1 Điều có từ ban đầu – là điều chúng tôi đã nghe, đã tận mắt chứng kiến, đã nhìn ngắm và đã chạm tay vào – về Lời Sự sống. 2 Sự sống được bày tỏ ra và chúng tôi đã thấy; chúng tôi làm chứng, và công bố cho anh em về sự sống đời đời, vốn ở cùng Cha và được bày tỏ cho chúng tôi. 3 Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe thì chúng tôi cũng công bố cho anh em, để anh em được thông công với chúng tôi, và chúng ta được thông công với Cha và với Con Ngài, là Chúa Cứu Thế Giê-xu. 4 Chúng tôi viết những lời này cho anh em để sự vui mừng của chúng ta được trọn vẹn. 5 Đây là sứ điệp chúng tôi đã nghe từ Ngài và rao báo cho anh em: Đức Chúa Trời là sự sáng, trong Ngài không có chút bóng tối nào. 6 Nếu chúng ta nói mình được thông công với Ngài mà lại bước đi trong bóng tối, tức chúng ta nói dối và không làm theo chân lý. 7 Nhưng nếu chúng ta bước đi trong ánh sáng như chính Ngài ở trong ánh sáng, thì chúng ta được thông công với nhau, và huyết Chúa Giê-xu, Con Ngài, làm sạch mọi tội chúng ta. 8 Nếu chúng ta nói mình chẳng có tội, tức chúng ta tự đánh lừa mình và chân lý không ở trong chúng ta. 9 Nhưng nếu chúng ta xưng tội mình, thì Ngài là thành tín và công chính sẽ tha tội cho chúng ta và tẩy sạch chúng ta hết mọi bất chính. 10 Nếu chúng ta nói mình chưa từng phạm tội, tức chúng ta làm ra Ngài là kẻ nói dối, và Lời Ngài không ở trong chúng ta.
Cụm từ “điều có từ ban đầu” chỉ về Chúa Giê-xu, là Đấng có trước khi muôn vật được dựng nên. Bạn có thể dịch thành: “Chúng tôi viết cho anh em về Đấng có trước khi sáng thế”
“khởi đầu của muôn vật” hay “sự dựng nên thế gian”
cụm từ “điều chúng tôi đã nghe” nói đến những điều Chúa Giê-xu đã truyền dạy cho họ. Cụm từ nầy có thể dịch là “chúng tôi đã nghe Ngài dạy dỗ”.
Ở đây, cụm từ “chúng tôi” nói đến Giăng và những người biết về Chúa Giê-xu khi Ngài còn sống trên đất, nhưng không bao gồm những người mà Giăng đang viết thư gửi cho họ.
“Chính chúng tôi đã thấy Ngài”
“chúng tôi đã chạm đến Ngài bằng tay của mình”
Cụm từ nầy nói đến Chúa Giê-xu. “Ngài là Đấng khiến cho con người sống đời đời”.
cụm từ nầy nói về việc Chúa Giê-xu đến trên đất. Cụm từ nầy có thể được dịch là “Đức Chúa Trời đã sai Ngài đến thế gian”
“và chúng tôi đã thấy Ngài”
“và đang thuật lại cho anh em về Ngài”
Cụm từ nầy cũng nói đến Chúa Giê-xu, Ngài khiến cho chúng ta sống đời đời. Cụm từ nầy có thể được dịch là “Ngài khiến cho chúng ta được sống đời đời”.
“Ngài ở cùng Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Cha”
“nhưng Ngài đã đến sống giữa chúng ta” (UDB)
“Chúng tôi cũng công bố cho anh em những điều chúng tôi đã thấy và nghe”
Các đại từ nầy chỉ Giăng và những người đã từng thấy Chúa Giê-xu khi Ngài còn sống và giờ đây những người nầy đang dạy lại những điều đó cho các tín hữu.
Cụm từ “anh em” ở số nhiều và nói đến các tín hữu mà Giăng đã viết thư gửi cho họ.
Cụm từ “mối tương giao” ở đây nói về tình bằng hữu thắm thiết. Những mệnh đề nầy có thể được dịch là “là bạn hữu thân thiết của chúng tôi và chúng tôi là bạn với Đức Chúa Trời là Đức Chúa Cha”
Chúng ta không rõ liệu Giăng có bao gồm hay loại trừ các độc giả của ông trong nầy. Bạn có thể chọn một trong hai hướng để dịch.
Chữ Chúa Cứu Thế là một tước hiệu, chớ không phải danh xưng và nó có nghĩa là “người được chọn”. Ở đây chữ nầy chỉ về Đức Chúa Trời chọn Chúa Giê-xu làm Cứu Chúa của chúng ta.
Đây là những danh hiệu quan trọng mô tả mối liên hệ giữa Đức Chúa Trời và Chúa Giê-xu.
“làm cho sự vui mừng của chúng ta được trọn vẹn” hoặc “khiến chúng ta được vui mừng trọn vẹn"
ở đây cụm từ “chúng tôi” nói đến Giăng và những người biết Chúa Giê-xu khi Ngài còn sống trên đất.
Cụm từ “anh em” ở số nhiều và nói đến các tín hữu mà Giăng đã viết thư gửi cho họ.
Câu nầy có ý nói rằng Đức Chúa Trời thánh khiết trọn vẹn. Câu nầy có thể được dịch là “Đức Chúa Trời là thánh sạch công bình như ánh sáng thuần khiết”. Đối với những nơi thường liên tưởng điều thiện lành với ánh sáng thì có thể giữ ý so sánh Đức Chúa Trời với ánh sáng mà không cần phải giải thích ẩn dụ đó.
Câu nầy có ý nói rằng Đức Chúa Trời không hề phạm tội và không hề gian ác dù ở bất kỳ phương diện nào. Câu nầy có thể được dịch là “trong Ngài không hề có sự tăm tối của tội lỗi”. Đối với những nơi thường liên tưởng điều ác với bóng tối thì có thể giữ lại ý so sánh với sự tối tăm ở đây mà không cần phải giải thích ẩn dụ.
Trong các câu 6-7 đại từ “chúng ta” nói về các tín hữu, bao gồm các tín hữu mà Giăng đang viết thư cho họ.
Cụm từ này nghĩa là “làm ác” hay “luôn luôn làm ác”.
Cụm từ này có nghĩa là “làm lành” hoặc “luôn luôn làm lành”.
Câu nầy nói đến sự chết của Chúa Giê-xu.
Đây là danh hiệu quan trọng của Chúa Giê-xu, Con Đức Chúa Trời
Ở đây, đại từ “chúng ta” nói đến hết thảy các tín hữu.
“không bao giờ phạm tội” hay “chưa bao giờ phạm tội” (UDB)
“lừa gạt” hay “đánh lừa”
“chúng ta không tin những gì người ấy nói là thật”
Các chữ nầy nói đến Đức Chúa Trời.
“trung thành và tốt lành”
Về nghĩa cơ bản thì hai cụm từ này tương tự nhau. Giăng dùng cả hai từ để nhấn mạnh rằng Đức Chúa Trời chắc chắn sẽ tha tội cho chúng ta. Tham khảo cách dịch: “và sẽ tha thứ mọi điều sai trái mà chúng ta đã phạm”
“chẳng khác nào gọi Ngài là người nói dối, vì Ngài phán rằng chúng ta hết thảy đề phạm tội”. Cụm từ “vì Ngài phán rằng chúng ta hết thảy đều đã phạm tội” là thông tin ngầm hiểu.
