ “vương quốc” có thể được dịch là “quốc gia”.
Xa-chê là một người thu thuế đến từ thành Giê-ri-cô. Ông đã trèo lên cây để xem Chúa Giê-xu. - Xa-chê là một người thu thuế đến từ thành Giê-ri-cô. Ông đã trèo lên cây để xem Chúa Giê-xu. - Xa-chê đã hoàn toàn được thay đổi khi ông tin Chúa Giê-xu. - Ông hứa sẽ đưa một nửa gia tài của ông cho người nghèo. - Ông cũng hứa rằng ông sẽ trả lại gấp tư số lượng tiền mà ông đã thu thuế người ta quá mức.
Xê-bê-đê là một ngư dân đến từ Ga-li-lê. Các con trai của ông là Gia-cơ và Giăng cùng làm việc với ông. Sau đó họ từ bỏ công việc và trở thành hai sứ đồ của Chúa Giê-xu.
Xô-rô-ba-bên là tên của hai người Y-sơ-ra-ên trong Cựu Ước. - Một trong hai người này là con cháu của Giê-hô-gia-kim và Sê-đê-kia. - Một người khác cũng tên là Xô-rô-ba-bên, con trai của Sa-la-thi-ên, quan tấn thủ xứ Giu-đa vào một trong những lần dân sự trở về sau khi bị bắt làm phu tù ở Ba-by-lôn. - Xô-rô-ba-bên này sống trong thời Si-ru, vua nước Phe-rơ-sơ thả dân Y-sơ-ra-ên trở về sau khi bị bắt làm phu tù ở Ba-by-lôn. - Xô-rô-ba-bên và thầy tế lễ thượng phẩm Giô-suê là một trong những ngườ iđã giúp tái xây dựng đền thờ và bàn thờ của Đức Chúa Trời. - Xô-rô-ba-bên cũng sống cùng thời với E-xơ-ra và Nê-hê-mi.
Xứ là một quận hay một bộ phận trong quốc gia. Những gì liên quan đến xứ được gọi là “thuộc xứ”. - Trong Cựu Ước, xứ là đơn vị hành chính của nước Y-sơ-ra-ên dưới đời vua A-háp và thời Ê-xơ-tê. - Trong Tân Ước, đế quốc La Mã được chia thành nhiều xứ, trong đó có Ma-xê-đoan, Chíp-rơ, A-si, Si-ri, Ai Cập và Ga-la-ti. - Mỗi xứ đều có chính quyền riêng thuộc dưới quyền của vua hoặc người cai trị đất nước. - Những từ này có thể được dịch là “khu vực” và “thuộc khu vực”.
Y-sác là con trai mà Đức Chúa Trời đã hứa ban cho Áp-ra-ham và Sa-ra mặc dù họ đã rất lớn tuổi. - Chúa đã hứa rằng giao ước mà Ngài lập với Áp-ra-ham sẽ kéo dài mãi mãi đến thời của Y-sác và tất cả dòng dõi của ông. - Chúa thử đức tin của Áp-ra-ham bằng cách nói ông hy sinh Y-sác. - Con trai của Y-sác là Gia-cốp có 12 con trai. Dòng dõi của họ sau này trở thành 12 chi phái của đất nước Do Thái. - Isaac means "he laughs." When God told Abraham that he and Sarah would have a child, he laughed because they were both very old.
Y-sơ-ra-ên là tên Chúa đặt cho Gia-cốp, Y-sơ-ra-ên có nghĩa là « người vật lộn với Đức Chúa Trời » - Dòng dõi của Gia-cốp trở thành dân Y-sơ-ra-ên, nước Y-sơ-ra-ên hay người Y-sơ-ra-ên. - Chúa thiết lập giao ước của Ngài với dân Y-sơ-ra-ên. Họ là dân được Chúa chọn. - Y-sơ-ra-ên là tên của đất nước họ. - Nước Y-sơ-ra-ên được thành lập từ 12 chi phái. - Một thời gian sau khi vua Sa-lô-môn băng hà, đất nước bị chia cắt thành hai vương quốc : Vương quốc phía nam là Giu-đa và vương quốc phía bắc là Y-sơ-ra-ên.
Từ "buộc tội" và "sự buộc tội" nghĩa là quy tội cho một ai đó về việc làm sai trái của họ. Người buộc tội người khác được gọi là "người kiện cáo." - Vu cáo là khi tội danh được quy cho một ai đó không đúng sự thật, cũng như khi Chúa Giê-xu bị vu cáo về những việc làm sai trái bởi những lãnh đạo người Do Thái. - heo sách Khải huyền trong Tân Ước, Sa tan được gọi là “kẻ kiện cáo.”
Thuật ngữ “chúa” chỉ về người làm chủ hay có quyền trên người khác.
- Từ này đôi khi được dịch là “chủ” khi nói đến Chúa Giê-xu hoặc chỉ về người chủ nô.
- Một số bản tiếng Anh dịch từ này là “ngài” trong bối cảnh khi một người lịch sự gọi người khác hoặc gọi người có địa vị cao hơn.
Gợi ý dịch
- Thuật ngữ này nên được dịch là “chủ” khi chỉ về một người chủ nô. Đó cũng là cách người nô lệ gọi chủ của mình.
- Khi chỉ về Chúa Giê-xu, từ này có thể được dịch là “thầy” nếu ngữ cảnh cho thấy nó có nghĩa là “thầy dạy đạo”.
- Nếu người gọi Chúa Giê-xu không biết Ngài thì từ “chúa” có thể được dịch là “ngài”. Cách dịch này cũng được dùng trong các ngữ cảnh khác khi đây là cách lịch sự để gọi người khác.
- Khi chỉ về Đức Chúa Cha hay Chúa Giê-xu thì thuật ngữ này được viết là “Chúa” (viết hoa). Cần đảm bảo cách dịch phải rõ ràng, tách biệt giữa từ “chúa” có nghĩa là “chủ” và “Chúa” chỉ về Đức Chúa Trời.
