To view a copy of the CC BY-SA 4.0 license visit
http://creativecommons.org/licenses/by-sa/4.0/
1 Sử ký
11A-đam sanh Sết, Sết sanh Ê-nót,2Kê-nan, Kê-nan sanh Ma-ha-la-le, Ma-ha-la-le sanh Giê-rệt,3Giê-rệt sanh Hê-nóc, Hê-nóc sanh Mê-tu-sê-la, Mê-tu-sê-la sanh Lê-méc,4Lê-méc sanh Nô-ê, Nô-ê sanh Sem, Cham, và Gia-phết.5Các con trai của Gia-phết là Gô-me, Ma-gốc, Ma-đai, Gia-van, Tu-banh, Mê-siếc, và Ti-ra.
6Các con trai của Gô-me là Ách-kê-na, Ri-phát, và Tô-ga-ma.
7Các con trai của Gia-van là Ê-li-sa, Ta-rê-si, Kít-tim, và Đô-đa-nim. 8Các con trai của Cham là Cúc, Mích-ra-im, Phút, và Ca-na-an.
9Các con trai của Cúc là Sê-ba, Ha-vi-la, Sáp-ta, Ra-a-ma, và Sáp-tê-ca. Các con trai của Ra-a-ma là Sê-ba và Đê-đan.
10Cúc trở thành cha của Nim-rốt, là người chinh phục đầu tiên trên đất. 11Mích-ra-im trở thành tổ phụ của dân Lu-đim, A-na-mít, Lê-ha-bít, Náp-tu-hít,
12Phát-ru-sít, Cách-lu-hít (từ họ mà ra dân Phi-li-tin), và Cáp-tô-rít.13Ca-na-an trở thành cha của Si-đôn, là con đầu lòng của ông, và Hếch.
14Ông cũng là tổ phụ của dân Giê-bu-sít, A-mô-rít, Ghi-rê-ga-sít,15Hê-vít, A-rê-kít, Si-nít,16A-va-đít, Xê-ma-rít, và Ha-ma-tít.17Các con trai của Sem là Ê-lam, A-su-rơ, A-bác-sát, Lút, A-ram, Út-xơ, Hu-lơ, Ghê-te, và Mê-siếc.
18A-bác-sát trở thành cha của Sê-lách, và Sê-lách trở thành cha của Hê-be.
19Hê-be có hai con trai. Tên của một người là Bê-léc, vì trong đời người đất bị chia ra. Tên em người là Giốc-tan. 20Giốc-tan trở thành cha của A-mô-đát, Sê-lép, Ha-sa-ma-vết, Giê-rách,
21Ha-đô-ram, U-xa, Điếc-la,22Ê-banh, A-bi-ma-ên, Sê-ba,23Ô-phia, Ha-vi-la, và Giô-báp. Hết thảy những người nầy là đều là con trai của Giốc-tan.24Sem sanh A-bác-sát, A-bác-sát sanh
25Sê-lách, Sê-lách hay Hê-be, Hê-be sanh Bê-léc, Bê-léc sanh Rê-hu,26Rê-hu sanh Sê-rúc, Sê-rúc sanh Na-cô, Na-cô sanh Tha-rê,27Tha-rê sanh Áp-ram, cũng là Áp-ra-ham.28Các con trai của Áp-ra-ham là Y-sác và Ích-ma-ên.
29Đây là các con trai của họ: con đầu lòng của Ích-ma-ên là Nê-ba-giốt, kế đến là Kê-đa, Át-bi-ên, Mi-bô-sam,
30Mích-ma, Đu-ma, Ma-sa, Ha-đát, Thê-ma,31Giê-tu, Na-phích, và Kết-ma. Đây là các con trai của Ích-ma-ên.32Các con trai của Kê-tu-ra, vợ nhỏ của Áp-ra-ham là Xim-ram, Giốc-san, Mê-đan, Ma-đi-an, Dích-bác, và Su-ách. Các con trai của Giốc-san là Sê-ba và Đê-đan.
33Các con trai của Ma-đi-an là Ê-pha, Ê-phe, Ha-nóc, A-bi-đa, và En-đa. Hết thảy những người nầy là dòng dõi của Kê-tu-ra. 34Áp-ra-ham trở thành cha của Y-sác. Các con trai của Y-sác là Ê-sau và Y-sơ-ra-ên.
35Các con trai của Ê-sau là Ê-li-pha, Rê-u-ên, Giê-úc, Gia-lam, và Cô-ra.
36Các con trai của Ê-li-pha là Thê-man, Ô-ma, Xê-phi, Ga-tham, Kê-na, Thim-na, và A-ma-léc.
37Các con trai của Rê-u-ên là Na-hát, Xê-rách, Sam-ma, và Mích-xa. 38Các con trai của Sê-i-rơ là Lô-than, Sô-banh, Xi-bê-ôn, A-na, Đi-sôn, Ét-xe, và Đi-san.
39Các con trai của Lô-than là Hô-ri và Hô-man, và Thim-na là em gái của Lô-than.
40Các con trai của Sô-banh là A-li-an, Ma-na-hát, Ê-banh, Sê-phi, và Ô-nam. Các con trai của Xi-bê-ôn là Ai-gia và A-na. 41Con trai của A-na là Đi-sôn. Các con trai của Đi-sôn là Ham-ran, Ếch-ban, Dít-ran, và Kê-ran.
42Các con trai của Ét-xe là Binh-han, Xa-van, và Gia-a-can. Các con trai của Đi-san là Út-xơ và A-ran. 43Đây là các vua đã cai trị trong xứ Ê-đôm trước khi có vua cai trị trên Y-sơ-ra-ên: Bê-la con trai Bê-ô, và tên của thành phố của ông là Đin-ha-ba.44Khi Bê-la qua đời, thì Giô-báp con trai của Xê-rách xứ Bốt-ra, cai trị trong chỗ của người.
45Khi Giô-báp qua đời, Hu-sam thuộc về đất của dân Thê-man cai trị trong chỗ của người. 46Khi Hu-sam qua đời, Ha-đát con trai của Bê-đát, là người đánh bại dân Ma-đi-an ở trong xứ Mô-áp, cai trị trong chỗ của người. Tên thành của người là A-vít.
47Khi Ha-đát qua đời, thì Sam-la người Ma-rê-ca cai trị trong chỗ của người.
48Khi Sam-la qua đời, thì Sau-lơ xứ Rê-hô-bốt, sống gần sông Ơ-phơ-rát, cai trị trong chỗ của người. 49Khi Sau-lơ qua đời, thì Ba-anh Ha-nan con trai của Ạc-bồ cai trị trong chỗ của người.
50Khi Ba-anh-Ha-nan con trai Ạc-bồ qua đời, thì Ha-đa cai trị trong chỗ của người. Tên thành của người là Pha-i. Tên vợ của người là Mê-hê-ta-bê-ên, con gái của Mát-rết, cháu ngoại của Mê-xa-háp 51Ha-đát qua đời. Các trưởng tộc trong Ê-đôm là Thim-na, A-li-a, Giê-tết,52Trưởng tộc Ô-hô-li-ba-ma, trưởng tộc Ê-la, trưởng tộc Phi-nôn,53Trưởng tộc Kê-na, trưởng tộc Thê-man, trưởng tộc Mép-xa,54Trưởng tộc Mác-đi-ên, và trưởng tộc Y-ram. Đây là các trưởng tộc trong xứ Ê-đôm. 21Đây là các con trai của Y-sơ-ra-ên: Ru-bên, Si-mê-ôn, Lê-vi, Giu-đa, Y-sa-ca, Sa-bu-lôn,2Đan, Giô-sép, Bên-gia-min, Nép-ta-li, Gát, và A-se.3Các con trai của Giu-đa là Ê-rơ, Ô-nan, và Sê-la, do con gái của Su-a, người Ca-na-an. Ê-rơ, con đầu lòng của Giu-đa, sống gian ác trước mặt Đức Giê-hô-va, và Đức Giê-hô-va giết người đi.
4Tha-ma, con dâu của ông, đã sanh cho ông Phê-rết và Xê-rách. Giu-đa có năm người con trai.5Các con trai của Phê-rết là Hết-rôn và Ha-mun.
6Các con trai của Xê-rách là Xim-ri, Ê-than, Hê-man, Canh-côn, và Đa-ra, năm người cả thảy.
7Con trai của Cạt-mi là A-ca, người nầy đem lại sự rối loạn giáng trên Y-sơ-ra-ên, khi ông lấy cắp các thứ dành cho Đức Chúa Trời.
8Con trai của Ê-than là A-xa-ria. 9Các con trai của Hết-rôn là Giê-rác-mê-en, Ram, và Kê-lu-bai.