Câu nầy có thể được dịch “chúng ta không hiểu cũng không vâng theo lời Ngài phán dạy”.
1 Các con thân yêu, ta viết cho các con những điều này để các con không phạm tội. Nhưng nếu ai phạm tội, thì chúng ta có Đấng biện hộ với Cha, tức Chúa Cứu Thế Giê-xu – là Đấng công chính. 2 Ngài là của lễ chuộc tội chúng ta, nhưng không phải chỉ tội lỗi chúng ta thôi đâu, mà tội lỗi của cả thế gian nữa. 3 Bởi điều này chúng ta biết mình biết Ngài, đó là chúng ta giữ các điều răn Ngài. 4 Ai nói: “Tôi biết Đức Chúa Trời,” nhưng không giữ điều răn Ngài, thì đó là kẻ nói dối; nơi họ không có lòng chân thật. 5 Nhưng ai giữ Lời Ngài, thì tình yêu của Đức Chúa Trời trong người đó thật trọn vẹn. Nhờ điều này chúng ta biết mình ở trong Ngài. 6 Ai nói mình ở trong Đức Chúa Trời thì người đó cũng phải ăn ở giống như Chúa Cứu Thế Giê-xu. 7 Hỡi những kẻ yêu dấu, tôi không viết cho anh em một điều răn mới, nhưng tôi viết điều răn cũ mà anh em đã nhận từ lúc ban đầu. Điều răn cũ ấy là lời mà anh em đã nghe. 8 Nhưng tôi viết cho anh em một điều răn mới, là điều xác thực trong Chúa Cứu Thế và trong anh em, vì bóng tối sắp qua đi, và ánh sáng đã chiếu rọi rồi. 9 Ai nói mình ở trong ánh sáng mà lại ghét anh em mình thì người đó vẫn ở trong bóng tối. 10 Ai yêu anh em mình thì cứ ở trong ánh sáng và nơi người đó chẳng có cớ gây cho vấp ngã. 11 Nhưng ai ghét anh em mình thì sống trong bóng tối và bước đi trong sự tối tăm; người đó không biết mình đang đi đâu, vì bóng tối đã làm mờ mắt anh ta. 12 Các con thân yêu, ta viết cho các con vì các con được tha tội bởi danh Ngài. 13 Các bậc làm cha, tôi viết cho các ông vì các ông đã biết Đấng có từ ban đầu. Các bạn trẻ, tôi viết cho các bạn vì các bạn đã thắng hơn ma quỷ. Các con cái bé nhỏ, ta viết cho các con vì các con đã biết Cha. 14 Các bậc làm cha, tôi đã viết cho các ông, vì các ông đã biết Đấng có từ ban đầu. Các bạn trẻ, tôi viết cho các bạn vì các bạn mạnh mẽ; Lời Đức Chúa Trời ở trong các bạn, và các bạn đã thắng được ma quỷ. 15 Đừng yêu thế gian cùng các thứ ở thế gian. Ai yêu thế gian thì tình yêu của Cha chẳng ở trong người ấy. 16 Vì mọi thứ trong thế gian – như sự tham muốn của xác thịt, sự tham muốn của mắt, và sự kiêu căng của đời – đều không thuộc về Cha nhưng thuộc về thế gian. 17 Thế gian cùng với dục vọng của nó sẽ qua đi. Nhưng ai làm theo ý muốn Đức Chúa Trời thì còn lại đời đời 18 Các con bé nhỏ, hiện đã là giờ cuối cùng. Như các con có nghe rằng kẻ chống nghịch Chúa Cứu Thế sẽ đến, thì thậm chí bây giờ cũng đã xuất hiện nhiều kẻ chống nghịch Chúa Cứu Thế rồi, cho nên chúng ta biết đây là giờ cuối cùng. 19 Chúng ra từ giữa chúng ta, nhưng chúng không thuộc trong số chúng ta. Vì nếu chúng thuộc trong số chúng ta, thì hẳn chúng sẽ tiếp tục ở với chúng ta. Nhưng khi chúng ra khỏi chúng ta, thì điều đó cho thấy chúng không thuộc về chúng ta. 20 Nhưng các con đã được sự xức dầu từ Đấng Thánh, và các con đều đã biết chân lý. 21 Ta không viết cho các con vì các con không biết chân lý, mà là vì các con đã biết, và vì chẳng sự dối trá nào ra từ chân lý. 22 Ai là kẻ nói dối nếu không phải là kẻ chối bỏ Chúa Giê-xu là Chúa Cứu Thế? Đó chính là kẻ chống nghịch Chúa Cứu Thế, vì hắn chối bỏ Cha và Con. 23 Không ai chối bỏ Con mà lại có Cha. Còn ai xưng nhận Con thì cũng có Cha nữa. 24 Về phần các con, hãy để những điều các con đã nghe từ lúc đầu cứ ở trong mình. Nếu những điều các con đã nghe từ lúc đầu cứ ở trong các con, thì các con cũng sẽ cứ ở trong Con và trong Cha. 25 Lời hứa mà Ngài dành cho chúng ta, đó là sự sống đời đời. 26 Ta đã viết các lời này cho các con về những kẻ sẽ dẫn dụ các con đi sai lạc. 27 Về phần các con, sự xức dầu mà các con nhận được từ nơi Ngài vẫn ở trong các con, và các con chẳng cần ai dạy dỗ mình. Nhưng vì sự xức dầu của Ngài dạy các con mọi điều và là chân thật chứ không phải dối trá, thậm chí như nó đã dạy các con, nên các con phải cứ ở trong Ngài. 28 Các con thân yêu, hãy cứ ở trong Ngài, để khi Ngài hiện ra, chúng ta được dạn dĩ và không bị hổ thẹn trước mặt Ngài lúc đó. 29 Nếu các con biết rằng Ngài là công chính, thì các con cũng biết rằng mọi người hành động công chính đều do Ngài sanh ra.
Giăng là cụ ông đã lớn tuổi và cũng là lãnh đạo của họ. Ông sử dụng cách diễn đạt nầy để bày tỏ tình yêu thương ông dành cho họ. Câu nầy có thể được dịch là “Hỡi các con cái yêu dấu của ta trong Chúa Cứu Thế” hay “Anh em đối với tôi vốn rất yêu dấu với tôi như con cái của tôi vậy”
“Ta đang viết thư nầy”
Đây là điều có thể sẽ xảy ra. “Nhưng khi có ai phạm tội”
Ở đây, từ “chúng ta” chỉ Giăng và những người ông đang viết thư cho họ.
“Đấng thưa cùng Đức Chúa Cha và cầu xin Ngài tha thứ cho chúng ta”
“Đức Chúa Giê-xu đã bằng lòng hi sinh mạng sống Ngài vì chúng ta, để Đức Chúa Trời tha tội cho chúng ta” (UDB)
Cụm từ “chúng ta nhận biết Ngài” ý nói “chúng ta có mối liên hệ với Ngài”. Câu nầy có thể được dịch là “nếu chúng ta làm theo những điều Ngài truyền, khi ấy chúng ta có thể dám chắc rằng mình có một liên hệ mật thiết với Ngài”.
Những từ nầy có thể nói đến Đức Chúa Trời hoặc nói đến Chúa Giê-xu.
“Hễ ai nói” hay “Người cho rằng”
Câu nầy có thể được dịch là: “Tôi có mối liên hệ tốt với Đức Chúa Trời”.