Động từ “cúi” có nghĩa là cúi người xuống một cách cách khiêm nhường diễn tả sự kính mến và tôn trọng người khác. Động từ “quì xuống” có nghĩa là cúi rạp hay quỳ gối xuống, thường là mặt và tay hướng về phía mặt đất. - Các thành ngữ khác bao gồm “quỳ gối” (có nghĩa là quỳ xuống) và “cúi đầu” (có nghĩa là cúi đầu xuống tỏ vẻ kính nhường hoặc đau buồn). - Quì xuống cũng có thể là dấu hiệu của sự buồn rầu hoặc khi có tang chế. Có người “cúi đầu” để tỏ vẻ hạ mình. - Thường khi một người cúi đầu trước một người khác có địa vi cao hơn hay quan trọng hơn, chẳng hạn như vua hay những bậc cầm quyền khác. - Cúi xuống trước Đức Chúa Trời diễn tả hành động thờ phượng Ngài. - Trong Kinh Thánh, người ta quì xuống trước Chúa Giê-xu khi nhận ra Ngài đến từ Đức Chúa Trời nhờ các phép lạ và sự dạy dỗ của Ngài. - Kinh Thánh nói rằng vào một ngày khi Chúa Giê-xu tái lâm, mọi người sẽ quỳ xuống tôn thờ Ngài. Gợi ý dịch: - Tùy theo ngữ cảnh, thuật ngữ nầy có thể dịch bằng một từ hay cụm từ có nghĩa là “cúi xuống” hoặc “cúi đầu” hoặc quỳ gối”. - Thuật ngữ “quì xuống” có thể dịch là “quỳ gối” hoặc là “thờ lạy” - Một số ngôn ngữ có nhiều cách phiên dịch thuật ngữ nầy hơn tùy theo ngữ cảnh.
Cầu nguyện là nói chuyện với Chúa. - Người ta thường cầu nguyện để xin Chúa giúp đỡ họ hay người khác. - Người ta cũng tạ ơn và ngợi khen Chúa trong lời cầu nguyện. - Cầu nguyện cũng có nghĩa là xưng tội của chúng ta trước mặt Chúa và cầu xin Ngài tha thứ. - Khi người ta cố gắng nói chuyện với tà thần của họ thì cũng được gọi là “cầu nguyện”.
Thuật ngữ “cắt bì” có nghĩa là cắt bao quy đầu của bé trai hoặc của người đàn ông. Nghi lễ cắt bì có thể được thực hiện liên quan đến việc nầy. - Đức Chúa Trời phán dạy Áp-ra-ham cắt bì mỗi thành viên nam trong gia đình và các đầy tớ nam như là một dấu hiệu về giao ước của Đức Chúa Trời với họ. - Đức Chúa Trời cũng truyền dạy dòng dõi Áp-ra-ham tiếp tục làm phép cắt bì cho các bé trai sinh ra trong gia đình họ. - Cụm từ “phép cắt bì bởi trong lòng” đề cập đến sự “cắt bỏ” hay xóa tội người đó một cách trừu tượng. - Theo ý nghĩa thuộc linh, “người được cắt bì” là người được Đức Chúa Trời tẩy sạch tội lỗi nhờ huyết của Chúa Giê-xu và trở nên dân Ngài. - Thuật ngữ “người không cắt bì” nói đến những người chưa chịu phép cắt bì về phương diện thuộc thể. Theo nghĩa bóng, thuật ngữ này cũng có thể nói đến những người chưa chịu phép cắt bì về phương diện thuộc linh, là những người không có mối quan hệ với Đức Chúa Trời. Gợi ý dịch: - Nếu trong nền văn hóa của ngôn ngữ đích có thực hiện phép cắt bì cho nam giới, thì nên sử dụng từ được dùng để chỉ về phép cắt bì. - Có thể dịch thuật ngữ này là “cắt chung quanh”, “cắt theo vòng tròn” hoặc là “cắt bao quy đầu.” - Trong nền văn hóa mà phép cắt bì không phổ biến, điều cần thiết là giải thích phép cắt bì trong phần ghi chú hay trong từ điển thuật ngữ. - Đảm bảo thuật ngữ được dùng để dịch không nhắc đến phụ nữ. Điều cần thiết là phải dịch thuật ngữ nầy bằng một từ hay là cụm từ bao gồm ý nghĩa của “giống đực”.
Dấu hiệu là một vật, một sự kiện hay một hành động mang ý nghĩa đặc biệt. - Dấu hiệu có thể là điều nhắc nhở về một lời hứa: - Đức Chúa Trời tạo nên cầu vồng trên bầu trời làm dấu hiệu để nhắc con người nhớ rằng Ngài sẽ không bao giờ diệt hết mọi loài sống trên trái đất bằng nước lụt nữa. - Đức Chúa Trời truyền cho dân Y-sơ-ra-ên làm phép cắt bì cho những con trai của họ để làm dấu chỉ giao ước giữa Ngài với họ. - Dấu hiệu có thể mặc khải hay bày tỏ điều gì đó: - Thiên sứ báo cho những mục đồng dấu hiệu để nhận biết con trẻ nào ở Bêt-lê-hem mới được sinh ra là Đấng Cứu Thế. - Giu-đa hôn Chúa Giê-xu làm dấu cho những nhà lãnh đạo tôn giáo biết họ cần bắt người nào. - Dấu hiệu có thể chứng minh một điều là đúng: - Phép lạ được làm bởi những vị tiên tri và các sứ đồ là dấu hiệu minh chứng họ đang rao truyền sứ điệp của Đức Chúa Trời. - Phép lạ Chúa Giê-xu làm là dấu hiệu minh chứng Ngài thật sự là Đấng Cứu Thế. Gợi ý dịch - Tùy vào ngữ cảnh, từ “dấu hiệu” có thể được dịch là “tín hiệu”, “biểu tượng”, “biểu hiện”, “bằng chứng”, “chứng cứ” hay “cử chỉ”." - Một số ngôn ngữ có thể có những từ khác nhau để chỉ về “dấu hiệu” chứng minh một điều gì đó và “dấu lạ” chỉ về một phép lạ.
“Gửi” là khiến một người hay một vật đến một nơi nào đó. “Sai phái” là bảo một người thực hiện một mục đích hay một nhiệm vụ. - Thường có một mục đích cụ thể cho việc sai phái một người ra đi. Người được “sai phái” thường được chỉ định làm một công việc cụ thể. - Những cụm từ như “sai mưa”, “sai tại vạ” có nghĩa là “khiến cho … xảy đến”. Cách nói này thường được dùng để chỉ về cách Đức Chúa Trời khiến sự việc xảy ra. - Từ “gửi” cũng được dùng trong những cụm từ như “gửi lời” hay “gửi thông điệp”, có nghĩa là đưa thông điệp cho người này nói với người kia. - Gửi cho ai đó một con vật hay một món quà khác nghĩa là “đưa” vật đó cho một người nào đó, thường là phải di chuyển một khoảng cách để người kia có thể nhận được.