10Ram trở thành cha của A-mi-na-đáp, và A-mi-na-đáp trở thành cha của Na-ha-sôn, là lãnh đạo giữa vòng dòng dõi của Giu-đa.
11Na-ha-sôn trở thành cha của Sanh-ma, và Sanh-ma trở thành cha của Bô-ô.
12Bô-ô trở thành cha của Ô-bết, và Ô-bết trở thành cha của Gie-sê.13Gie-sê trở thành cha của trưởng nam mình là Ê-li-áp, A-bi-na-đáp con thứ hai, Si-mê-a thứ ba,
14Na-tha-na-ên thứ tư, Ra-đai thứ năm,15Ô-xem thứ sáu, và Đa-vít thứ bảy.16Các chị em của họ là Xê-ru-gia và A-bi-ga-in. Các con trai của Xê-ru-gia là A-bi-sai, Giô-áp, và A-sa-ên, ba người cả thảy.
17A-bi-ga-in sanh A-ma-sa, cha người là Giê-the người Ích-ma-ên.18Ca-lép con trai của Hết-rôn trở thành cha của mấy đứa con do A-xu-ba vợ người, và Giê-ri-ốt. Các con trai của ông là Giê-se, Sô-báp, và Ạt-đôn.
19A-xu-ba qua đời, và Ca-lép cưới Ê-phơ-rát, là người sanh cho ông Hu-rơ.20Hu-rơ trở thành cha của U-ri, và U-ri trở thành cha của Bết-sa-lê-ên.21Sau đó, Hết-rôn, khi ông được sáu mươi tuổi, cưới con gái của Ma-ki, cha của Ga-la-át. Nàng sanh cho ông Sê-gúp.
22Sê-gúp trở thành cha của Giai-rơ, người nầy cai quản hai mươi ba thành trong xứ Ga-la-át.23Dân Ghê-su-rơ và A-ram chiếm lấy các thành Giai-rơ và Kê-nát, cũng như sáu mươi làng xung quanh. Hết thảy cư dân nầy là dòng dõi của Ma-ki, cha của Ga-la-át.
24Sau cái chết của Hết-rôn, Ca-lép ngủ với Ép-ra-tha, vợ của Hết-rôn cha mình. Người sanh cho ông A-su-rơ, cha của Thê-cô-a 25Các con trai của Giê-rác-mê-ên, trưởng nam của Hết-rôn, là Ram con đầu lòng, Bu-na, Ô-ren, Ô-xem, và A-hi-gia.26Giê-rác-mê-ên có vợ khác, tên người là A-ta-ra. Nàng là mẹ của Ô-nam.27Các con trai của Ram, con trưởng nam của Giê-rác-mê-ên, là Ma-ách, Gia-min, và Ê-ke. Các con trai của Ô-nam là Sa-mai và Gia-đa.
28Các con trai của Sa-mai là Na-đáp và A-bi-su. 29Tên của vợ A-bi-su là A-bi-hai; nàng sanh cho ông Ác-ban và Mô-lít.
30Các con trai của Na-đáp là Sê-le và A-ba-im, nhưng Sê-le chết không con. Con trai của A-ba-im là Di-si.
31Con trai của Di-si là Sê-san.32Con trai của Sê-san là Ác-lai. Các con trai của Gia-đa, em của Sa-mai, là Giê-the và Giô-na-than. Giê-the chết không con.33Các con trai của Giô-na-than là Phê-lết và Xa-xa. Đây là dòng dõi của Giê-rác-mê-ên. 34Giờ đây Sê-san không có con trai, chỉ có con gái. Sê-san có một tôi tớ, một người Ai-cập, tên người là Gia-ra.
35Sê-san gả con gái mình là Gia-ha cho tôi tớ mình làm vợ. Nàng sanh Át-tai cho người.36Át-tai trở thành cha của Na-than, và Na-than trở thành cha của Xa-bát.
37Xa-bát trở thành cha của Ép-la, và Ép-la trở thành cha của Ô-bết.
38Ô-bết trở thành cha của Giê-hu, và Giê-hu trở thành cha của A-xa-ria. 39A-xa-ria trở thành cha của Hê-lết, và Hê-lết trở thành cha của Ê-la-xa.
40Ê-la-xa trở thành cha của Sít-mai, và Sít-mai trở thành cha của Sa-lum.
41Sa-lum trở thành cha của Giê-ca-mia, và Giê-ca-mia trở thành cha của Ê-li-sa-ma. 42Các con trai của Ca-lép, em của Giê-rác-mê-ên, là Mê-sa con đầu lòng, người là cha của Xíp. Con thứ hai của người là Ma-rê-sa, là cha của Hếp-rôn.
43Các con trai của Hếp-rôn là Cô-ra, Táp-bua, Rê-kem, và Sê-ma.44Sê-ma trở thành cha của Ra-cham, cha của Giô-kê-am. Rê-kem trở thành cha của Sa-mai.45Con trai của Sa-mai là Ma-ôn, và Ma-ôn là cha của Bết-sua.
46Ê-pha, là hầu của Ca-lép, sanh Ha-ran, Một-sa, và Ga-xe. Ha-ran trở thành cha của Ga-xe.
47Các con trai của Gia-đai là Rê-ghem, Giô-tham, Ghê-san, Phê-lết, Ê-pha, và Sa-áp. 48Ma-a-ca, hầu của Ca-lép, sanh Sê-be và Ti-ra-na.
49Nàng cũng sanh Sa-áp cha của Mát-ma-na, Sê-va cha của Mác-bê-na và cha của Ghi-bê-a. Con gái Ca-lép là Ạc-sa. 50Đây là dòng dõi của Ca-lép. Đây là dòng dõi của Hu-rơ, do Ép-ra-ta sanh ra: Sô-banh cha của Ki-ri-át Giê-a-rim,
51Sanh-ma cha của Bết-lê-hem, và Ha-rép cha của Bết-ga-đe.52Sô-banh cha của Ki-ri-át Giê-a-rim có nhiều dòng dõi: Ha-rô-ê, phân nửa dân Mê-nu-hốt,
53và các họ của Ki-ri-át-Giê-a-rim — Dít-rít, Phu-tít, Su-ma-tít, và Mích-ra-ít. Từ những người nầy mới có người Xô-ra-tít và Ếch-tao-ít.54Dòng họ của Sanh-ma như sau đây: Bết-lê-hem, dân Nê-tô-pha-tít, Ạt-rốt Bết-Giô-áp, và phân nửa dân Ma-na-ha-tít — dân Xô-rít,
55dòng họ của các thầy thông giáo sống tại Gia-bết: dân Ti-ra-tít, Si-ma-tít, và Su-ca-tít. Đây là dân Kê-nít ra từ Ha-mát, tổ phụ của nhà Rê-cáp. 31Đây là các con trai của Đa-vít sanh cho ông tại Hếp-rôn: Trưởng nam là Am-nôn, bởi A-hi-nô-am từ Gít-rê-ên; thứ hai, Đa-ni-ên, bởi A-bi-ga-in từ Cạt-mên;2thứ ba là Áp-sa-lôm, mẹ người là Ma-a-ca, con gái của vua Thanh-mai xứ Ghê-su-rơ. Thứ tư là A-đô-ni-gia con trai của Ha-ghít;3thứ năm, Sê-pha-ti-a bởi A-bi-tanh; thứ sáu, Dít-rê-am bởi Éc-la vợ người.4Sáu người sanh cho Đa-vít ở Hếp-rôn, ông trị vì ở đó bảy năm sáu tháng. Rồi ông trị vì ba mươi ba năm tại thành Giê-ru-sa-lem.
5Bốn người con trai nầy, bởi Bát-sê-ba con gái của A-mi-ên, sanh cho ông tại thành Giê-ru-sa-lem: Si-mê-a, Sô-báp, Na-than, và Sa-lô-môn.6Chín người con khác của Đa-vít là Gi-ba, Ê-li-sa-ma, Ê-li-phê-lết,
7Nô-ga, Nê-phết, Gia-phia,8Ê-li-sa-ma, Ê-li-gia-đa, và Ê-li-phê-lết.9Đây là các con trai của Đa-vít, chưa kể các con trai do các cung phi sanh ra. Ta-ma là em gái của họ. 10Con trai của Sa-lô-môn là Rô-bô-am. Con trai của Rô-bô-am là A-bi-gia. Con trai của A-bi-gia là A-sa. Con trai của A-sa là Giô-sa-phát.
11Con trai của Giô-sa-phát là Giô-ram. Con trai của Giô-ram là A-cha-xia. Con trai của A-cha-xia là Giô-ách.