“không làm theo” hay “bất tuân”
“những điều Đức Chúa Trời bảo người làm theo”
“người không hề tin những gì Đức Chúa Trời phán là thật”
“làm theo” hay “vâng theo”
“những điều Đức Chúa Trời bảo người phải làm”
Có thể hiểu: 1) “tình yêu chúng ta dành cho Đức Chúa Trời” hay 2) “tình yêu của Đức Chúa Trời dành cho chúng ta”
Câu nầy có thể được dịch như một câu chủ động: “Nhưng người nào vâng giữ những điều Đức Chúa Trời truyền cho họ là những người kính mến Đức Chúa Trời trong mọi đường”
Cụm từ “chúng ta ở trong Ngài” nghĩa rằng người tin Chúa luôn luôn hòa hợp với Đức Chúa Trời hoặc có mối tương giao liên tục với Đức Chúa Trời. Thường trong I Giăng cụm từ “vẫn ở trong Ngài” được sử dụng để nói về cùng một việc. Câu nầy có thể được dịch là “Khi chúng ta vâng giữ những điều Đức Chúa Trời phán dạy, chúng ta có thể dám chắc rằng mình đang có mối tương giao với Ngài”.
“người ấy có mối liên hệ với”
“phải sống như Đức Chúa Giê-xu Cơ Đốc đã sống” hoặc “cũng phải vâng theo Đức Chúa Trời giống như Đức Chúa Giê-xu làm”
cụm từ nầy có thể được dịch là “Bạn hữu” hay “Những tín hữu yêu dấu trong Chúa Cứu Thế”
Giăng đang đề cập tới mạng lịnh mà Chúa Giê-xu truyền phải yêu thương nhau. Câu nầy có thể được dịch là “Tôi đang viết khuyên anh em phải yêu thương nhau. Đây không phải là điều gì mới phải làm theo mà là điều răn cũ đã được truyền cho anh em rồi”.
“từ khi anh em lần đầu tin nhận Chúa Cứu Thế”
Câu nầy có thể được dịch là “nhưng theo một cách nào đó, điều răn tôi viết cho anh em là điều răn mới”
Câu nầy có thể được dịch là “Điều răn này mới bởi vì những việc Chúa Cứu Thế đã làm và những gì anh em đang làm là mới”
Ở đây “sự tối tăm” nói đến điều ác và “sự sáng” nói đến điều thiện lành. Câu nầy có thể được dịch là “vì anh em đã thôi không làm theo điều ác và ngày càng làm nhiều điều lành”
“Ai nói” hoặc “người nào tuyên bố” (UDB). Câu này không nói đến người cụ thể nào.
Đây là lối nói về nếp sống phải lẽ. Khi làm điều phải lẽ người ta có thể làm cách công khai trong ánh sáng, chứ không che giấu trong bóng tối. Câu nầy có thể được dịch là “mình đang làm điều phải lẽ” hay “mình đang ở trong ánh sáng làm theo điều phải lẽ”
Đây là cách nói về nếp sống đầy tội lỗi. Khi người ta làm điều sai trái, họ thích ẩn nấp trong bóng tối. Câu nầy có thể được dịch là “còn ở trong bóng tối, làm điều gian ác”.
Ở đây chỉ các anh em tín hữu.
“không có điều gì khiến người vấp phạm”. Cụm từ “vấp phạm” là một ẩn dụ nói về thất bại thuộc linh hay về mặt đạo đức. Câu nầy có thể được dịch là “không một điều gì khiến người phạm tội” hay “người sẽ chẳng bao giờ thất bại trong việc làm đẹp lòng Đức Chúa Trời”.
Cũng một ý được lặp lại hai lần nhằm thu hút sự chú ý vào việc ghét một anh em tín hữu độc là việc gian ác dường nào. Câu nầy có thể được dịch là “đang sống trong tối tăm” hoặc “đang sống trong bóng tối tội lỗi”
Đây là ẩn dụ có thể được dịch là “thậm chí người không biết mình đang làm điều ác”.
“bóng tối khiến người không thể nhìn thấy được”. Câu nầy có thể được dịch là “tội lỗi khiến cho người không thể hiểu được lẽ thật”.
Xem cách bạn dịch cụm từ nầy ở 2:1. 1JN 2:1.
Cụm từ nầy có thể được dịch với mệnh đề chủ động: “Đức Chúa Trời đã tha tội cho các con”.
“danh Chúa Cứu Thế” là hoán dụ đề cập tới Chúa Cứu Thế và mọi điều Ngài đã làm. Cụm từ nầy có thể được dịch là “vì cớ những gì Chúa Cứu Thế đã làm cho các con”.
Cụm từ “phụ lão” ở đây là một ẩn dụ chỉ các tín hữu trưởng thành. Cụm từ nầy có thể được địch là “Tôi viết cho các ông, hỡi các tín hữu đã trưởng thành”.
“các ông có mối liên hệ với”
“Đấng hằng sống” hoặc “Đấng hằng hữu”. Cụm từ nầy nói đến “Chúa Giê-xu” hay đến “Đức Chúa Trời là Đức Chúa Cha”
Ẩn dụ nầy nói đến những người không phải là tân tín hữu nữa và đang tấn tới trong sự trưởng thành thuộc linh. Cụm từ nầy có thể được dịch là “các tín hữu trẻ tuổi”.
Cụm từ nầy có thể được dịch là “các ngươi vốn biết rõ Lời của Đức Chúa Trời”.
“chiến thắng” hay “thắng hơn” hoặc “đã đánh bại” (Tham khảo bản dịch UDB)
Trong 2:15-17 cụm từ “thế gian” chỉ hết thảy những điều mà người ta làm và những vụ việc họ muốn làm không tôn vinh Đức Chúa Trời. Cụm từ nầy có thể được dịch là “Đừng ăn ở giống như hạng người trong thế gian không tôn vinh Đức Chúa Trời”.
“và đừng muốn những thứ giống như những kẻ bất kính cùng Đức Chúa Trời muốn
Cụm từ nầy ý nói “người ấy không yêu mến Đức Chúa Cha”
Cụm từ nầy có thể được dịch là “Một người không thể vừa yêu mến đời nầy và mọi điều làm ô danh Đức Chúa Trời lại vừa kính mến Đức Chúa Cha được”.
Đây là danh sách một số việc trong thế gian giải thích ý nghĩa của cụm từ “mọi điều ở trong thế gian”
“ham muốn mãnh liệt muốn thỏa mãn những khoái lạc thể xác”
“tham muốn sở hữu những thứ mình thấy”
“khoe khoang về những điều mình có” hay “những người kiêu ngạo lên mình về những điều mình có”
Từ nầy nói đến mọi thứ mà người ta có để sống, ví dụ như của cải và sự giàu có.
Cụm từ nầy có thể được dịch là “không đến từ Đức Chúa Cha” hay “không phải cách Đức Chúa Cha dạy chúng ta phải sống”
“một ngày nào đó sẽ không còn”
Xem cách bạn dịch cụm từ nầy ở 2:1 1JN 2:1.
Cụm từ “giờ cuối cùng” chỉ thời điểm ngay trước khi Chúa Giê-xu tái lâm và xét đoán mọi người. Cụm từ nầy có thể được dịch là “Chúa Giê-xu sẽ sớm trở lại”
Cụm từ nầy có thể được dịch là “và vì cớ điều nầy chúng ta biết” hay “và vì có nhiều kẻ chống Chúa Cứu Thế đã đến, chúng ta biết rằng”.
“có nhiều người chống lại Chúa Cứu Thế”.