Thuật ngữ “hiểu” có nghĩa là nghe hay nhận thông tin và biết được điều đó có ý nghĩa gì. - Thuật ngữ “hiểu biết” có thể chỉ về “kiến thức”, “trí tuệ” hay biết cách làm một điều gì đó hoặc cũng có thể là biết được cảm nhận của người khác. - Đang khi trên đường đi đến Em-ma-út, Chúa Giê-xu khiến các môn đồ hiểu ý nghĩa của Kinh Thánh nói về Đấng Mê-si-a. - Dựa vào ngữ cảnh, thuật ngữ “hiểu” có thể được dịch là “biết”, “tin”, “lĩnh hội” hay “biết ý nghĩa”. - Thông thường từ “hiểu biết” có thể được dịch là “kiến thức” hay “trí tuệ”.
Người chăn là người chăm sóc chiên. Động từ “chăn bầy” có nghĩa là chăm sóc chiên. - Người chăn coi sóc chiên, dẫn chúng đến nơi có thức ăn ngon và nước uống. Người chăn cũng giữ chiên khỏi đi lạc và bảo vệ chúng khỏi những động vật hoang dã. - Từ này thường được Kinh Thánh sử dụng theo nghĩa ẩn dụ để chỉ về việc chăm sóc nhu cầu thuộc linh cho con người, bao gồm việc dạy họ điều Đức Chúa Trời phán trong Kinh Thánh và hướng dẫn họ sống đúng. - Trong Cựu Ước, Đức Chúa Trời được gọi là người chăn của dân sự vì Ngài chăm lo mọi nhu cầu cần dùng và bảo vệ họ. Ngài cũng dẫn dắt và hướng dẫn họ. - Môi-se là người chăn của dân Y-sơ-ra-ên vì ông dẫn dắt họ về mặt thuộc linh trong việc thờ phượng Đức Giê-hô-va và dẫn dắt họ về mặt thuộc thể trong hành trình vào đất Ca-na-an. - Trong Tân Ước, Chúa Giê-xu xưng Ngài là “người chăn hiền lành." - Cũng trong Tân Ước, từ “người chăn” được dùng để chỉ về người lãnh đạo thuộc linh cho các tín hữu. “Mục sư” và “người chăn” là một. Các trưởng lão và giám mục cũng được gọi là người chăn. Gợi ý dịch - Ở nghĩa đen, từ này có thể được dịch là “người chăm sóc chiên”, “ngưỡi giữ chiên”, hay “người chăn chiên." - Ở nghĩa ẩn dụ, cách dịch từ này có thể bao gồm “người chăn thuộc linh”, “người lãnh đạo thuộc linh”, “người giống người chăn chiên”, “người chăm sóc cho dân sự giống như người chăn chăm sóc chiên”, “người dẫn dắt dân sự giống như người chăn dẫn dắt bầy chiên” hay “người chăm sóc chiên của Chúa." - Trong một số ngữ cảnh, từ “người chăn” có thể được dịch là “người lãnh đạo”, “người hướng dẫn” hay “người chăm sóc" - Tùy vào ngữ cảnh, từ “chăn (bầy)” có thể được dịch là “chăm sóc”, “nuôi dưỡng thuộc linh”, “hướng dẫn và dạy dỗ” hay “dẫn dắt và săn sóc.
Rượu là một loại nước uống lên men làm từ nước ép của trái nho, là loại trái mọc từ cây nho. Thuật ngữ này cũng được dùng dể chỉ về nước nho chưa lên men. - Để làm rượu, nho được nghiền nát cho ra nước. Dần dần nước nho lên men và hình thành chất cồn trong đó. - Trong thời Kinh Thánh, rượu là thức uống thông thường trong bữa ăn và không có nhiều nồng độ cồn như rượu ngày nay. - Bên cạnh đó, rượu thường được pha với nước trước khi uống. - Nếu trong văn hoá của bạn không có rượu nho, thì cụm từ này có thể dịch là “nước nho lên men”, “thức uống lên men làm trừ loại trái nho” hoặc chỉ đơn giản dịch là “thức uống lên men”.
Các thuật ngữ « sợ » và «sợ hãi » nói đến cảm giác không thoải mái bên trong con người khi có sự đe dọa hay tổn hại đến người đó hay người khác. - Thuật ngữ “sợ” cũng có thể chỉ về lòng kính trọng sâu sắc hay ngưỡng mộ một người có quyền lực - Thuật ngữ “sự kính sợ Đức Giê-hô-va” (và các thuật ngữ liên quan, “sự kính sợ Đức Chúa Trời” và “sự kính sợ Chúa”) nói đến lòng kính trọng Chúa sâu sắc và điều đó được bày tỏ qua việc vâng phục Ngài. Sự kính sợ này được thúc đẩy bởi việc nhận biết Chúa là thánh và Ngài căm ghét tội lỗi. - Kinh Thánh dạy rằng người nào kính sợ Đức Giê-hô-va sẽ trở nên khôn ngoan Gợi ý dịch - Tùy vào ngữ cảnh, “sợ” có thể được dịch thành “cảm thấy sợ hãi”, “kính trọng sâu sắc”, “tôn kính” hay “kính sợ”. - Thuật ngữ « sợ hãi » có thể được dịch là “cảm thấy khiếp sợ” hay “bị hoảng sợ” hay “đáng sợ”. - Câu “sự kính sợ Đức Chúa Trời tràn ngập trên tất cả” có thể được dịch là, “đột nhiên tất cả họ cảm thấy kinh sợ và tôn kính Đức Chúa Trời cách sâu sắc” hay “ngay lập tức, tất cả họ đều cảm thấy rất kinh ngạc và tôn kính Đức Chúa Trời cách sâu sắc” hay “ngay sau đó, tất cả họ đều rất kính sợ Đức Chúa Trời.”