12Con trai của Giô-ách là A-ma-xia. Con trai của A-ma-xia là A-xa-ria. Con trai của A-xa-ria là Giô-tham. 13Con trai của Giô-tham là A-cha. Con trai A-cha là Ê-chê-xia. Con trai Ê-chê-xia là Ma-na-se.
14Con trai Ma-na-se là A-môn. Con trai của A-môn là Giô-si-a. 15Con trai Giô-si-a là Giô-ha-nan trưởng nam, con thứ hai là Giê-hô-gia-kim, con thứ ba là Sê-đê-kia, và con thứ tư là Sa-lum.
16Con trai của Giê-hô-gia-kim là Giê-chô-nia. Vua sau cùng là Sê-đê-kia. 17Các con trai của Giê-chô-nia, làm phu tù, là Sa-la-thi-ên,
18Manh-ki-ram, Phê-đa-gia, Sê-na-xa, Giê-ca-mia, Hô-sa-ma, và Nê-đa-bia.19Các con trai của Phê-đa-gia là Xô-rô-ba-bên và Si-mê-i. Các con trai của Xô-rô-ba-bên là Mê-su-lam và Ha-na-ni; Sê-lô-mít là chị em của họ.
20Năm người con trai của ông là Ha-su-ba, Ô-hên, Bê-rê-kia, Ha-sa-đia, và Du-sáp-hê-rết.21Các con trai của Ha-na-ni là Phê-la-tia và Giê-sai. Con trai của ông là Rê-pha-gia, dòng dõi người là Ác-nan, Ô-ba-đia, và Sê-ca-nia. 22Con trai của Sê-ca-nia là Sê-ma-gia. Các con trai của Sê-ma-gia là Hát-túc, Di-ganh, Ba-ria, Nê-a-ria, và Sa-phát.
23Ba con trai của Nê-a-ria là Ê-li-ô-ê-nai, Ê-xê-chia và A-ri-kham.
24Bảy con trai của Ê-li-ô-ê-nai là Hô-đa-via, Ê-li-a-síp, Phê-la-gia, A-cúp, Giô-ha-nan, Đê-la-gia, và A-na-ni. 41Dòng dõi của Giu-đa là Phê-rết, Hết-rôn, Cạt-mi, Hu-rơ, và Sô-banh.2Sô-banh là cha của Rê-a-gia. Rê-a-gia là cha của Gia-hát. Gia-hát là cha của A-hu-mai và La-hát. Đây là gốc gác của dòng họ Xô-ra-tít. 3Đây là gốc gác của dòng họ ở thành Ê-tam: Gít-rê-ên, Dít-ma, và Di-ba. Tên của em gái của họ là Ha-sê-lê-bô-ni.
4Phê-nu-ên là gốc của dòng họ ở thành Ghê-đô. Ê-xe là gốc của dòng họ ở Hu-sa. Đây là dòng dõi của Hu-rơ, trưởng nam của Ép-ra-ta và là gốc của Bết-lê-hem.5A-su-rơ cha của Thê-co-a có hai vợ: Hê-lê-a và Na-a-ra.
6Na-a-ra sanh A-hu-xam, Hê-phe, Thê-mê-ni, và A-hách-ta-ri. Đây là các con trai của Na-a-ra.
7Các con trai của Hê-lê-a là Xê-rết, Díp-ha, Ét-nan,
8Và Cốt, ông trở thành cha của A-núp và Xô-bê-ha, và dòng họ ra từ A-ha-hên con trai của Ha-rum.9Gia-bê được tôn trọng hơn các anh em mình. Mẹ ông gọi ông là Gia-bê. Bà nói: “Vì ta sanh nó trong sự đau đớn.”10Gia-bê kêu cầu với Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên như sau: “Quả thực, nếu như Ngài ban phước cho tôi, mở rộng lãnh thổ tôi. Nguyện tay Ngài ở cùng tôi; giữ tôi khỏi sự dữ hầu cho tôi không phải gánh chịu đau khổ!” Và Đức Chúa Trời nhậm lời cầu nguyện của ông.11Kê-lúp, anh em của Su-ha trở thành cha của Mê-hia, người là cha của Éc-tôn.
12Éc-tôn trở thành cha của Bết-ra-pha, Pha-sê-a, và Tê-hi-na, người khởi sự dựng thành Na-hách. Đây là những người đã sống tại Rê-ca.13Các con trai của Kê-na là Ố-ni-ên và Sê-ra-gia. Các con trai của Ốt-ni-ên là Ha-thát và Mê-ô-nô-thai.
14Mê-ô-nô-thai trở thành cha của Óp-ra, và Sê-ra-gia trở thành cha của Giô-áp, gốc của dân Giê Ha-ra-sim, dân sự của ông đều là thợ mộc.15Các con trai của Ca-lép cháu của Giê-phu-nê là Y-ru, Ê-la và Na-am. Con trai của Ê-la là Kê-na.16Các con trai của Gia-ha-lê-le là Xíp, Xi-pha, Thi-ria, và A-sa-rên. 17Các con trai của E-xơ-ra là Giê-the, Mê-rết, Ê-phe, và Gia-lôn. Vợ người Ai-cập của Mê-rết sanh Mi-ri-am, Sa-mai, và Dít-bác, người trở thành cha của Éc-tê-mô-a.
18Đây là các con trai của Bi-thi-a, con gái của Pha-ra-ôn, là người mà Mê-rết đã cưới. Vợ người Do-thái của Mê-rết sanh Giê-rệt, người trở thành cha của Ghê-đô; Hê-be, người trở thành cha của Sô-cô; và Giê-cu-ti-ên, người trở thành cha của Xa-nô-a.19Trong hai con trai của vợ Hô-đia, em gái của Na-ham, người trở thành cha của Kê-hi-la người Gạt-mít. Và người kia là Ếch-tê-mô-a người Ma-ca-thít.
20Các con trai của Si-môn là Am-nôn, Ri-na, Bên-ha-nan, và Ti-lôn. Các con trai của Di-si là Xô-hết và Bên Xô-hết. 21Các dòng dõi của Sê-la, một con trai của Giu-đa, là Ê-rơ cha của Lê-ca, Lê-a-đa cha của Ma-rê-sa và là gốc của dòng họ những thợ dệt vải gai mịn ở Bết-Ách-bê-a,
22Giô-kim, những người ở Cô-xê-ba, Giô-ách và Sa-ráp, họ có đất đai ở xứ Mô-áp, nhưng họ đã về lại Bết-lê-hem. (Thông tin nầy lấy từ các bản tường trình xưa).23Một số trong những người nầy là thợ gốm, họ sống ở Nê-ta-im và Ghê-đê-ra và làm việc cho nhà vua.24Dòng dõi của Si-mê-ôn là Nê-mu-ên, Gia-min, Gia-ríp, Xêra, và Sau-lơ.
25Sa-lum là con trai của Sau-lơ, Míp-sam là con trai của Sa-lum, và Mích-ma là con trai của Míp-sam.