“chúng ra khỏi từ chúng ta”
“Nhưng chúng không thực sự thuộc về chúng ta” hoặc “ngay từ đầu họ vốn không thuộc về chúng ta”. Lý do họ không thuộc về ấy là vì họ không phải là những người tin theo Chúa Giê-xu.
Cụm từ nầy có thể được dịch là “Bởi vì, nếu họ thực sự là tín hữu thì đã không rời bỏ chúng ta”.
“Nhưng Đấng Thánh đã xức dầu cho các con”. Trong thời Cựu Ước, “xức dầu” chỉ về hành động đổ dầu lên một người để biệt riêng người đó ra đặng hầu việc Đức Chúa Trời. Ở đây “xức dầu” nói về việc Chúa Giê-xu ban Đức Thánh Linh cho các tín hữu đặng biệt riêng họ ra để phục vụ Đức Chúa Trời. Cụm từ nầy có thể được dịch là “Nhưng Đức Chúa Giê-xu Cơ Đốc, tức là Đấng Thánh, đã ban Thánh Linh Ngài cho các con”
“không một lời dối trá nào ra từ lẽ thật”. Cụm từ “lẽ thật” có thể nói đến Đức Chúa Trời, Ngài là Đấng đầy dẫy lẽ thật. Cụm từ nầy cũng có thể được dịch là “Không một lời dối trá nào ra từ Đấng Chân Thật”.
Giăng sử dụng một câu hỏi thật hùng biện để nhấn mạnh ai là kẻ nói dối. Cụm từ nầy có thể được dịch như một câu hỏi với một câu trả lời: “Ai là kẻ nói dối? Ấy là kẻ phủ nhận việc Chúa Giê-xu là Chúa Cứu Thế”
“không chịu xưng Chúa Giê-xu là Chúa Cứu Thế” hay “cho rằng Chúa Giê-xu không phải là Chúa Cứu Thế”
Cụm từ nầy có thể được dịch là “từ chối không nói ra sự thật về Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con” hay “chối bỏ Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con”.
Đây là những danh xưng quan trọng mô tả mối liên hệ giữa Đức Chúa Trời và Chúa Giê-xu
“thuộc về Đức Chúa Cha”
“nói ra lẽ thật về Đức Giê-hô-va Chúa Con”
Trong 2:24-26 cụm từ “các con” ở dạng số nhiều chỉ những người mà Giăng đang viết thư gửi cho họ.
“hãy ghi nhớ và tin những điều các con đã nghe từ lúc ban đầu”. Cách họ nghe, điều họ đã nghe, cũng như “lúc ban đầu” là gì; có thể nói rõ những ý này ra: “hãy tiếp tục tin cậy những điều chúng ta đã dạy cho các con về Chúa Giê-xu giống như các con đã tin cậy từ ban đầu khi trở nên các tín đồ”
Cụm từ nầy có thể được dịch là “những điều chúng ta đã dạy cho các con về Chúa Giê-xu khi các con trở thành tín hữu”
“Nếu các con tiếp tục tin cậy những điều chúng ta đã dạy cho các con”
Xem cụm từ nầy được dịch thể nào trong 2:5-6 1JN 2:5-6
“Và đây là những gì Ngài đã hứa ban cho chúng ta; sự sống đời đời” hay “Và Ngài hứa khiến cho chúng ta sống cho đến đời đời”.
Ở đây chữ “Ngài” được nhấn mạnh chỉ về Chúa Cứu Thế. Chữ “us” [chúng ta] nói đến Giăng và hết thảy những người tin Chúa, bao gồm những người mà ông đang viết thư gửi cho.
“ra sức khiến các con tin vào lời dối trá” hay “muốn kéo các con ra khỏi Đức Chúa Trời và lẽ thật của Ngài”
Trong 2:27-29 cụm từ “các con” ở số nhiều và nói đến các tín hữu mà Giăng đang viết thư gửi cho họ.
Cụm từ nầy đề cập tới “Thánh Linh của Đức Chúa Trời”. Xem chú thích nói tới “sự xức dầu” ở 2:20. 1JN 2:20.
“Bởi vì sự xức dầu của Ngài dạy cho các con”
Ở đây, cụm từ nầy là một cách nói cường điệu. Cụm từ nầy có thể được dịch là “mọi sự mà các con cần phải biết”
Xem cụm từ nầy được dịch ở 2:5-6. Cách thức một người cứ ở trong Chúa Giê-xu có thể được làm rõ: “ở trong Ngài khi tin và vâng theo Ngài”.
Cụm từ nầy được sử dụng ở đây để đánh dấu một phần mới của bức thư
Xem cách bạn dịch cụm từ nầy ở 2:1 1JN 2:1.
“chúng ta thấy Ngài”
“tự tin”
Cụm từ “Ngài đến” đề cập tới thời điểm Chúa Giê-xu tái lâm làm vua và quan án của thế gian. Cụm từ nầy được dịch là “khi Ngài tái lâm để xét đoán mọi người”.
“sinh từ Đức Chúa Trời” hay “là con cái của Đức Chúa Trời”
1 Hãy xem Cha đã yêu thương chúng ta biết bao, đến nỗi chúng ta được gọi là con Đức Chúa Trời, và chúng ta thật đúng như vậy. Vì lý do đó, thế gian không nhìn biết chúng ta, vì họ không biết Ngài. 2 Hỡi những kẻ yêu dấu, bây giờ chúng ta là con cái Đức Chúa Trời, nhưng sau này chúng ta thế nào thì chưa được tỏ bày. Chúng ta biết rằng khi Chúa Cứu Thế hiện đến, chúng ta sẽ giống Ngài, vì chúng ta sẽ thấy Ngài như Ngài vốn có. 3 Ai có sự tin chắc ấy về tương lai nơi Ngài thì tự làm cho mình được thanh sạch, như Ngài là thanh sạch. 4 Ai miệt mài trong tội tức đang hành động vô luật pháp, vì tội lỗi là sự vô luật pháp. 5 Các con biết Chúa Cứu Thế đã đến để cất tội lỗi đi. Trong Ngài không có tội lỗi. 6 Không ai ở trong Ngài mà cứ mãi phạm tội. Không ai tiếp tục phạm tội mà lại thấy hoặc biết Ngài. 7 Các con thân mến, chớ để ai dẫn dụ các con đi sai lạc. Ai làm điều công chính là người công chính, như Chúa Cứu Thế là Đấng công chính. 8 Ai phạm tội thì thuộc về ma quỷ, vì ma quỷ phạm tội từ ban đầu. Vì vậy, Con Đức Chúa Trời đã đến để phá hủy công việc của ma quỷ. 9 Ai sanh bởi Đức Chúa Trời thì không phạm tội vì hạt giống của Đức Chúa Trời ở trong người đó. Anh ta không thể cứ phạm tội vì đã được sanh bởi Đức Chúa Trời. 10 Nhờ điều này chúng ta biết được con cái Đức Chúa Trời và con cái ma quỷ. Ai không làm điều công chính thì không thuộc về Đức Chúa Trời, mà kẻ không yêu thương anh em mình cũng vậy. 11 Vì đây là sứ điệp các con đã nghe từ lúc ban đầu, đó là chúng ta phải yêu nhau, 12 không như Ca-in thuộc về ma quỷ đi giết chết em mình. Tại sao ông giết em mình đi? Vì các việc làm của ông là ác, còn các việc làm của người em là công chính. 13 Thưa anh em, anh em chớ ngạc nhiên nếu thế gian ghét anh em. 14 Chúng ta biết rằng mình đã vượt qua sự chết để đến sự sống, vì chúng ta yêu anh em mình. Ai không yêu thì vẫn ở trong sự chết. 15 Ai ghét anh em mình là kẻ sát nhân. Anh em biết rằng kẻ sát nhân không có sự sống đời đời. 16 Bởi điều này chúng ta biết được thế nào là tình yêu, đó là Chúa Cứu Thế đã hy sinh mạng sống Ngài vì chúng ta. Chúng ta cũng phải hy sinh mạng sống vì anh em. 17 Nhưng ai có của cải trần gian thấy anh em mình thiếu thốn mà lại đóng chặt lòng lại, thì làm sao tình yêu của Đức Chúa Trời cứ ở trong người ấy được? 18 Các con thân yêu, chúng ta đừng chỉ yêu thương bằng lời hoặc trên môi miệng, mà phải bằng hành động và sự chân thực. 19 Nhờ đó chúng ta biết mình thuộc về chân lý và được vững lòng trước mặt Ngài. 20 Vì nếu lòng chúng ta lên án mình, thì Đức Chúa Trời lại càng lớn hơn lòng chúng ta, và Ngài biết mọi việc. 21 Hỡi những kẻ yêu dấu, nếu lòng chúng ta không lên án mình, thì chúng ta vững tin đối với Đức Chúa Trời. 22 Và chúng ta cầu xin gì thì Ngài sẽ ban cho, vì chúng ta giữ điều răn Ngài và làm điều đẹp ý Ngài. 23 Đây là điều răn của Ngài – đó là chúng ta phải tin vào danh Con Ngài là Chúa Cứu Thế Giê-xu và yêu thương nhau – như điều răn này mà Ngài ban cho chúng ta. 24 Ai giữ điều răn của Đức Chúa Trời thì cứ ở trong Ngài, và Đức Chúa Trời ở trong người đó. Và bởi điều này mà Ngài cứ ở trong chúng ta, đó là nhờ Thánh Linh mà Ngài ban cho chúng ta.