Thiên sứ là một “linh” có quyền năng do Đức Chúa Trời dựng nên. Các thiên sứ tồn tại để phục vụ Đức Chúa Trời bằng cách làm theo những gì Ngài phán truyền. Thuật ngữ “thiên sứ trưởng” nói đến thiên sứ cai quản hoặc lãnh đạo các thiên sứ khác. - Từ ngữ “thiên sứ” theo nghĩa đen có nghĩa là “sứ giả”. - “Thiên sứ trưởng” theo nghĩa đen là “sứ giả trưởng”. Trong Kinh Thánh, thiên sứ duy nhất được xem là thiên sứ trưởng chính là Mi-chên. - Trong Kinh Thánh, thiên sứ truyền sứ điệp của Đức Chúa Trời cho mọi người. Những sứ điệp này bao gồm những sự chỉ dẫn về điều Đức Chúa Trời muốn con người làm. - Thiên sứ cũng cho mọi người biết về những sự kiện sẽ xảy ra trong tương lai hay những biến cố đã xảy ra rồi. - Thiên sứ có thẩm quyền của Đức Chúa Trời với tư cách là đại diện của Ngài và đôi khi trong Kinh Thánh họ còn diễn đạt thành lời nói như thể chính Đức Chúa Trời đang phán truyền. - Thiên sứ còn phục vụ Đức Chúa trời theo cách khác như bảo vệ hoặc khích lệ mọi người. - Cụm từ đặc biệt “thiên sứ của Đức Giê-hô-va” có thể có nhiều nghĩa. 1) “thiên sứ đại diện cho Đức Giê-hô-va” hoặc là “sứ giả phục vụ Đức Giê-hô-va”. 2) Cụm từ này có thể nói đến chính Đức Giê-hô-va là Đấng hiện ra như thiên sứ khi Ngài phán với con người. Hai ý nghĩa đó sẽ giải nghĩa cách sử dụng của thiên sứ về chữ “Ta” như thể chính Đức Giê-hô-va đang phán. Gợi ý dịch: - Các cách dịch chữ “thiên sứ” có thể bao gồm, “sứ giả đến từ Đức Chúa Trời”, “tôi tớ trên thiên đàng của Đức Chúa Trời” hoặc “sứ giả thuộc linh của Đức Chúa Trời” - Thuật ngữ “thiên sứ trưởng” có thể được dịch là “thiên sứ tổng”, “thiên sứ chỉ huy” hoặc “thiên sứ lãnh đạo”. - Cũng nên suy nghĩ xem những thuật ngữ nầy được dịch như thế nào theo ngôn ngữ của một quốc gia hoặc ngôn ngữ địa phương khác. - Cụm từ “thiên sứ của Đức Giê-hô-va” nên được dịch bằng cách sử dụng những từ dành cho “thiên sứ” và “Đức Giê-hô-va”. Điều nầy cho phép có nhiều sự diễn giải khác cho cụm từ đó. Những cách dịch khả thi có thể bao gồm “thiên sứ của Đức Giê-hô-va” hoặc “thiên sứ do Đức Giê-hô-va sai đi” hoặc “Đức Giê-hô-va là Đấng trông giống như thiên sứ”.
Thầy là người mang đến cho người khác những thông tin mới. Thầy là người giúp đỡ người khác tiếp thu và thực hành cả kiến thức lẫn kỹ năng. - Trong Kinh Thánh, từ “thầy” được dùng với ý nghĩa đặc biệt chỉ về những ai giảng dạy về Đức Chúa Trời, chứ không phải chỉ về giáo viên ở trường học của trẻ em. - Người theo học từ một người thầy được gọi là “học trò” hay “môn đồ”. - Trong một số bản dịch Kinh Thánh, thuật ngữ nầy được viết hoa (Thầy) khi được dùng như một danh hiệu của Chúa Giê-xu. Gợi ý dịch - Từ thông thường chỉ về một giáo viên có thể được dùng để dịch thuật ngữ nầy, trừ khi từ đó chỉ được dùng để nói về một giáo viên tại trường học. - Một số nền văn hoá có thể có một danh hiệu đặc biệt dành cho những thầy dạy tôn giáo như “Ngài” hay “Ra-bi” hay “Người giảng đạo”.
Các từ "thừa kế" và "tài sản thừa kế" nói về việc nhận một cái gì đó có giá trị từ cha mẹ hoặc người khác bởi mối quan hệ đặc biệt với người đó. "Người thừa kế" là người nhận tài sản thừa kế. - Tài sản thừa kế vật chất mà một người nhận được có thể là tiền bạc, đất đai, hay các loại tài sản khác. - Tài sản thừa kế thuộc linh là tất cả mọi thứ mà Chúa ban cho những người tin Chúa Giêsu, bao gồm phước lành trong cuộc sống hiện tại cũng như sự sống đời đời với Ngài. - Kinh Thánh cũng gọi dân Chúa là tài sản thừa hưởng của Ngài, có nghĩa là họ thuộc về Ngài; họ là tài sản sở hữu có giá trị của Ngài. - "Di sản" cũng tương tự như tài sản thừa kế, nhưng chỉ là các phước lành phi vật thể và các đặc điểm mà một người nhận được từ cha mẹ hoặc Đức Chúa Trời. - Chúa hứa với Áp-ra-ham và con cháu của ông rằng họ sẽ được kế thừa đất Ca-na-an, nơi này sẽ thuộc về họ mãi mãi. - Những người thuộc về Đức Chúa Trời sẽ được “thừa hưởng đất." Đây có nghĩa bóng hay nghĩa tượng trưng rằng họ sẽ phát triển thịnh vượng và được Chúa ban phước về cả thể chất và tinh thần. - Trong Tân Ước, Chúa hứa rằng những ai tin Chúa Giêsu sẽ "thừa hưởng ơn cứu rỗi" và “hưởng sự sống đời đời." Các câu này cũng được diễn tả như, "hưởng nước Đức Chúa.Trời". Đây là tài sản thừa kế thuộc linh tồn tại mãi mãi. - Các cụm từ này cũng mang các nghĩa bóng khác: - Kinh Thánh nói rằng người khôn ngoan sẽ "kế thừa vinh quang" và những người công chính sẽ "thừa hưởng những điều tốt đẹp." - "kế thừa những lời hứa" có nghĩa là để nhận được những điều tốt đẹp mà Chúa đã hứa ban cho dân của Ngài. - Từ này cũng được sử dụng trong ý nghĩa tiêu cực để nói về những người ngu ngốc hay không vâng phục, người "thừa hưởng gió" hay “thừa hưởng sự điên rồ." Đây có nghĩa là họ nhận lấy hậu quả của các hành động tội lỗi của mình, bao gồm cả hình phạt và đời sống vô giá trị. Gợi ý dịch - Như mọi khi, đầu tiên phải xem xét liệu đã có từ ngữ trong ngôn ngữ dịch cho khái niệm người thừa kế hay tài sản thừa kế chưa, sau đó hãy sử dụng chúng. - Tùy thuộc vào ngữ cảnh, có thể dịch từ "thừa kế" là, "nhận" hoặc "sở hữu" - Các cách dịch "tài sản thừa kế" có thể là "món quà hứa " hay "sự sở hữu vững chắc." - Khi dân của Chúa được gọi là tài sản thừa hưởng của Ngài, cụm này có thể được dịch thành "những người có giá trị thuộc về Ngài." - "người thừa kế" có thể được dịch bằng một từ hoặc cụm từ đó có nghĩa là, "đứa con có đặc quyền hưởng tài sản của người cha" hoặc "người được chọn để nhận”.