26Dòng dõi của Mích-ma là Ham-mu-ên con trai ông, Xa-cu cháu nội ông, và Si-mê-i chắt của ông. 27Si-mê-i có mười sáu con trai và sáu con gái. Các anh em người không có nhiều con, vì vậy dòng họ của họ không tăng nhiều theo số lượng như dân Giu-đa đã có.28Họ sống ở Bê-e-sê-ba, Mô-la-đa, và tại Ha-xa-su-a.29Họ cũng sống ở Bi-la, Ê-xem, Tô-lát.30Bê-tu-ên, Họt-ma, Xiết-lác,31Bết-Ma-ca-bốt, Hát-sa-Su-sim, Bết-Bi-rê, và Sa-a-ra-im. Đây là các thành của họ cho đến sự trị vì của Đa-vít.32Năm làng của họ là Ê-tam, A-in, Rim-môn, Tô-ken, và A-san,33cùng với các làng mạc ở vùng sâu như Ba-anh. Đây là nơi định cư của họ, và họ giữ các bảng gia phổ của họ.34Cấp lãnh đạo họ hàng của họ là Mê-sô-báp, Giam-léc, Giô-sa con trai của A-ma-xia,35Giô-ên, Giê-hu con trai của Giô-xơ-bia cháu Sê-ra-gia chắt của A-si-ên,36Ê-li-ô-ê-nai, Gia-cô-ba, Giê-sô-hai-gia, A-sa-gia, A-đi-ên, Giê-si-mi-ên, Bê-na-gia,37Và Xi-xa con trai Si-phi cháu của A-lôn, chắt của Giê-đa-gia, chít của Sim-ri con trai của Sê-ma-gia.38Những người nầy được nhắc đích danh đều là lãnh đạo dòng tộc của họ, và dòng tộc họ tăng trưởng rất nhiều.39Họ đến gần Ghê-đô, ở phía Đông vùng đồng bằng, để tìm đồng cỏ cho bầy gia súc của họ.40Họ tìm được đồng cỏ dư dật và tươi tốt. Đất thì rộng, yên tĩnh và bình an. Dòng dõi Cham trước đó đã sinh sống ở đây.41Những người được nêu đích danh ở đây trong thời vua Ê-xê-chia xứ Giu-đa, và đã tấn công khu định cư của dòng dõi Cham và dân Ma-ô-nít, họ cũng có mặt ở đó. Họ tiêu diệt chúng hoàn toàn rồi sống ở đó vì họ đã tìm được đồng cỏ cho các bầy gia súc của họ.42Năm trăm người từ chi phái Si-mê-ôn đi đến Núi Sê-i-rơ, với các cấp lãnh đạo của họ là Phê-la-tia, Nê-a-ria, Rê-pha-gia, và U-xi-ên, các con trai của Di-si.43Họ đánh bại phần dân A-ma-léc còn sót lại, và đã sống ở đó cho đến ngày nay. 51Các con trai của Ru-bên trưởng nam Y-sơ-ra-ên — bấy giờ Ru-bên là trưởng nam của Y-sơ-ra-ên, song quyền trưởng nam của Ru-bên được ban cho các con trai của Giô-sép, con của Y-sơ-ra-ên vì Ru-bên làm ô uế giường cha của mình. Vì vậy, ông không được kể là con lớn nhất.2Giu-đa là người con mạnh nhất trong các anh em người, và cấp lãnh đạo sẽ ra từ người. Song quyền trưởng nam thì thuộc về Giô-sép.3Các con trai của Ru-bên, con đầu lòng của Y-sơ-ra-ên là Hê-nóc, Pha-lu, Hết-rôn, và Cạt-mi.4Dòng dõi của Giô-ên là đây: con trai của Giô-ên là Sê-ma-gia. Con trai Sê-ma-gia là Gót. Con trai của Gót là Si-mê-i.
5Con trai của Si-mê-i là Mi-ca. Con trai của Mi-ca là Rê-a-gia. Con trai của Rê-a-gia là Ba-anh.6Con trai của Ba-anh là Bê-ê-ra, là người bị Tiếc-lát -Phin-nê-xe vua xứ A-si-ri bắt đi làm phu tù. Bê-ê-ra là lãnh đạo trong chi phái của Ru-bên.7Họ hàng của Bê-ê-ra theo dòng tộc của họ như sau đây, được liệt kê ra trong bản gia phổ: Giê-i-ên con cả, Xa-cha-ri,
8Bê-la con của A-xa cháu của Sê-ma chắt của Giô-ên. Họ sống tại A-rô-e, xa đến Nê-bô và Ba-anh-Mê-ôn,9và phía Đông vào lối đồng vắng dài đến Sông Ơ-phơ-rát. Sở dĩ như vậy là vì họ có nhiều gia súc trong xứ Ga-la-át.10Trong đời vua Sau-lơ, chi phái của Ru-bên đã tấn công dân Ha-ga-rít và đánh bại họ. Họ sống trong lều trại của dân Ha-ga-rít xuyên suốt vùng đất phía Đông Ga-la-át. 11Các thành viên của chi phái Gát sống ở gần họ, trong xứ Ba-san đến tận Sanh-ca.
12Các cấp lãnh đạo của họ là Giô-ên, là trưởng tộc, và Sa-pham là trưởng tộc khác, và Gia-nai và Sa-phát ở Ba-san.13Những người thân tộc họ, bởi gia đình của cha họ, là Mi-ca-ên, Mê-su-lam, Sê-ba, Giô-rai, Gia-can, Xia, và Ê-be — cả thảy là bảy người. 14Những người nầy được nêu đích danh đều là dòng dõi của A-bi-hai, và A-bi-hai là con trai của Hu-ri. Hu-ri là con trai của Gia-rô-a. Gia-rô-a là con trai của Ga-la-át. Ga-la-át là con trai của Mi-ca-ên. Mi-ca-ên là con trai của Giê-si-sai. Giê-si-sai là con trai của Giác-đô. Giác-đô là con trai của Bu-xơ.
15A-hi con trai Áp-đi-ên, Áp-đi-ên là con trai của Gu-ni, là trưởng tộc gia đình của cha họ. 16Họ sống ở Ga-la-át, trong Ba-san, trong các làng mạc của nó, và trong các đồng cỏ Sa-rôn cho đến tận các đường biên giới của nó.
17Hết thảy những người nầy được liệt kê theo bản gia phổ vào thời của Vua Giô-tham xứ Giu-đa và thời vua Giê-rô-bô-am xứ Y-sơ-ra-ên.18Chi phái Ru-bên, chi phái Gát, và phân nửa chi phái Ma-na-se có bốn mươi bốn ngàn chiến binh thuần thục cho chiến trận, họ mang khiên và gươm, và giương cung.19Họ đã tấn công dân Ha-ga-rít, Giê-tua, Na-phi, và Nô-đáp.20Họ nhận được sự vùa giúp thiêng liêng nghịch lại chúng. Theo phương thức nầy, dân Ha-ga-rít cùng hết thảy những ai ở với họ đều bị đánh bại. Sở dĩ như vậy là vì dân Y-sơ-ra-ên đã kêu cầu với Đức Chúa Trời trong chiến trận, và Ngài nhậm lời họ, vì họ đặt lòng tin cậy nơi Ngài.21Họ chiếm lấy những bầy súc vật, bao gồm năm mươi ngàn lạc đà, 250. 000 chiên, hai ngàn con lừa, và 100. 000 người.22Vì Đức Chúa Trời đã đánh trận thay cho họ, họ giết nhiều người trong số kẻ thù. Họ sống trong đất của họ cho đến kỳ lưu đày.23Phân nửa chi phái Ma-na-se đã sống trong xứ Ba-san đến tận Ba-anh-Hẹt-môn và Sê-nia (nghĩa là, Núi Hẹt-môn).24Đây là các cấp lãnh đạo của các gia đình họ: Ê-phe, Di-si, Ê-li-ên, Ách-ri-ên, Giê-rê-mi, Hô-đa-via, và Giắc-đi-ên. Họ là những người mạnh mẽ và can đảm, những người nổi tiếng, các cấp lãnh đạo của gia đình họ.25Nhưng họ bất trung đối với Đức Chúa Trời của các tổ phụ họ. Thay vì thế, họ đã thờ lạy các thần của những dân trong xứ, chúng đã bị Đức Chúa Trời huỷ diệt ở trước mặt họ.26Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên khiến Phun, vua của A-si-ri lên (cũng gọi là Tiếc-lác Phin-nê-se, vua của A-si-ri). Ông ta đưa đi lưu đày chi phái Ru-bên, chi phái Gát, và phân nửa chi phái Ma-na-se. Ông ta đưa họ đến Ha-la, Cha-bo, Ha-ra, và đến sông Gô-xan, họ ở đó cho đến ngày nay. 61Các con trai của Lê-vi là Ghẹt-sôn, Kê-hát, và Mê-ra-ri.2Các con trai của Kê-hát là Am-ram, Két-sê-ha, Hếp-rôn, và U-xi-ên.
3Con cái của Am-ram là A-rôn, Môi-se, và Mi-ri-am. Các con trai của A-rôn là Na-đáp, A-bi-hu, Ê-lê-a-sa, và Y-tha-ma. 4Ê-lê-a-sa trở thành cha của Phi-nê-a, Phi-nê-a trở thành cha của A-bi-sua.
5A-bi-sua trở thành cha của Bu-ki, và Bu-ki trở thành cha của U-xi.
6U-xi trở thành cha của Xê-ra-hi-gia, và Xê-ra-hi-gia trở thành cha của Mê-ra-giốt. 7Mê-ra-giốt trở thành cha của A-ma-ria, và A-ma-ria trở thành cha của A-hi-túp.
8A-hi-túp trở thành cha của Xa-đốc, và Xa-đốc trở thành cha của A-hi-ma-ách.
9A-hi-ma-ách trở thành cha của A-xa-ria, và A-xa-ria trở thành cha của Giô-ha-nan. 10Giô-ha-nan trở thành cha của A-xa-ria, là người phục vụ trong đền thờ do Sa-lô-môn xây dựng tại thành Giê-ru-sa-lem.
11A-xa-ria trở thành cha của A-ma-ria, và A-ma-ria trở thành cha của A-hi-túp.
12A-hi-túp trở thành cha của Xa-đốc, và Xa-đốc trở thành cha của Sa-lum. 13Sa-lum trở thành cha của Hinh-kia, và Hinh-kia trở thành cha của A-xa-ria.