“Hãy nghĩ đến việc Đức Chúa Cha yêu thương chúng ta dường nào”
Trong 3:1-3 các đại từ nầy đề cập tới Giăng, khán thính giả của ông, và hết thảy các tín hữu.
Cụm từ nầy có thể được dịch với một động từ chủ động: “Đức Chúa Cha gọi chúng ta là con cái của Ngài”
Ở đây chỉ những người thuộc về Đức Chúa Trời bởi niềm tin nơi Chúa Giê-xu.
Ở đây “thế gian” chỉ những người không tôn kính Đức Chúa Trời. Những gì thế gian không biết có thể nói rõ ra: “Những kẻ không tôn kính Đức Chúa Trời không biết rằng chúng ta thuộc về Đức Chúa Trời, vì họ không nhìn biết Đức Chúa Trời”
Cụm từ nầy có thể được dịch với một động từ chủ động: “Đức Chúa Trời chưa bày tỏ”
Cụm từ nầy có thể được dịch: “Người nào tin chắc mình sẽ nhìn thấy Chúa Cứu Thế sẽ giữ mình thanh sạch vì Chúa Cứu Thế là thanh sạch”.
“không chịu vâng theo luật pháp của Đức Chúa Trời”
Ở đây “các con” là số nhiều và đề cập tới những người mà Giăng đang viết thư gửi cho họ.
Cụm từ nầy có thể được dịch với một động từ chủ động: “Chúa Cứu Thế đã hiện ra” hay “Đức Chúa Cha đã tỏ Chúa Cứu Thế ra”
Xem cách cụm từ nầy được dịch ở 2:5-6 1JN 2:5-6
Giăng dùng cả hai cụm từ “thấy” và “biết” để nhấn mạnh rằng về phương diện thuộc linh, người cứ tiếp tục phạm tội thì chẳng từng nhận biết Chúa Cứu Thế. Cụm từ nầy có thể được dịch là “Không ai… chưa hề thực sự tin theo Ngài”
Xem cách bạn dịch cụm từ nầy ở 2:1. 1JN 2:1.
Cụm từ nầy có thể được dịch là “đừng để ai lừa dối các con” hay “đừng để ai dối gạt các con”
Cụm từ nầy có thể được dịch là “Người nào làm điều phải lẽ làm đẹp lòng Đức Chúa Trời như Chúa Cứu Thế làm đẹp lòng Đức Chúa Trời vậy”.
“cứ tiếp tục phạm tội” (Tham khảo bản dịch UDB)
“thuộc về ma quỷ” hay “giống như ma quỷ” (UDB)
Cụm từ nầy nói về những thời điểm khởi nguyên của sự sáng tạo trước khi những người đầu tiên phạm tội. Cụm từ nầy có thể được dịch là “từ thuở ban đầu của sự sáng tạo”
Cụm từ nầy có thể được dịch với một mệnh để chủ động: “Đức Chúa Trời đã bày tỏ Con của Ngài”
Đây là danh hiệu quan trọng của Chúa Giê-xu, mô tả mối liên hệ của Ngài với Đức Chúa Trời
Cụm từ nầy có thể được dịch với một mệnh đề chủ động: “Hễ người nào Đức Chúa Trời lập làm con cái Ngài”
“không thể phạm tội liên tục” (Tham khảo bản dịch UDB)
Cụm từ nầy so sánh hạt giống được gieo ra trên đất rồi lớn lên với Đức Thánh Linh mà Đức Chúa Trời đã đặt trong các tín hữu, Ngài chính là Đấng ban cho họ năng lực kháng cự lại tội lỗi và làm điều chi đẹp lòng Đức Chúa Trời. Cụm từ nầy có thể được dịch là “Đức Thánh Linh”
Cụm từ nầy có thể được dịch thành một mệnh để chủ động: “Đức Chúa Trời đã ban cho người sự sống thuộc linh mới” hay “người là con cái của Đức Chúa Trời”.
Cụm từ nầy có thể được dịch với một câu chủ động: “Đây là cách chúng ta nhìn biết con cái của Đức Chúa Trời và con cái của ma quỷ”.
Ở đây, “anh em” chỉ những anh em tín hữu. “chỉ những người làm điều công bình và yêu mến anh em mình mới là con của Đức Chúa Trời”
Ở đây, cụm từ “chúng ta” đề cập tới hết thảy các tín hữu.
Trong trường hợp này chỉ A-bên, là em của Ca-in.
Giăng sử dụng một câu hỏi để dạy dỗ khán thính giả của mình. Cụm từ nầy có thể được dịch như một lời phát biểu: “Người giết em mình vì”
Cụm từ nầy có thể được dịch là “vì người luôn luôn làm việc ác, còn em người lo làm việc lành”.