“Tiên tri” là người nói thông điệp của Đức Chúa Trời cho mọi người. Một người nữ làm việc này thì được gọi là “nữ tiên tri”.
- Thuật ngữ cổ hơn cho từ tiên tri là “người tiên đoán” hay “người nhìn thấy”.
- Tuy nhiên, đôi khi thuật ngữ này chỉ về người coi bói hoặc tiên tri giả khác.
- Thường thì các nhà tiên tri đưa ra cảnh báo để dân sự quay khỏi tội lỗi và trở về vâng lời Đức Chúa Trời.
- “Lời tiên tri” là thông điệp do nhà tiên tri truyền đạt. “Nói tiên tri” nghĩa là truyền đạt thông điệp của Đức Chúa Trời.
- Thông thường thông điệp tiên tri là những điều sẽ xảy đến trong tương lai.
- Nhiều lời tiên tri trong Cựu Ước đã được ứng nghiệm
- Tiên tri giả” là người tuyên bố những thông điệp từ tà thần như thần Ba-anh, hoặc là người tuyên bố giả mạo những thông điệp từ Đức Chúa Trời.
Gợi ý dịch:
- Thuật ngữ “tiên tri” có thể được dịch là “phát ngôn viên của Đức Chúa Trời”, “người nói cho Đức Chúa Trời” hoặc “người truyền thông điệp từ Đức Chúa Trời”.
- Từ “lời tiên tri” có thể được dịch là “thông điệp từ Đức Chúa Trời” hoặc “thông điệp tiên tri.”
- Tùy vào ngữ cảnh, thuật ngữ “nói tiên tri” có thể được dịch là “nói những lời từ Đức Chúa Trời” hoặc “kể lại thông điệp của Đức Chúa Trời về những sự kiện tương lai.”
- Thuật ngữ “nữ tiên tri” có thể được dịch là “nữ phát ngôn viên của Đức Chúa Trời”, “người nữ nói cho Đức Chúa Trời” hoặc “người nữ truyền đạt thông điệp của Đức Chúa Trời”.
Những từ này đều được dùng để nói về thần tượng được con người làm để thờ lạy thần giả. Trong ngữ cảnh nói về sự thờ lạy hình tượng, từ “tượng” là cách nói ngắn gọn của “tượng chạm” - “tượng chạm” là vật thể bằng gỗ được làm theo hình dạng con vật, con người hay đồ vật. - “tượng đúc” là vật thể hay tượng được làm bằng cách đổ kim loại nóng chảy vào khuôn có hình dạng của một vật thể, con vật hay con người. - Các vật thể bằng gỗ hay kim loại được con người dùng trong việc thờ lạy thần giả. Gợi ý dịch - Tùy vào ngữ cảnh, “tượng” có thể được dịch thành “tượng chạm” hay “vật thể được chạm khắc vì mục đích tôn giáo.” - Có thể sẽ rõ ràng hơn trong một số ngôn ngữ khi dùng cụm từ “tượng chạm”, kể cả trong những đoạn chỉ có từ “tượng”. - Phải chắc chắn rằng từ này khác hoàn toàn với từ được dùng để chỉ hình ảnh của Đức Chúa Trời.
Thuật ngữ “tội” chỉ về hành động, suy nghĩ và lời nói chống nghịch ý muốn và luật pháp của Đức Chúa Trời. Tội còn là không làm theo điều Chúa muốn. - Tội là bất kì điều gì chúng ta làm mà không thuận phục hay không đẹp lòng Chúa, kể cả những việc không ai biết. - Suy nghĩ và hành động không vâng phục ý muốn Chúa được xem là “tội lỗi”. - Vì A-đam phạm tội nên hết thảy loài người sinh ra đều có bản chất tội lỗi bên trong, điều khiển mỗi người. Đôi khi từ “tội” chỉ về bản chất tội lỗi này, hay Kinh Thánh còn gọi là “xác thịt”. - “Tội nhân” là người phạm tội, vì thế từ này được dùng cho toàn thể loài người. - Đôi khi từ “tội nhân” được những người sùng đạo như người Pha-ri-si dùng để chỉ về những ai không giữ luật pháp nghiêm khắc theo ý của họ. - Thuật ngữ “tội nhân” dùng để gán cho những người bị xem là tội nhân tệ hại hơn những người khác ví dụ như người thu thuế và gái mại dâm. Gợi ý dịch - Thuật ngữ “tội” có thể được dịch bằng từ hoặc cụm từ mang ý nghĩa là “sự bất tuân với Đức Chúa Trời”, “sự chống lại ý muốn Đức Chúa Trời” hay “hành động hoặc suy nghĩ gian ác." - “Phạm tội” có thể được dịch là “bất tuân Đức Chúa Trời” hay “làm sai." - Tùy vào ngữ cảnh, từ “tội nhân” có thể được dịch bằng từ hoặc cụm từ mang ý nghĩa là “người phạm tội”, “người làm điều sai trái”, “người không vâng lời Đức Chúa Trời” hay “người không vâng theo luật pháp." - Trong những cụm từ như “nô lệ cho tội lỗi”, “bị tội lỗi cai trị” thì từ “tội lỗi” có thể được dịch là “sự không vâng lời” hay “mong muốn và hành động xấu xa.” - Các cách dịch từ “người thu thuế và kẻ có tội” có thể bao gồm “người thu tiền cho chính phủ và những kẻ vô cùng tội lỗi khác” hay “những người vô cùng tội lỗi bao gồm cả người thu thuế.
Áp-ram là người Canh Đê đến từ thành phố U-rơ, là người Đức Chúa Trời chọn để trở nên tổ tiên của người Y-sơ-ra-ên. Đức Chúa Trời đã đổi tên ông thành ra "Áp-ra-ham." - Tên "Áp-ram" có nghĩa là "cha cao quý." - "Áp-ra-ham" có nghĩa là, "cha của nhiều." - Đức Chúa Trời hứa với Áp-ra-ham rằng Ngài sẽ ban cho ông nhiều con cháu để họ sẽ trở thành một dân lớn. - Áp-ra-ham tin cậy Đức Chúa Trời và vâng lời Ngài. Đức Chúa Trời đã dẫn Áp-ra-ham ra khỏi Canh Đê để đi đến vùng đất Ca-na-an. - Trong khi sống trong đất Ca-na-an, khi cả hai đều đã cao tuổi, Áp-ra-ahm và vợ của ông là Sa-ra đã sanh được một con trai tên là Y-sác.