14A-xa-ria trở thành cha của Sê-ra-gia, và Sê-ra-gia trở thành cha của Giê-hô-xa-đác.
15Giê-hô-xa-đác bị làm phu tù khi Đức Giê-hô-va đày Giu-đa và Giê-ru-sa-lem bởi tay của Nê-bu-cát-nết-sa.16Các con trai của Lê-vi là Ghẹt-sôn, Kê-hát, và Mê-ra-ri.
17Các con trai của Ghẹt-sôn là Líp-ni và Si-mê-i.
18Các con trai của Kê-hát là Am-ram, Két-sê-ha, Hếp-rôn, và U-xi-ên. 19Các con trai của Mê-ra-ri là Mách-li và Mu-si. Mấy người nầy trở nên họ hàng của người Lê-vi bởi các gia đình của tổ phụ họ. Dòng dõi của
20Ghẹt-sôn khởi sự với con trai ông là Líp-ni. Con trai của Líp-ni là Gia-hát. Con trai ông là Xim-ma.21Con trai ông là Giô-a. Con trai ông là Y-đô. Con trai ông là Xê-ra. Con trai ông là Giê-a-trai. 22Dòng dõi của Kê-hát khởi sự với con trai ông là A-mi-na-đáp. Con trai ông là Cô-rê. Con trai ông là Át-si. Con trai ông là Ên-ca-na.
23Con trai ông là Ê-ni-a-sáp. Con trai ông là Át-si.
24Con trai ông là Ta-hát. Con trai ông là U-ri-ên. Con trai ông là U-xi-gia. Con trai ông là Sau-lơ. 25Các con trai của Ên-ca-na là A-ma-sai, A-hi-mốt, và Ên-ca-na.
26Con trai của Ên-ca-na là Xô-phai. Con trai ông là Na-hát.
27Con trai ông là Ê-li-áp. Con trai ông là Giê-rô-ham. Con trai ông là Ên-ca-na. 28Các con trai của Sa-mu-ên là con đầu lòng, Giô-ên, và A-bi-gia, con thứ.
29Con trai của Mê-ra-ri là Mách-li. Con trai ông là Líp-ni. Con trai ông là Si-mê-i. Con trai ông là U-xa.
30Con trai ông là Si-mê-a. Con trai ông là Ha-ghi-gia. Con trai ông là A-sai-gia. 31Sau đây là danh tánh của những người mà Đa-vít đặt để lo về âm nhạc trong nhà của Đức Giê-hô-va, sau khi hòm giao ước yên nghỉ rồi.32Họ phục vụ bằng cách ca hát trước đền tạm, nơi nhóm lại, cho đến khi Sa-lô-môn đã xây dựng nhà của Đức Giê-hô-va tại thành Giê-ru-sa-lem. Họ chu toàn các bổn phận theo sự hướng dẫn đã được ban cho họ.33Đây là những người phục vụ với các con trai họ. Từ dòng họ Kê-hát đến nhạc sĩ Hê-man. Đây là các tổ phụ của họ, tính ngược lại: Hê-man là con trai của Giô-ên. Giô-ên là con trai của Sa-mu-ên.34Sa-mu-ên là con trai của Ên-ca-na. Ên-ca-na là con trai Giê-rô-ham. Giê-rô-ham là con trai của Ê-li-ên. Ê-li-ên là con trai của Thô-a.
35Thô-a là con trai của Xu-phơ. Xu-phơ là con trai của Ên-ca-na. Ên-ca-na là con trai của Ma-hát. Ma-hát là con trai của A-ma-sai. A-ma-sai là con trai của Ên-ca-na. 36Ên-ca-na là con trai của Giô-ên. Giô-ên là con trai của A-xa-ria. A-xa-ria là con trai của Xô-phô-ni.
37Xô-phô-ni là con trai của Ta-hát. Ta-hát là con trai của Át-si. Át-si là con trai của Ê-ni-a-sáp. Ê-ni-a-sáp là con trai của Cô-rê.
38Cô-rê là con trai của Két-sê-ha. Két-sê-ha là con trai của Kê-hát. Kê-hát là con trai của Lê-vi. Lê-vi là con trai của Y-sơ-ra-ên. 39Bạn đồng công của Hê-man là A-sáp, là người đứng bên tay phải ông. A-sáp là con trai của Bê-rê-kia. Bê-rê-kia là con trai của Si-mê-a.
40Si-mê-a là con trai của Mi-ca-ên. Mi-ca-ên là con trai của Ba-sê-gia. Ba-sê-gia là con trai của Manh-ki-gia.
41Manh-ki-gia là con trai của Ét-ni. Ét-ni là con trai của Xê-ra. Xê-ra là con trai của A-đa-gia.
42A-đa-gia là con trai của Ê-than. Ê-than là con trai của Xim-ma. Xim-ma là con trai của Si-mê-i.
43Si-mê-i là con trai của Gia-hát. Gia-hát là con trai của Ghẹt-sôn. Ghẹt-sôn là con trai của Lê-vi. 44Ở bên trái của Hê-man là bạn đồng công của ông các con trai của Mê-ra-ri. Họ gồm có Ê-than con trai của Ki-si. Ki-si là con trai của Áp-đi. Áp-đi là con trai của Ma-lúc.
45Ma-lúc là con trai của Ha-sa-bia. Ha-sa-bia là con trai của A-ma-xia. A-ma-xia là con trai của Hinh-kia.
46Hinh-kia là con trai của Am-si. Am-si là con trai của Ba-ni. Ba-ni là con trai của Sê-me.
47Sê-me là con trai của Mách-li. Mách-li là con trai của Mu-si. Mu-si là con trai của Mê-ra-ri. Mê-ra-ri là con trai của Lê-vi. 48Anh em của họ, người Lê-vi, được phân công lo làm mọi công việc trong đền tạm, nhà của Đức Chúa Trời.49A-rôn và các con trai người đã làm mọi công việc liên quan với nơi chí thánh. Họ dâng các thứ của lễ lên bàn thờ để làm của lễ thiêu. Họ dâng của lễ lên bàn thờ xông hương. Mọi thứ của lễ nầy được dâng lên để làm sự chuộc tội cho dân Y-sơ-ra-ên. Họ làm theo mọi sự mà Môi-se tôi tớ của Đức Chúa Trời đã truyền dặn.50Dòng dõi của A-rôn được kể ra như sau: con trai của A-rôn là Ê-lê-a-sa. Con trai của Ê-lê-a-sa là Phi-nê-a. Con trai của Phi-nê-a là A-bi-sua.
51Con trai của A-bi-sua là Bu-ki. Con trai của Bu-ki là U-xi. Con trai của U-xi là Xê-ra-hi-gia.
52Con trai của Xê-ra-hi-gia là Mê-ra-giốt. Con trai của Mê-ra-giốt là A-ma-ria. Con trai của A-ma-ria là A-hi-túp.