“các anh em tín hữu”
Ở đây, cụm từ “thế gian” chỉ những người không kính mến Đức Chúa Trời. Cụm từ nầy có thể được dịch là “nếu những kẻ không tôn kính Đức Chúa Trời ghét anh em, là những người tôn kính Đức Chúa Trời”
“chúng ta không còn chết mất về mặt thuộc linh nữa nhưng hiện đang sống động về mặt thuộc linh”
“vẫn còn chết mất về mặt thuộc linh”
Cụm từ nầy sánh một người ghét tín hữu khác với một kẻ giết người. Vì lòng ghen ghét là nguyên nhân dẫn đến hành động giết người, Đức Chúa Trời xem người nào ghét kẻ khác là phạm tội như kẻ giết người vậy. Cụm từ nầy có thể được dịch là “Hễ ai ghét tín hữu khác thì phạm tội như kẻ giết người vậy”
“Sự sống đời đời” là điều Đức Chúa Trời ban cho người tin Ngài sau khi qua đời, nhưng đây cũng là năng lực mà Đức Chúa Trời ban cho người kẻ tin Ngài để giúp cho họ không phạm tội nữa và làm theo những gì đẹp lòng Ngài trong đời nầy. Cụm từ nầy cũng có thể được dịch là “kẻ giết người thì không có năng quyền của sự sống thuộc linh hành động bên trong người”
Cách diễn đạt nầy nhằm ý: “Chúa Cứu Thế bằng lòng phó sự sống mình vì chúng ta” hay “Chúa Cứu Thế bằng lòng chịu chết vì chúng ta”
Cụm từ nầy có thể được dịch là “của cải vật chất như tiền bạc, đồ ăn, hay quần áo”.
“và nhận ra anh em tín hữu đang cần giúp đỡ”
Cụm từ nầy có ý nói “nhưng chẳng tỏ lòng thương xót người” hoặc “không sẵn lòng giúp đỡ người”
Giăng sử dụng một câu hỏi để dạy dỗ khán thính giả của mình. Cụm từ nầy có thể được dịch như một câu nói: “Lòng yêu mến Đức Chúa Trời không ở trong người”.
Xem cách bạn dịch cụm từ nầy ở 2:1. 1JN 2:1.
Cụm từ “bằng lời nói” và “bằng lưỡi” đều chỉ về những điều người ta nói. Cụm từ nầy có thể được dịch là “đừng chỉ nói miệng con yêu thương người khác”
Cụm từ nầy có thể được dịch là “nhưng hãy tỏ ra rằng bạn thực sự yêu người bằng cách giúp đỡ họ”.
Cụm từ nầy có thể được dịch là “chúng ta đang sống theo cách Chúa Giê-xu dạy mình”
Trong 3:19-22 chữ “lòng” nói đến lương tâm của một người hoặc phần trong suy nghĩ của một người để qua đó Đức Chúa Trời khiến cho người đó nhận biết mình đang làm một việc tội lỗi. Cụm từ nầy có thể được dịch là “chúng ta sẽ không cảm thấy tội lỗi trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời”
Cụm từ nầy có thể được dịch là “chúng ta biết Đức Chúa Trời là quan án tốt hơn lòng mình”
Cụm từ nầy có thể được dịch là “chúng ta làm những điều đẹp lòng Ngài”
Cụm từ nầy có thể được dịch là “đây là điều Đức Chúa Trời muốn chúng ta phải làm theo”
Đây là danh hiệu quan trọng của Chúa Giê-xu, Con Đức Chúa Trời
Xem cách cụm từ nầy được dịch ở 2:5-6. 1JN 2:5-6.
1 Hỡi những kẻ yêu dấu, đừng cả tin mọi linh, nhưng hãy thử các linh ấy, xem linh nào đến từ Đức Chúa Trời, vì nhiều tiên tri giả đã xuất hiện trong thế gian này rồi. 2 Bởi điều này các con sẽ biết được Linh của Đức Chúa Trời – linh nào nhận rằng Chúa Cứu Thế Giê-xu đã đến trong xác thể thì linh đó thuộc về Đức Chúa Trời, 3 và linh nào không công nhận Chúa Cứu Thế Giê-xu thì linh đó chẳng thuộc về Đức Chúa Trời. Đây là linh của kẻ nghịch lại Chúa Cứu Thế mà các con đã nghe rằng sắp xuất hiện, và nay đã có mặt trong thế gian rồi. 4 Các con thân yêu, các con thuộc về Đức Chúa Trời, và các con đã thắng chúng, vì Đấng ở trong các con lớn hơn kẻ ở trong thế gian. 5 Chúng thuộc về thế gian, vì vậy lời chúng nói là nói theo thế gian, và thế gian nghe chúng. 6 Chúng ta thuộc về Đức Chúa Trời. Ai biết Đức Chúa Trời thì nghe chúng ta. Ai không thuộc về Đức Chúa Trời thì không nghe chúng ta. Bởi đó chúng ta biết linh chân lý và linh sai lầm. 7 Hỡi những kẻ yêu dấu, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu đến từ Đức Chúa Trời; ai yêu thì sanh bởi Đức Chúa Trời và biết Đức Chúa Trời. 8 Ai không yêu thì không biết Đức Chúa Trời, vì Đức Chúa Trời là tình yêu. 9 Tình yêu của Đức Chúa Trời được bày tỏ ra giữa vòng chúng ta như thế này: Đức Chúa Trời đã ban Con một của Ngài xuống thế gian để nhờ Ngài mà chúng ta được sống. 10 Tình yêu là đây: chẳng phải chúng ta yêu Đức Chúa Trời, mà là Ngài yêu chúng ta, và sai phái Con Ngài làm của lễ chuộc tội chúng ta. 11 Hỡi những kẻ yêu dấu, nếu Đức Chúa Trời yêu chúng ta như vậy, thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau. 12 Chưa có ai thấy Đức Chúa Trời. Nếu chúng ta yêu nhau, thì Đức Chúa Trời cứ ở trong chúng ta và tình yêu Ngài được vẹn toàn trong chúng ta. 13 Bởi điều này chúng ta biết mình vẫn ở trong Ngài và Ngài ở trong chúng ta, đó là Ngài đã ban Thánh Linh Ngài cho chúng ta. 14 Chúng tôi đã thấy và làm chứng rằng Cha đã sai Con Ngài đến làm Cứu Chúa của thế gian. 15 Hễ ai nhìn nhận rằng Chúa Giê-xu là Con Đức Chúa Trời, thì Đức Chúa Trời cứ ở trong người đó, và người đó ở trong Đức Chúa Trời. 16 Chúng ta biết và đã tin tình yêu của Đức Chúa Trời trong chúng ta. Đức Chúa Trời là tình yêu, ai cứ ở trong tình yêu thì vẫn ở trong Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời ở trong người đó. 17 Bởi điều này mà tình yêu được toàn vẹn trong chúng ta, để chúng ta có thể vững lòng trong ngày phát xét, vì Ngài thể nào thì chúng ta cũng thể ấy trong thế gian này. 18 Không có sự sợ hãi trong tình yêu. Tình yêu toàn vẹn loại bỏ đi sợ hãi, vì sợ hãi liên quan đến hình phạt. Kẻ nào sợ hãi thì chưa được toàn vẹn trong tình yêu. 19 Chúng ta yêu vì Đức Chúa Trời đã yêu chúng ta trước. 20 Nếu ai nói: “Tôi yêu Đức Chúa Trời,” nhưng ghét anh em mình, thì đó là kẻ nói dối. 21 Và đây là điều răn chúng ta tiếp nhận từ nơi Ngài: Ai yêu Đức Chúa Trời thì cũng phải yêu anh em mình.
Trong 4:1-3 từ “thần” chỉ về quyền phép hay hữu thể thuộc linh ban cho một người sứ điệp hay lời tiên tri. Cụm từ nầy có thể được dịch là “đừng tin mọi tiên tri tự nhận mình có sứ điệp từ một thần nào đó”.
Cụm từ nầy có thể được dịch là “nhưng phải chắc chắn lắng nghe cẩn thận những lời tiên tri đó nói”.