Ê-li là một trong những tiên tri quan trọng nhất của Đức Giê-hô-va. Ê-li làm tiên tri khi A-háp làm vua ở vương quốc phía bắc của Y-sơ-ra-ên. - Đức Chúa Trời làm nhiều phép lạ qua Ê-li, bao gồm việc khiến một đứa bé đã chết sống lại. - Ê-li quở trách Vua A-háp vì thờ lạy thần Ba-anh. - Ông thách thức các tiên tri Ba-anh một cuộc thi thố nhằm chứng minh rằng Đức Giê-hô-va là một Đức Chúa Trời có thật. - Vào cuối đời của Ê-li, Chúa cất ông lên trời một cách diệu kỳ khi ông vẫn còn sống. - Hàng trăm năm sau đó, Ê-li, cùng với Môi-se, hiện ra với Chúa Giê-su trên một ngọn núi và cả ba đều nói về sự đau khổ và chịu chết của Chúa tại Giê-ru-sa-lem.
Ê-li-a-kim là tên của hai người trong Cựu Ước - Một người tên là Ê-li-a-kim cai quản cung điện dưới thời vua Ê-xê-chia từ năm 715 đến năm 686 TCN. - Một Ê-li-a-kim khác là con của vua Giô-sia. Ê-li-a-kim nầy lên làm vua Giu-đa nhờ sự ủng hộ của một Pha-ra-ôn xứ Ai Cập tên là “Nê-cô” khoảng năm 600 TCN. - Nê-cô đổi tên Ê-li-a-kim là “Giê-hô-gia-kim”
Ê-li-sa-bét là mẹ của Giăng Báp tít. Chồng của bà tên là Xa-cha-ri. - Ê-li-sa-bét vốn không thể sinh con, nhưng khi bà quá tuổi sinh nở, Đức Chúa Trời hứa với Xa-cha-ri rằng Ê-li-sa-bét sẽ sinh cho ông một con trai. - Đức Chúa Trời giữ lời hứa của Ngài, và chẳng bao lâu Xa-cha -ri và Ê-li-sa-bét đã có thể có con, và bà sinh cho ông một con trai. Họ đặt tên cho đứa bé là Giăng. - Ê-li-sa-bét là người bà con của Ma-ri, mẹ của Chúa Giê-xu.
Ê-li-sê là tiên tri ở Y-sơ-ra-ên trong triều đại của các vua A-háp, A-cha-xia, Giô-ram, Giê-hu, Giô-a-cha và Giô-ách. - Đức Chúa Trời truyền cho tiên tri Ê-li xức dầu cho Ê-li-sê làm tiên tri - Khi Ê-Ii được cất lên trời bằng một chiếc xe ngựa lửa, Ê-li-sê trở thành tiên tri của Đức Chúa Trời đối với các vua của Y-sơ-ra-ên. - Ê-li-sê làm nhiều phép lạ, kể cả việc chữa lành một người phung ở Sy-ri, và làm cho đứa con trai của người đàn bà ở Su-nem sống lại.
Ê-sai là một tiên tri của Đức Chúa Trời - Ê-sai viết nhiều lời tiên tri về nước Y-sơ-ra-êm và các lời tiên tri đó thành hiện thực khi ông vẫn còn sống. - Ê-sai được đặc biệt biết đến qua những lời tiên tri về Đấng Mê-si-a, 700 năm sau, những điều ông viết trở thành hiện thực khi Chúa Giê-su sống trên đất. - Chúa Giê-su và các môn đồ của Ngài trích dẫn các lời tiên tri của Ê-sai để dạy dân chúng về Đấng Mê-si-a. - Sách Ê-sai là một trong những sách chính trong Kinh Thánh.
Ô-liu là một loại trái nhỏ hình ô-van mọc từ cây ô-liu. Loại cây này chủ yếu được trồng ở các vùng xung quanh biển Địa Trung Hải. - Cây ô-liu là một loại cây bụi thường xanh lớn có hoa trắng li ti. Chúng sinh trưởng tốt nhất trong thời tiết nóng và vẫn có thể sống tốt khi có ít nước. - Trái của cây ô-liu có màu xanh sau đó chuyển sang màu đen khi chín. Trái ô-liu được dùng để ăn và chiết xuất dầu. - Dầu ô-liu không chỉ dùng cho nấu nướng mà còn để thắp đèn và dùng trong các nghi lễ tôn giáo. - Trong Kinh Thánh, cây ô-liu và nhánh đôi khi được dùng theo nghĩa tượng trưng để chỉ về dân sự.
“Ách” là một vật được dùng để nối hai thứ với nhau nhằm mục đích cùng vận hành song song. “Cặp vào nhau” nghĩa là được nối với một thứ gì đó hay một người nào đó. - Cái ách là một miếng gỗ hay kim loại được gắn vào hai hoặc nhiều con vật để mỗi con cùng làm việc với nhau nhằm mục đích kéo cái cày hay xe đẩy. - Cái ách có một số nghĩa bóng: - Từ này có thể chỉ về sự áp bức nô lệ một người nào đó hoặc tình trạng bị áp bức bởi một người cai trị độc ác. - Từ này cũng mang hàm ý nghĩa bóng về sự cùng làm việc với nhau vì một mục đích thông thường nào đó, ví dụ như hôn nhân, kinh doanh, hoặc phục vụ Chúa Giê-xu. - Nếu có thể, tốt nhất là nên dịch từ này theo nghĩa đen, dùng thuật ngữ trong ngôn ngữ đích nói về việc làm đồng áng để dịch từ “ách”. Có thể dịch từ này theo nghĩa bóng là “gánh nặng áp bức” hoặc “gánh nặng nề.”