53Con trai của A-hi-túp là Xa-đốc. Con trai của Xa-đốc là A-hi-ma-ách. 54Sau đây là các địa điểm được phân chia cho các dòng dõi của A-rôn. Cho dòng họ của nhà Kê-hát (họ bắt thăm trước hết):55Họ được phân cho Hếp-rôn trong đất của Giu-đa, và địa hạt nó.56Nhưng các đồng ruộng của thành cùng các làng mạc bao quanh đều được cấp cho Ca-lép con trai Giê-phu-nê.57Các dòng dõi của A-rôn được cấp cho Hếp-rôn, là thành ẩn náu, Líp-na với địa hạt nó, Gia-tia, Ếch-tê-mô-a với địa hạt nó,58Hi-lên với địa hạt nó, và Đê-bia với địa hạt nó.59Các dòng dõi nầy của A-rôn cũng được cấp cho A-san với địa hạt nó và Bết-Sê-mết với địa hạt nó.60Từ chi phái Bên-gia-min họ được cấp cho Ghê-ba với địa hạt nó, A-lê-mết với địa hạt nó, và A-na-tốt với địa hạt nó. Dòng họ Kê-hát nầy đã nhận mười ba thành cả thảy.61Đối với phần còn lại của dòng dõi Kê-hát được cấp cho mười thành từ phân nửa chi phái Ma-na-se.62Đối với dòng dõi của Ghẹt-sôn trong các họ khác được cấp cho mười ba thành từ chi phái Y-sa-ca, A-se, Nép-ta-li, và phân nửa chi phái Ma-na-se ở Ba-san.63Đối với dòng dõi của Mê-ra-ri được cấp cho mười hai thành theo bóc thăm các họ khác từ các chi phái Ru-bên, Gát, và Sa-bu-lôn.64Vậy, dân Y-sơ-ra-ên đã trao các thành nầy và các địa hạt của họ cho người Lê-vi.65Họ theo bóc thăm mà cấp cho nhiều làng mạc được nhắc tới ở trên từ các chi phái Giu-đa, Si-mê-ôn, và Bên-gia-min.66Một số dòng họ của dân Kê-hát được cấp cho các thành từ chi phái Ép-ra-im.67Họ được cấp cho Si-chem (thành ẩn náu) với địa hạt nó trong xứ đồi núi Ép-ra-im, Ghê-xe với địa hạt nó,68Giốc-mê-am với địa hạt nó, Bết Hô-rôn với địa hạt nó,69A-gia-lôn với địa hạt nó, và Gát Rin-môn với địa hạt nó.70Từ phân nửa chi phái Ma-na-se họ được cấp cho A-ne với địa hạt nó và Bê-lê-am với địa hạt nó. Các địa điểm nầy trở thành tài sản của các dòng họ Kê-hát.71Đối với dòng dõi của Ghẹt-sôn, họ được cấp cho từ các dòng họ của phân nửa chi phái Ma-na-se, Gô-lan trong Ba-san với địa hạt nó và Ách-ta-rốt với địa hạt nó.72Từ chi phái Y-sa-ca, các dòng dõi của Ghẹt-sôn đã nhận lấy Kê-đe với địa hạt nó, Đa-bê-ra với địa hạt nó,
73Ra-mốt với địa hạt nó, và A-nem với địa hạt nó.74Từ chi phái A-se, họ đã nhận lấy Ma-sanh với địa hạt nó, Áp-đôn với địa hạt nó,
75Hu-cốc với địa hạt nó, và Rê-hốp với địa hạt nó.76Từ chi phái Nép-ta-li, họ đã nhận lấy Kê-đe trong xứ Ga-li-lê với địa hạt nó, Ham-môn với địa hạt nó, và Ki-ria-ta-im với địa hạt nó. 77Đối với phần còn lại của chi phái Lê-vi, dòng dõi của Mê-ra-ri, được cấp cho từ chi phái Sa-bu-lôn, Ri-mô-nô với địa hạt nó và Tha-bô với địa hạt nó.
78-79Đối với họ cũng được cấp cho, ở bên kia sông Giô-đanh tại Giê-ri-cô, phía Đông của con sông, Bết-se trong sa mạc với địa hạt nó, Gia-xa với địa hạt nó, Kê-đê-mốt với địa hạt nó, và Mê-phát với địa hạt nó. Những dòng họ nầy cũng được chi phái Ru-bên cấp đất cho.
80Từ chi phái Gát, họ được cấp cho Ra-mốt trong xứ Ga-la-át với địa hạt nó, Ma-ha-na-im với địa hạt nó,
81Hết-bôn với địa hạt nó, và Gia-a-xe với địa hạt nó. 71Bốn con trai của Y-sa-ca là Thô-la, Phu-a, Gia-súp, và Sim-rôn.2Các con trai của Thô-la là U-xi, Rê-pha-gia, Giê-ri-ên, Giác-mai, Díp-sam, và Sa-mu-ên. Đây là gốc của dòng tộc ra từ các tổ phụ họ, tức là, dòng họ của Thô-la. Họ là hạng người mạnh sức, can đảm. Họ được kê sổ 22. 600 người trong thời của Đa-vít, theo danh sách của họ.
3Con trai của U-xi là Dít-ra-hia. Các con trai của ông là Mi-ca-ên, Ô-ba-đia, Giô-ên, Di-si-gia, cả thảy năm trưởng tộc. 4Cùng với họ, họ có 36. 000 người ra trận được, theo danh sách thuộc dòng tộc của các tổ phụ họ, vì họ có nhiều vợ và con trai.
5Các anh em của họ, chi phái Y-sa-ca, có 87. 000 người ra trận được, theo danh sách thuộc dòng tộc của các tổ phụ họ. 6Ba con trai của Bên-gia-min là Bê-la, Bê-ke, và Giê-đi-a-ên.
7Năm con trai của Bê-la là Ét-nôn, U-xi, U-xi-ên, Giê-ri-mốt, và Y-ri. Họ là lính chiến và là gốc của các họ hàng. Dân sự họ kê sổ 22. 034 chiến binh, theo danh sách thuộc dòng tộc của các tổ phụ họ. 8Các con trai của Bê-ke là Xê-mi-ra, Giô-ách, Ê-li-ê-xe, Ê-li-ô-ê-nai, Ôm-ri, Giê-rê-mốt, A-bi-gia, A-na-tốt, và A-lê-mết. Mọi người nầy đều là con trai của ông.
9Danh sách các dòng họ của họ kê sổ là 20. 200 lãnh đạo gia đình và là những người chiến đấu được.
10Con trai của Giê-đi-a-ên là Binh-han. Các con trai của Binh-han là Giê-úc, Bên-gia-min, Ê-hút, Kê-na-na, Xê-than, Ta-rê-si, và A-hi-sa-ha. 11Hết thảy những người nầy là con trai của Giê-đi-a-ên. Được liệt kê trong các danh sách dòng tộc của họ là 17. 200 lãnh đạo và chiến binh phù hợp với chức năng quân sự.
12(Súp-bim và Hốp-bim là các con trai của Y-rơ, và Hu-sim là con trai của A-he). 13Các con trai của Nép-ta-li là Gia-si-ên, Gu-ni, Gie-xe, và Sa-lum. Đây là các cháu nội của Bi-la. 14Ma-na-se có đứa con trai tên là Ách-ri-ên, do người hầu A-ram sanh ra. Nàng cũng sanh cho Ma-ki, cha của Ga-la-át.
15Ma-ki lấy một người vợ từ Hốp-kim và Súp-kim. Tên của người em gái là Ma-a-ca. Dòng dõi khác của Ma-na-se là Xê-lô-phát, là người chỉ có con gái.
16Ma-a-ca, vợ của Ma-ki, sanh một con trai, và nàng đặt tên nó là Phê-rết. Tên của em nó là Sê-rết, các con trai người là U-lam và Ra-kem. 17Con trai của U-lam là Bê-đan. Đây là dòng dõi của Ga-la-át cháu của Ma-ki chắt của Ma-na-se.
18Em gái Ga-la-át là Ha-mô-lê-kết sanh Y-sốt, A-bi-Ê-xe, và Mác-la.
19Các con trai của Sê-mi-đa là A-hi-an, Sê-kem, Li-khi, và A-ni-am. 20Dòng dõi của Ép-ra-im như sau đây: con trai của Ép-ra-im là Su-tê-la. Con trai của Su-tê-la là Bê-re. Con trai của Bê-re là Ta-hát. Con trai của Ta-hát là Ê-lê-a-đa. Con trai của Ê-lê-a-đa là Ta-hát.
21Con trai của Ta-hát là Xa-bát. Con trai của Xa-bát là Su-tê-la. (Ê-xe và Ê-lê-át bị người của Gát giết, những người dân bản xứ, khi họ đi cướp gia súc của chúng.
22Ép-ra-im cha họ than khóc cho họ trong nhiều ngày, và các anh em người đến yên ủi người.23Ông ngủ với vợ mình. Nàng sanh cho ông một con trai. Ép-ra-im đặt tên cho nó là Bê-ri-a, vì tai vạ đã đến với gia đình của ông.
24Con gái ông là Sê-rê-a, là người xây dựng Hạ và Thượng Bết Hô-rôn và U-sên Sê-rê-a).25Con trai ông là Rê-pha. Con trai của Rê-pha là Rê-sép. Con trai của Rê-sép là Tê-la. Con trai của Tê-la là Ta-han.
26Con trai của Ta-han là La-ê-đan. Con trai của La-ê-đan là Am-mi-hút. Con trai của Am-mi-hút là Ê-li-sa-ma.
27Con trai của Ê-li-sa-ma là Nun. Con trai của Nun là Giô-suê. 28Cơ nghiệp và nơi ở của họ là Bê-tên cùng các làng mạc bao quanh nó. Họ trải dài về phía Đông đến Na-a-ran và về phía Tây cùng các làng mạc nó, rồi đến Sê-kem cùng các làng mạc nó đến Ga-xa cùng các làng mạc nó.29Giáp biên giới với Ma-na-se là Bết San cùng các làng mạc nó, Ta-nác cùng các làng mạc nó, Mê-ghi-đô cùng các làng mạc nó, và Đô-rơ cùng các làng mạc nó. Chính trong các thị trấn nầy dòng dõi của Giô-sép con trai của Y-sơ-ra-ên sống ở đó. 30Các con trai của A-se là Dim-na, Dích-và, Dích-vi, và Bê-ri-a. Sê-ra là em gái của họ.
31Các con trai của Bê-ri-a là Hê-be và Manh-ki-ên, là cha của Bê-ri-a.