“đã mang lấy hình dạng con người” hoặc “đã đến trong một thân thể vật lý”
Cụm từ nầy có thể được dịch là “Chúng ta những giáo sư chống lại Chúa Cứu Thế” (UDB)
Cụm từ nầy có thể được dịch là “anh em đã nghe rằng những người như vậy đang đến giữa vòng chúng ta”
Cụm từ nầy có thể được dịch là “Thậm chí bây giờ họ đã có mặt ở đây rồi!” (UDB)
“các con thuộc về Đức Chúa Trời”
Xem cách bạn dịch cụm từ nầy ở 2:1. 1JN 2:1.
Cụm từ nầy có thể được dịch là “đã không tin nơi các giáo sư giả”
“Đấng” nói đến Đức Chúa Trời.
“kẻ” nói đến Satan.
Cụm từ “thế gian” nói đến những người không vâng phục Đức Chúa Trời.
Cụm từ nầy có thể được dịch là “Các giáo sư giả đó là những kẻ không vâng phục Đức Chúa Trời “
Cụm từ nầy có thể được dịch là “vì vậy họ dạy dỗ các ý tưởng chống nghịch Đức Chúa Trời”
Cụm từ nầy có thể được dịch là “và những kẻ không vâng theo Đức Chúa Trời nghe theo họ”
“Bạn thân yêu” (Tham khảo bản dịch UDB)
“Các tín hữu phải yêu thương các tín hữu khác”
Đây là ẩn dụ ý nói “bản tánh của Đức Chúa Trời là sự yêu thương”
Cụm từ nầy có thể được dịch là “vì Đức Chúa Trời khiến chúng ta yêu thương nhau”
Đây là ẩn dụ nói về mối quan hệ với Đức Chúa Trời giống như con đối với cha vậy.
Cụm từ nầy có thể được dịch là “vì người nào yêu thương các anh em tín hữu khác vốn đã trở nên con cái của Đức Chúa Trời và nhận biết Ngài” (UDB)
Cụm từ nầy có thể được dịch là “bản tánh của Đức Chúa Trời là yêu thương mọi người. Kẻ nào không yêu thương các anh em tín hữu khác thì không nhìn biết Đức Chúa Trời vì bản tánh của Đức Chúa Trời là yêu thương con người”.
Cụm từ nầy có thể được dịch là “Đức Chúa Trời bày tỏ rằng Ngài yêu chúng ta”
Cụm từ nầy có thể được dịch là “để chúng ta có thể sống đời đời vì cớ mọi điều Chúa Giê-xu đã làm”
Cụm từ nầy có thể được dịch là “Đức Chúa Trời tỏ ra cho chúng ta biết tình yêu thương thật là gì
Cụm từ nầy có thể được dịch là “không giống như cách chúng ta yêu Đức Chúa Trời”
ý nói một sự hy sinh chuộc tội.
Cụm từ nầy có thể được dịch là “và sai Con Ngài chịu chết để Đức Chúa Trời có thể tha tội cho chúng ta”
“Bạn thân mến” (Tham khảo bản dịch UDB)
Cụm từ nầy có thể được dịch là “vì Đức Chúa Trời rất yêu thương chúng ta”
“các tín hữu cần phải yêu thương các tín hữu khác”
Xem cách cụm từ nầy được dịch ở 2:5-6. 1JN 2:5-6.
Cụm từ nầy có thể được dịch là “tình yêu thương của Đức Chúa Trời được trọn vẹn trong chúng ta”
Cụm từ nầy có thể được dịch là “vì Ngài đã đặt Thánh Linh Ngài trong chúng ta”
Cụm từ nầy có thể được dịch là “và chúng ta, các sứ đồ, đã thấy Con Đức Chúa Trời và thuật lại cho mọi người biết rằng Đức Chúa Trời là Đức Chúa Cha đã sai Con của Ngài đến cứu mọi người trên đất nầy”
Đây là những danh xưng quan trọng mô tả mối liên hệ giữa Đức Chúa Trời và Chúa Giê-xu
“những người nào nói ra lẽ thật về Chúa Giê-xu, rằng Ngài là Con Đức Chúa Trời”
Đây là danh hiệu quan trọng của Chúa Giê-xu, mô tả mối liên hệ của Ngài với Đức Chúa Trời
Xem cách cụm từ nầy được dịch ở 2:5-6. 1JN 2:5-6.
Đây là ẩn dụ ý nói “bản tánh của Đức Chúa Trời là sự yêu thương”
Cụm từ nầy có thể được dịch là “ai cứ yêu người khác tức là có mối liên hệ với Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời có một mối liên hệ mật thiết với họ”
Có thể hiểu: 1) chữ “nầy” chỉ ngược về 4:16. Cách dịch khác: “Và khi một người sống trong tình yêu thương, thì người ở trong Đức Chúa Trời và Đức Chúa Trời ở trong người ấy, tình yêu thương của chúng ta được trọn vẹn. Và, chúng ta có thể có sự trông cậy trọn vẹn trong ngày phán xét”. Hoặc 2) chữ “nầy” nói đến “sự trông cậy”. Cách dịch khác: “Khi chúng ta có lòng trông cậy rằng Đức Chúa Trời sẽ tiếp nhận chúng ta trong ngày Ngài phán xét thiên hạ, khi ấy chúng ta nhận biết tình yêu thương của chúng ta là trọn vẹn giữa vòng chúng ta”.
“vì mối liên hệ mà Chúa Giê-xu có với Đức Chúa Trời cũng chính là mối liên hệ chúng ta có với Đức Chúa Trời trong thế gian nầy”
Ở đây “sự yêu thương” được mô tả như một người có sức mạnh loại bỏ sự sợ hãi. Cách dịch khác: “Nhưng khi tình yêu thương của chúng ta là trọn vẹn chúng ta không còn sợ hãi nữa”
“vì chúng ta sợ hãi nếu nghĩ rằng Đức Chúa Trời sẽ hình phạt chúng ta khi Ngài ngự đến đoán xét mọi người”
“Khi một người lo sợ rằng Đức Chúa Trời sẽ hình phạt mình thì có nghĩa là tình yêu thương của người ấy chưa trọn vẹn”
Điều nầy nói đến Giăng, những người mà ông đang viết thư cho, và các tín hữu ở khắp mọi nơi
“ghét các anh em tín hữu” (UDB)
"chỉ người nào yêu mến anh em mình, là những người mình nhìn thấy được, thì mới có thể yêu mến Đức Chúa Trời, Đấng mình không thể thấy”
“Ngài” nói đến Đức Chúa Trời.