Đa vít là vị vua thứ nhì của Y-sơ-ra-ên vốn là người yêu mến và phục vụ Đức Chúa Trời. Ông là trước giả chính của sách Thi thiên. - Khi Đa vít hãy còn trẻ tuổi và đang chăn bầy chiên của gia đình thì Đức Chúa Trời chọn ông làm vua kế tiếp của Y-sơ-ra-ên. - Đa vít trở thành một chiến binh vĩ đại và lãnh đạo đội quân Y-sơ-ra-ên chinh chiến chống lại kẻ thù. Sự việc ông đánh bại Gô-li-át người Phi-li-tin trở nên rất nổi tiếng. - Sau-lơ tìm cách giết Đa-vít nhưng Đức Chúa Trời bảo vệ ông và lập ông làm vua sau khi vua Sau-lơ băng hà. - Đa-vít phạm tội cùng Đức Chúa Trời, nhưng ông ăn năn và được Ngài tha thứ. - Chúa Giê-su, Đấng Mê-si, được gọi là “Con Đa vít” vì Ngài là dòng dõi vua Đa-vít.
Thuật ngữ “đóng đinh” có nghĩa là xử tử hình một người bằng cách trói người đó lên cây thập tự và để cho chết trong đau đớn. - Nạn nhân hoặc bị cột hoặc bị đóng đinh lên thập giá. Ngươi chịu thập hình sẽ chết vì mất máu hoặc nghẹt thở. - Thời xưa đế quốc La mã thương dùng phương pháp hành hình nầy để trừng phạt hoặc giết những tội phạm nổi loạn chống lại nhà cầm quyền của họ. - Những lãnh đạo tôn giáo Do Thái yêu cầu tổng đốc La mã ra lịnh cho quân lính đóng đinh Chúa Giê-xu. Họ đóng đinh Chúa lên một cây thập tự. Ngài chịu thương khó ở trên cây gỗ trong sáu tiếng đồng hồ, và chịu chết. Gợi ý dịch: - Thuật ngữ “đóng đinh” có thể dịch là “giết trên cây thập tự” hoặc là “hành hình bằng cách đóng đinh trên cây thập tự”
Thuật ngữ “Đấng Chí Cao” là danh hiệu của Đức Chúa Trời chỉ về sự vĩ đại hay thẩm quyền của Ngài. - Từ này có ý nghĩa tương tự như “Đấng Tể trị” hay “Đấng Tối thượng”. - Từ “cao” trong danh hiệu này không chỉ về độ cao hay khoảng cách vật lý mà chỉ về sự vĩ đại. Gợi ý dịch: - Từ này cũng có thể được dịch là “Đức Chúa Trời Chí Cao”, “Đấng Tối thượng”, “Đức Chúa Trời Chí Cao”, “Đấng Vĩ đại”, “Đấng Tối cao” hay “Đức Chúa Trời, Đấng vĩ đại hơn muôn vật”. - Cần đảm bảo không dịch từ “cao” là chiều cao hay dài.
Trong Kinh Thánh, thuật ngữ “Đấng Thánh” luôn là danh xưng được dùng để chỉ về Đức Chúa Trời. - Trong Cựu Ước, danh xưng này luôn xuất hiện trong cụm từ "Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên." - Trong Tân Ước, Chúa Giê-su cũng được gọi là "Đấng Thánh." - Trong Kinh Thánh “Đấng Thánh” có khi được dùng để nói đến một thiên sứ. Gợi ý dịchThuật ngữ theo nghĩa đen là, “Thánh”.
Trong Kinh Thánh, ‘đầu’ được hiểu theo một số nghĩa bóng - Từ này thương được dùng để nói đến việc có quyền lực trên người khác, như trong câu, ‘Ngài đặt con làm đầu của các quốc gia.’ Câu này có thể được dịch thành ‘Ngài đặt con làm người cai trị…” hay “Ngài ban cho con quyền lực trên…” - Chúa Giê-su được gọi là ‘đầu của hội thánh.’ Giống như đầu của con người chỉ đạo và hướng dẫn các chi thể, Chúa Giê-su cũng chỉ đạo và hướng dẫn các chi thể của ‘thân’ của Ngài là Hội Thánh. - Tân Ước dạy rằng người chồng là ‘đầu’ hay có quyền trên người vợ. Chồng được ban cho khả năng lãnh đạo và dẫn dắt vợ và gia đình. - Câu nói, ‘dao cạo không bao giờ chạm được vào tóc anh ta” có nghĩa là “anh ta sẽ không bao giờ cắt tóc hay cạo râu.” - “Đầu” có thể nói đến sự bắt đầu hay nguồn gốc của điều gì đó như “đầu đường” - “Đầu” được hiểu theo nghĩa bóng khi từ này được sử dụng để diễn tả toàn bộ con người như “người đầu bạc” để chỉ người lớn tuổi hay “đầu của Giô-sép” nói với Giô-sép. (Xem [[:en:ta:vol2:translate:figs_synecdoche]]) - Thành ngữ “hãy để huyết chảy trong đầu người đó” có nghĩa là một người chịu trách nhiệm cho chính cái chết của mình và sẽ nhận hình phạt cho điều đó Gợi ý dịch - Tùy vào ngữ cảnh, ‘đầu’ có thể được dịch thành ‘quyền lực’ hay ‘người lãnh đạo và dẫn dắt’ hay ‘người có chức trách’ - ‘đầu của’ có thể nói về cả con người, nên cụm từ này khi dịch có thể sử dụng tên riêng. Ví dụ, ‘đầu của Giô-sép’ có thể dịch đơn giản thành ‘Giô-sép’ - Cụm từ ‘sẽ ở trên đầu của người ấy’ có thể được dịch thành ‘sẽ ở trên người ấy’ hay ‘người sẽ bị trừng phạt vì’ hay ‘người sẽ phải chịu trách nhiệm về’ hay ‘người sẽ bị cho là có tội vì’ - Các cách khác để dịch từ này có thể bao gồm ‘bắt đầu’ hay ‘bắt nguồn’ hay ‘người cai trị’ hay ‘người lãnh đạo.’
Đầy tớ là người làm việc cho người khác, do tình nguyện hay bị ép buộc. Từ “nô lệ” cũng có thể có nghĩa là “đầy tớ”. Mạch văn thường cho thấy rõ từ nào phù hợp hơn trong ngữ cảnh đó. - Vào thời Kinh Thánh, đầy tớ hay nô lệ là một phần quan trọng lo công việc nhà cho chủ và nhiều người hầu như được đối xử giống như những thành viên trong gia đình. Vào thời Cựu Ước, một người có thể tình nguyện làm đầy tớ trọn đời cho chủ. - Nộ lệ là đầy tớ thuộc tài sản của chủ. Người mua nô lệ được gọi là “ông chủ” hay “chủ nhân”. Một số người chủ đối xử rất tàn nhẫn với nô lệ, trong khi một số người chủ khác lại đối xử rất tốt với nô lệ của mình. - Vào thời cổ đại, một số người sẵn sàng làm nô lệ để trả nợ cho người họ đã mượn tiền. - Đôi khi cụm từ “tôi là đầy tớ của ông” trong Kinh Thánh là dấu hiệu cho sự tôn trọng và phục vụ. - Trong Cựu Ước, các tiên tri của Đức Chúa Trời và những người thờ phượng Ngài thường được gọi là “đầy tớ” của Chúa”. - Trong Tân Ước, những người vâng lời Đức Chúa Trời qua đức tin nơi Chúa Cứu Thế thường được gọi là “đầy tớ” của Ngài. Các Cơ Đốc nhân cũng được gọi là “nô lệ cho sự công chính”, đây là cách nói ẩn dụ so sánh sự cam kết thuận phục Đức Chúa Trời với sự cam kết thuận phục của một nô lệ đối với chủ.