32Các con trai của Hê-be là Giáp-phơ-lết, Sô-mê, và Hô-tham. Su-a là em gái của họ. 33Các con trai của Giáp-phơ-lết là Pha-sác, Bim-hanh, và A-vát. Đây là con cái của Giáp-phơ-lết.
34Sô-mê, em của Giáp-phơ-lết, có ba con trai: Rô-hê-ga, Hu-ba, và A-ram.
35Em của Sê-me là Hê-lem, có ba con trai: Xô-pha, Dim-na, Sê-lết, và A-manh. 36Các con trai của Xô-pha là Su-a, Hạt-nê-phê, Su-anh, Bê-ri, Dim-ra,
37Bê-xe, Hốt, Sa-ma, Sinh-sa, Dít-ran, và Bê-ê-ra.38Các con trai của Giê-the là Giê-phu-nê, Phít-ba, và A-ra. 39Các con trai của U-la là A-ra, Ha-ni-ên, và Ri-xi-a. 40Hết thảy những người nầy là dòng dõi của A-se. Họ là gốc gác của các dòng tộc, lãnh đạo các gia đình của mình, những người nam biệt riêng ra, những người chiến đấu được, và đứng đầu các cấp lãnh đạo. Đã có 26. 000 người được liệt kê phù hợp với công tác quân sự, theo danh sách kê sổ của họ. 81Năm con trai của Bên-gia-min là Bê-la trưởng nam, Ách-bên, Ác-ra,2Nô-ha, và Ra-pha.3Các con trai của Bê-la là Át-đa, Ghê-ra, A-bi-hút,
4A-bi-sua, Na-a-man, An-hoa,5Ghê-ra, Sê-phu-phan, và Hu-ram.6Đây là dòng dõi của Ê-hút, ông là trưởng tộc của các họ hàng cư dân ở Ghê-ba, họ bị buộc phải chuyển đến Ma-na-hát:
7Na-a-man, A-hi-gia, và Ghê-ra. Người sau cùng là Ghê-ra, lãnh đạo họ trong việc di dời. Ông là cha của U-xa và A-hi-hút.8Sa-ha-ra-im trở thành cha của mấy đứa con ở trong đất của Mô-áp, sau khi ông ly dị với mấy người vợ là Hu-sim và Ba-ra.
9Bởi vợ ông là Hê-đe, Sa-ha-ra-im trở thành cha của Giô-báp, Xi-bia, Mê-sa, Manh-cam,10Giê-út, Sô-kia, và Mịt-ma. Đây là các con trai của ông, các lãnh đạo trong dòng tộc của họ.11Ông đã trở thành cha của A-bi-túp và En-ba-anh do Hu-sim.12Các con trai của En-ba-anh là Ê-be, Mi-sê-am, và Sê-mết (là người xây dựng Ô-nô và Lót với các làng mạc bao quanh nó).
13Cũng có Bê-ri-a và Sê-ma. Họ là trưởng tộc sống ở A-gia-lôn, họ đã đánh đuổi cư dân của Gát.14Bê-ri-a có các con trai như sau đây: A-hi-ô, Sa-sác, Giê-rê-mốt,
15Xê-ba-đia, A-rát, Ê-đe,16Mi-ca-ên, Dít-pha, và Giô-ha.17En-ba-anh có các con trai như sau: Xê-ba-đia, Mê-su-lam, Hi-ki, Hê-be,
18Gít-mê-rai, Gít-lia, và Giô-báp.19Si-mê-i có các con trai như sau: Gia-kim, Xiếc-ri, Xáp-đi,
20Ê-li-ê-nai, Xi-lê-tai, Ê-li-ên,21A-đa-gia, Bê-ra-gia, và Sim-rát.22Sa-sác có các con trai sau đây: Gít-ban, Ê-be, Ê-li-ên,
23Áp-đôn, Xiếc-ri, Ha-nan,24Ha-na-nia, Ê-lam, An-tô-ti-gia,25Gíp-đê-gia, và Phê-nu-ên26Giê-rô-ham có các con trai như sau: Sam-sê-rai, Sê-ha-ria, A-ta-lia,27Gia-rê-sia, Ê-li-gia, và Xiếc-ri.28Đây là các trưởng tộc và lãnh đạo sống trong thành Giê-ru-sa-lem29Cha của Ga-ba-ôn là Giê-i-ên, tên vợ người là Ma-a-ca, sống ở Ga-ba-ôn.30Con đầu lòng của ông là Áp-đôn, theo sau là Xi-rơ, Kích, Ba-anh, Na-đáp,31Ghê-đô, A-hi-ô, và Xê-ke.32Con trai khác trong số những con trai của Giê-i-ên là Mích-lô, ông trở thành cha của Si-mê-a. Họ cũng sống gần bà con của họ trong thành Giê-ru-sa-lem.
33Nê-rơ là cha của Kích. Kích là cha của Sau-lơ. Sau-lơ là cha của Giô-na-than, Manh-ki-sua, A-bi-na-đáp, và Ếch-ba-anh.
34Con trai của Giô-na-than là Mê-ri-Ba-anh. Mê-ri-Ba-anh là cha của Mi-ca. 35Các con trai của Mi-ca là Phi-thôn, Mê-léc, Ta-rê-a, và A-cha.
36A-cha trở thành cha của Giê-hô-gia-đa. Giê-hô-gia-đa là cha của A-lê-mết, Át-ma-véc, và Xim-ri. Xim-ri là cha của Một-xa.
37Một-xa là cha của Bi-nê-a. Bi-nê-a là cha của Ra-pha. Ra-pha là cha của Ê-lê-a-sa. Ê-lê-a-sa là cha của A-xên 38A-xên có sáu con trai: A-ri-kham, Bốc-ru, Ích-ma-ên, Sê-a-ria, Ô-ba-đia, và Ha-nan. Hết thảy những người nầy là con trai của A-xên.39Các con trai của Ê-sết, em người, là U-lam con đầu lòng, Giê-úc con thứ, và Ê-li-phê-lết thứ ba.
40Các con trai của U-lam đều là những chiến binh và cung thủ. Họ có nhiều con trai và cháu trai, tổng cộng là một trăm năm mươi người. Hết thảy những người nầy thuộc về dòng dõi của Bên-gia-min. 91Vậy, cả dân Y-sơ-ra-ên đã được ghi chép trong các bản gia phổ. Họ đã được ghi chép trong sách ký lược của các vua Y-sơ-ra-ên. Còn về dân Giu-đa, họ bị bắt đem đi làm phu tù trong xứ Ba-by-lôn vì cớ tội lỗi của họ.2Người đầu tiên tái định cư trong các thành của họ là số người Y-sơ-ra-ên, thầy tế lễ, người Lê-vi, và các tôi tớ trong đền thờ.3Một số dòng dõi của người Giu-đa, người Bên-gia-min, người Ép-ra-im, và người Ma-na-se sống tại thành Giê-ru-sa-lem.4Những người định cư gồm có U-thai, con trai của A-mi-hút, cháu của Ôm-ri, chắt của Im-ri, chít của Ba-ni, một dòng dõi của Phê-rết, con của Giu-đa.
5Giữa vòng người Si-lô-ni là A-sai-gia trưởng nam cùng các con trai người.
6Giữa vòng dòng dõi của Xê-rách là Giê-u-ên. Các dòng dõi người đếm được sáu trăm chín mươi người. 7Giữa vòng dòng dõi của Bên-gia-min là Sa-lu, con của Mê-su-lam cháu của Hô-đa-via; chắt của A-sê-nu-a;
8Cũng có Gíp-nê-gia, con trai của Giê-rô-ham, Ê-la con trai của U-xi; U-xi con trai của Mi-cơ-ri và Mê-su-lam, con của Sê-pha-tia; cháu của Rê-u-ên; chắt của Gíp-nê-gia,9Những người bà con của họ được ghi trong các bản gia phổ kê sổ là chín trăm năm mươi sáu người. Những người ấy đều là trưởng tộc của các tổ phụ họ10Các thầy tế lễ có Giê-đai-gia, Giê-hô-gia-ríp, Gia-kin,11cũng có A-xa-ria, con của Hinh-kia; cháu của Mê-su-lam; chắt của Xa-đốc; chít của Mê-ra-giốt; Mê-ra-giốt là con trai của A-hi-túp, là kẻ cai quản nhà của Đức Chúa Trời;12Có A-đa-gia, con của Giê-rô-ham; cháu của Giê-rô-ham, chắt của Pha-sua; chít của Manh-ki-gia. Cũng có Ma-ê-sai con của A-đi-ên; cháu của Gia-xê-ra; chắt của Mê-su-lam; chít của Mê-si-lê-mít; Mê-si-lê-mít là con của Y-mê;13Những người bà con của họ đều là trưởng tộc trong dòng tộc của tổ phụ họ, số là một ngàn bảy trăm sáu mươi người. Họ là những người có khả năng trong công tác của nhà Đức Chúa Trời.14Giữa vòng người Lê-vi có Sê-ma-gia, con của Ha-súp, cháu của A-ri-kham, chắt của Ha-sa-bia; giữa vòng các dòng dõi của Mê-ra-ri;
15Cùng có Bác-ba-cát, Hê-re, Ga-la, Ma-tha-nia, con của Mi-ca, cháu của Xiếc-ri, chắt của A-sáp;16Cũng có Ô-ba-đia, con của Sê-ma-gia, cháu của Ga-la, chắt của Giê-đu-thum; và Bê-rê-kia, con của A-sa, cháu của En-ca-na, họ sống trong các làng mạc của dân Nê-tô-pha-tít.17Những kẻ canh cửa, là Sa-lum, A-cúp, Tanh-môn, A-hi-man, và dòng dõi của họ; Sa-lum làm đầu.