1 Ai tin Giê-xu là Chúa Cứu Thế thì sanh bởi Đức Chúa Trời. Ai yêu Đấng từ Cha đến thì cũng yêu con cái của Ngài. 2 Nhờ điều này chúng ta biết mình yêu con cái Đức Chúa Trời, đó là khi chúng ta yêu Đức Chúa Trời và giữ điều răn Ngài. 3 Vì tình yêu đối với Đức Chúa Trời là thế này – đó là chúng ta giữ điều răn Ngài. Điều răn Ngài chẳng nặng nề gì. 4 Vì ai sanh bởi Đức Chúa Trời thì thắng hơn thế gian. Và sự đắc thắng đã thắng hơn thế gian đó chính là đức tin của chúng ta. 5 Ai là người thắng hơn thế gian? Đó là người tin Chúa Giê-xu là Con Đức Chúa Trời. 6 Đây là Đấng đã đến bởi nước và huyết – tức Chúa Cứu Thế Giê-xu. Ngài không chỉ đến bởi nước, nhưng bởi nước và huyết. 7 Vì có ba chứng nhân: 8 Thánh Linh, nước, và huyết. Cả ba hòa hợp với nhau. 9 Nếu chúng ta tiếp nhận chứng của con người, thì chứng của Đức Chúa Trời còn lớn hơn. Vì sự làm chứng của Đức Chúa Trời là thế này – đó là Ngài đã làm chứng về Con Ngài. 10 Ai tin Con Đức Chúa Trời thì có lời chứng đó trong mình. Ai không tin Đức Chúa Trời tức làm ra Ngài là kẻ nói dối, vì không tin lời chứng mà Đức Chúa Trời đã ban về Con của Ngài. 11 Lời chứng đó là thế này: Đức Chúa Trời đã ban sự sống đời đời cho chúng ta, và sự sống này ở trong Con Ngài. 12 Ai có Con thì có sự sống. Ai không có Con Đức Chúa Trời thì không có sự sống. 13 Ta viết mấy lời này cho các con – tức cho những kẻ tin nơi danh Con Đức Chúa Trời – để các con biết mình có sự sống đời đời. 14 Và đây là sự tin chắc của chúng ta trước mặt Ngài, đó là nếu chúng ta cầu xin điều gì theo ý muốn Ngài, thì Ngài nghe chúng ta. 15 Nếu chúng ta biết Ngài nghe chúng ta – cho dù chúng ta có xin điều gì – thì chúng ta cũng biết mình nhận được điều đã cầu xin. 16 Nếu ai thấy anh em mình phạm, một tội không khiến phải chết, thì người đó hãy cầu nguyện, để Đức Chúa Trời cho người kia được sống. Tôi đang nói đến những người phạm tội không khiến phải chết. Có một tội dẫn đến sự chết – tôi không nói rằng người đó phải cầu nguyện về tội đó. 17 Mọi sự bất chính đều là tội lỗi – nhưng có tội không dẫn đến sự chết. 18 Chúng ta biết rằng ai sanh bởi Đức Chúa Trời thì không phạm tội. 19 Chúng ta biết mình thuộc về Đức Chúa Trời, và chúng ta biết cả thế gian chịu sự kiểm soát của ma quỷ. 20 Nhưng chúng ta biết Con Đức Chúa Trời đã đến ban cho chúng ta trí hiểu, để chúng ta biết Đấng vốn là thật, và chúng ta ở trong Đấng chân thật ấy – tức trong Con Ngài là Chúa Cứu Thế Giê-xu. Ngài là Chân Thần và là sự sống đời đời. 21 Hỡi các con thân yêu, hãy tránh xa thần tượng.
“là con cái của Đức Chúa Trời”
“Ngài là Đấng khiến cho chúng ta trở nên con cái của Ngài”
“Khi chúng ta yêu mến Đức Chúa Trời và làm theo những điều Ngài truyền dạy, khi ấy chúng ta biết rằng chúng ta yêu mến con cái của Đức Chúa Trời”
“Vì khi chúng ta làm theo những gì Ngài truyền, đó là tình yêu thật dành cho Đức Chúa Trời”
“Và những điều Ngài đã truyền không phải là gánh nặng” hoặc “Những gì Ngài truyền không phải là khó làm”
Cụm từ nầy nói đến hết thảy con cái của Đức Chúa Trời.
Cụm từ nầy có thể được dịch là “từ chối không làm theo những việc ác mà người không tin Chúa làm”
Cụm từ nầy có thể được dịch là “Đức tin của chúng ta cho chúng ta năng lực kháng cự lại sự phạm tội nghịch cùng Đức Chúa Trời”
Giăng dùng câu hỏi này để giới thiệu điều mà ông muốn dạy dỗ. Tham khảo cách dịch: “Tôi sẽ cho anh em biết ai là người thẳng hơn thế gian”
Câu này không chỉ một người cụ thể nào nhưng nói chung toàn bộ những người tin điều này. Tham khảo cách dịch: “Người nào tin rằng Chúa Giê-xu là Con Đức Chúa Trời”
Chỉ mọi vật trong thế gian chống nghịch cùng Đức Chúa Trời.
Đây là danh hiệu quan trọng của Chúa Giê-xu, mô tả mối liên hệ của Ngài với Đức Chúa Trời
“Đức Chúa Giê-xu Cơ Đốc là Đấng đã đến bởi nước và huyết”. Ở đây “nước” nói đến phép báp têm của Chúa Giê-xu. “Huyết” nói đến sự chết của Chúa Giê-xu trên thập tự giá. Cách dịch khác: “Đức Chúa Trời đã tỏ ra rằng Đức Chúa Giê-xu Cơ Đốc là Con Ngài qua phép báp têm của Chúa Giê-xu và sự chết của Ngài trên thập tự giá”
Nước chỉ đến sự báp têm của Chúa Giê-xu và huyết nói đến sự chết của Ngài trên thập tự giá. Cách dịch khác: “Đức Chúa Trời không chỉ tỏ cho chúng ta thấy Chúa Giê-xu là Con Ngài qua phép báp têm mà Chúa Giê-xu đã chịu, nhưng qua phép báp têm và cả sự chết của Ngài trên thập tự giá nữa”.
Chúng ta có thể nói rõ phần thông tin ngầm hiểu ở đây là chúng ta nên tin vào những lời của Đức Chúa Trời. Cách dịch khác: “Nếu chúng ta tin những gì người ta nói, thì chúng ta nên tin theo những gì Đức Chúa Trời phán vì Ngài luôn luôn nói sự thật”
Đây là danh hiệu quan trọng của Chúa Giê-xu, Con Đức Chúa Trời
Tham khảo cách dịch: “Ai tin nơi Chúa Giê-xu thì biết rõ rằng Ngài là Con Đức Chúa Trời”
“gọi Đức Chúa Trời là kẻ nói dối”
“vì người không tin Đức Chúa Trời đã nói ra sự thật về Con Ngài”
“Đây là điều Đức Chúa Trời phán” (Tham khảo bản dịch UDB)
“Chúng ta sẽ sống đời đời nếu hiệp với Con Ngài”, hay “Chúng ta sẽ sống đời đời nếu chúng ta hiệp một với Con Ngài”.
Đây là danh hiệu quan trọng của Chúa Giê-xu, Con Đức Chúa Trời
Cụm từ nầy có thể được dịch là “Người nào tin theo Chúa Giê-xu đều có sự sống đời đời”.
“bức thư nầy”
Từ “danh” nói đến Con của Đức Chúa Trời. Cách dịch khác: “cho anh em là người tin cậy nơi Con Đức Chúa Trời”
Đây là danh hiệu quan trọng của Chúa Giê-xu, mô tả mối liên hệ của Ngài với Đức Chúa Trời
“Và vì chúng ta tin cậy nơi Con của Đức Chúa Trời nên chúng ta có thể dám chắc về điều nầy”
“nếu chúng ta cầu xin những việc mà Con Đức Chúa Trời mong muốn”
“chúng ta biết rằng mình sẽ nhận lãnh những điều đã cầu xin nơi Ngài”
“anh em tín hữu”
“sự sống” ở đây nói đến sự sống đời đời.
"Thế gian” là cách nói mà một số tác giả Kinh Thánh dùng để chỉ đến những người chống nghịch cùng Đức Chúa Trời ở trong thế gian, và hệ thống thế gian này bị ảnh hưởng bởi quyền lực tàn phá của tội tội theo mọi cách.
“kẻ ác” là một hoán dụ nói đến Sa-tan.