Trong Kinh Thánh, thuật ngữ “Đức Chúa Trời” chỉ về một Đấng đời đời đã sáng tạo nên vũ trụ từ hư không. Đức Chúa Trời hiện hữu như là Đức Cha, Đức Con và Đức Thánh Linh. Danh xưng riêng của Đức Chúa Trời là “Đức Giê-hô-va”. - Đức Chúa Trời luôn luôn hiện hữu, Ngài hiện hữu trước khi có sự tồn tại của bất cứ thứ gì khác, và Ngài sẽ luôn hiện hữu đời đời. - Ngài là Đức Chúa Trời chân thật duy nhất và có quyền lực trên toàn cả vũ trụ. - Đức Chúa Trời là Đấng hoàn toàn công chính, tuyệt đối khôn ngoan, thánh khiết, vô tội, công bằng, nhân từ và yêu thương. - Ngài là Đức Chúa Trời giữ sự giao ước, Đấng luôn hoàn thành lời hứa của Ngài. - Con người được dựng nên để thờ phượng Đức Chúa Trời và Ngài là Đấng duy nhất con người phải thờ phượng. - Đức Chúa Trời bày tỏ danh Ngài là “Đức Giê-hô-va,” có nghĩa, « Chúa là », « Ta là » hoặc «Đấng (luôn) hằng hữu”. - Kinh Thánh cũng dạy về “các thần giả,” tức là các hình tượng chết mà con người thờ phượng một cách sai lầm. Gợi ý dịch - Các cách dịch “Đức Chúa Trời” có thể gồm “Thượng Đế” hay “Đấng Tạo Hóa” hay “Đấng Tối Cao.” - Các cách khác để dịch ”Đức Chúa Trời” có thể là “Đấng Tạo Hóa Tối Cao” hay “Chúa Tể Trị Đời Đời” hay “Đấng Tối Cao Đời Đời.” - Hãy xem xét cách Đức Chúa Trời được đề cập trong ngôn ngữ địa phương hay phổ thông. Có thể có từ để gọi “Đức Chúa Trời” trong ngôn ngữ được dịch. Nếu vậy, quan trọng là phải đảm bảo từ này phù hợp với các đặc điểm của Đức Chúa Trời chân thật duy nhất như được mô tả ở trên. - Nhiều ngôn ngữ viết hoa chữ cái đầu tiên của từ dùng cho Đức Chúa Trời chân thật duy nhất, để phân biệt với từ chỉ về thần giả. - Một cách khác để làm cho từ này nổi bật đó là dùng hai thuật ngữ khác nhau dành cho “Đức Chúa Trời” và “thần”. - Câu nói, “Ta sẽ là Đức Chúa Trời của họ và họ sẽ là dân của Ta” có thể được dịch thành “ Ta, Đức Chúa Trời, sẽ cai trị trên dân này và họ sẽ thờ lạy Ta.”
Những cụm từ này đều nói về Đức Thánh Linh, là Đức Chúa Trời. Một Đức Chúa Trời chân thật duy nhất hiện hữu đời đời ở ba ngôi, Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh. - Đức Thánh Linh cũng được đề cập là ”Thần” và “Thần của Đức Giê-hô-va” và “Thần lẽ thật” - Vì Đức Thánh Linh là Chúa, nên Ngài hoàn toàn thánh khiết, hoàn toàn trong sạch, và đạo đức hoàn hảo trong bản tính và mọi điều Ngài làm - Cùng với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con, Đức Thánh Linh cũng tạo dựng nên thế giới - Khi Con của Đức Chúa Trời, Chúa Giê-su, thăng thiên, Đức Chúa Trời ban Đức Thánh Linh đến với dân của Ngài để hướng dẫn, dạy dỗ, an ủi và giúp họ làm theo ý muốn Chúa - Đức Thánh Linh dẫn dắt Chúa Giê-su và Ngài dẫn dắt những ai tin nơi Chúa Giê-su Gợi ý dịch - Từ này khi dịch nên đơn thuần dùng từ ngữ cho từ ”thánh” và “linh” - Các cách để dịch từ này cũng có thể bao gồm “Linh Trong Sạch” hay “Linh Thánh” hay “Thánh Linh Đức Chúa Trời.”
Nói chung, “đức tin” là niềm tin, sự tin tưởng hay sự chắc chắn vào người nào đó hay điều gì đó. - “Có đức tin” vào một người là tin rằng những gì người đó nói và làm là đúng và đáng tin cậy. - “Có đức tin nơi Chúa Giê-su” nghĩa là tin tất cả lời dạy của Đức Chúa Trời về Chúa Giê-su. Đây đặc biệt có nghĩa là con người tin nơi Chúa Giê-su và sự hy sinh của Ngài để họ được sạch tội và được giải thoát khỏi sự trừng phạt họ đáng phải chịu vì tội lỗi. - Đức tin thật hay niềm tin thật nơi Chúa Giê-su sẽ khiến một người sản sinh bông trái tâm linh hay có cách ăn ở tốt đẹp vì Đức Thánh Linh sống trong họ. - Có khi “đức tin” chỉ chung tất cả những lời dạy dỗ về Chúa Giê-su, như trong câu, “những chân lý của đức tin”. - Trong các văn cảnh như “giữ đức tin” hay “từ bỏ đức tin,” thì từ “đức tin” nói đến tình trạng một người tin hay không tin tất cả những sự dạy dỗ về Chúa Giê-su. Gợi ý dịch - Trong một số văn cảnh, “đức tin” có thể được dịch thành “niềm tin” hay “sự tin chắc” hay “sự chắc chắn” hay “sự tin tưởng”. - Trong một số ngôn ngữ, những từ này sẽ được dịch theo hình thức động từ “tin”.