18Trước đó, họ đứng tại cổng vua về phía Đông trại quân của dòng dõi người Lê-vi.19Sa-lum con Cô-rê, cháu của Ê-bi-a-sáp, chắt của Cô-ra, và anh em người; thuộc về họ của cha mình, dân Cô-rê, lo công việc của đền thờ, và canh giữ các sân đạp lúa của đền tạm. Đây đúng là các tổ phụ của họ đã cai quản lối vào chỗ Đức Giê-hô-va ngự. 20Phi-nê-a, con trai của Ê-lê-a-sa, quản trị họ trong quá khứ, và Đức Giê-hô-va ở với người.
21Xa-cha-ri, con trai của Mê-sê-lê-mia, là kẻ canh giữ lối vào Đền Thờ, “nơi nhóm lại.” 22Hết thảy những kẻ nầy được lựa chọn làm người canh giữ những lối vào, số là hai trăm mười hai người. Tên họ của chúng được ghi trong bản ghi chép của dân sự theo các làng mạc của họ; vua Đa-vít và Sa-mu-ên đấng tiên kiến, đã đặt họ vào các chức sắc đáng tin cậy.23Vậy, họ cùng con cháu họ đứng canh giữ những cổng của nhà Đức Giê-hô-va, là đền tạm.24Những kẻ canh giữ cổng được đặt ở bốn phía: Đông, Tây, Nam, và Bắc.25Anh em của họ, họ sống trong các làng mạc của họ, họ đến xoay vòng theo phiên thứ hàng tuần.26Nhưng bốn người Lê-vi làm trưởng những người canh cửa, được phân công lo canh chừng các phòng ốc và kho tàng trong nhà của Đức Chúa Trời.27Họ sử dụng buổi tối ở các trạm xung quanh nhà của Đức Chúa Trời canh giữ nó; vì họ chịu trách nhiệm canh giữ chúng. Mỗi sáng họ sẽ mở cửa ra.28Một số người trong họ lo giữ gìn trang thiết bị của đền thờ, họ đếm các món đồ khi đem ra đem vào.29Một số người trong họ được phân công coi sóc các đồ vật thánh, trang thiết bị, và các thứ chu cấp bao gồm bột miến, rượu, dầu, nhũ hương, và các thứ thuốc thơm.30Một số các con trai thầy tế lễ chế các thứ hương liệu.31Ma-ti-thia, một trong những người Lê-vi, con đầu lòng của Sa-lum, thuộc về dòng Cô-rê, coi sóc việc chuẩn bị bánh cho các thứ của lễ.32Một số trong các anh em của họ, dòng dõi Kê-hát, coi sóc về bánh trần thiết, sắm sẵn nó cho từng ngày sa-bát33Những người ca hát và các trưởng tộc gia đình người Lê-vi vẫn ở trong các phòng tại nơi thánh khi họ được phân công phục sự ngày và đêm, nên được miễn các công việc khác.34Đây là những trưởng tộc gia đình của người Lê-vi, như đã được kê sổ trong các bản tường trình gia phổ của họ. Họ sống trong thành Giê-ru-sa-lem.35Cha của Ga-ba-ôn là Giê-i-ên, tên của vợ ông là Ma-a-ca, sống tại thành Ga-ba-ôn.
36Con trưởng nam của người là Áp-đôn; kế đến các con trai ông là Xu-rơ, Kích, Ba-anh, Nê-rơ, Na-đáp,
37Ghê-đô, A-hi-ô, Xa-cha-ri, và Mích-lô.38Mích-lô là cha của Si-mê-am. Họ cũng sống gần anh em của họ thành Giê-ru-sa-lem.
39Nê-rơ là cha của Kích; Kích là cha của Sau-lơ; Sau-lơ là cha của Giô-na-than, Manh-ki-sua, A-bi-na-đáp, và Ếch-ba-anh.
40Con trai Giô-na-than là Mê-ri-Ba-anh; Mê-ri-Ba-anh là cha của Mi-ca. 41Các con trai của Mi-ca là Phi-thôn, Mê-léc, Ta-rê-a, và A-cha.
42A-cha là cha của Gia-ê-ra; Gia-ê-ra là cha của A-lê-mết, Ách-ma-vết và Xim-ri; Xim-ri là cha của Một-sa;
43Một-sa là cha của Bi-nê-a. Bi-nê-a là cha của Rê-pha-gia. Rê-pha-gia là cha của of Ê-lê-a-sa. Ê-lê-a-sa là cha của A-xên.44Sáu người con của A-xên là A-ri-kham, Bốc-ru, Ích-ma-ên, Sê-a-ria, Ô-ba-đia, và Ha-nan; ấy đều là con trai của A-xên. 101Bấy giờ, dân Phi-li-tin giao chiến với Y-sơ-ra-ên. Từng người trong Y-sơ-ra-ên chạy trốn trước mặt dân Phi-li-tin, rồi ngã chết trên núi Ghinh-bô-a.2Dân Phi-li-tin đuổi theo sát Sau-lơ cùng các con trai người. Dân Phi-li-tin giết Giô-na-than, A-bi-na-đáp, và Manh-ki-sua, các con trai người.3Trận chiến rất kịch liệt chống lại Sau-lơ; khi các cung thủ tiến sát người. Người bị thương nặng vì cớ các cung thủ.4Khi ấy, Sau-lơ bảo kẻ vác binh khí mình rằng: “Ngươi hãy rút gươm ngươi ra rồi đâm gươm ấy vào người ta. Bằng không, những kẻ chẳng chịu cắt bì kia đến sỉ nhục ta.” Song kẻ vác binh khí người không nghe theo, vì hắn rất đỗi sợ hãi. Vì vậy, Sau-lơ bèn cầm lấy gươm mình rồi thúc nó vào ngực.5Khi kẻ vác binh khí thấy Sau-lơ đã chết rồi, tương tự, hắn cúi thúc ngực mình vào gươm rồi ngã chết.6Vậy, Sau-lơ, ba con trai người, và hết thảy các thành viên trong nhà người đều cùng nhau ngã chết.7Khi từng người Y-sơ-ra-ên ở trong đồng bằng thấy họ đã trốn đi, Sau-lơ cùng các con trai người đã chết rồi, thì bỏ thành mình mà trốn đi. Khi ấy, dân Phi-li-tin đến và sống trong các thành ấy.8Qua ngày hôm sau, dân Phi-li-tin đến lột trần những kẻ tử trận, thì thấy Sau-lơ cùng các con trai người ngã chết trên núi Ghinh-bô-a.9Chúng lột thây, chặt đầu người, tịch thu binh khí người. Họ sai sứ giả đi khắp xứ Phi-li-tin, để báo tin cho các thần tượng và dân sự hay.10Chúng để binh khí người tại trong miễu các thần của chúng nó, còn đầu người thì đóng đinh treo trong điện thờ Đa-gôn.11Khi hết thảy dân Gia-be ở Ga-la-át nghe mọi điều dân Phi-li-tin đã làm cho Sau-lơ,12hết thảy những chiến binh đi lên lấy xác vua Sau-lơ và xác các con trai người, rồi đem về Gia-be. Chúng chôn hài cốt của họ dưới cây sồi tại Gia-be, rồi kiêng ăn bảy ngày.13Vậy, vua Sau-lơ đã chết vì ông bất trung đối với Đức Giê-hô-va. Ông không vâng theo những giáo huấn của Đức Giê-hô-va, nhưng cầu tìm lời khuyên từ kẻ trò chuyện với người chết,14Người chẳng có tìm sự dẫn dắt của Đức Giê-hô-va, vậy, Đức Giê-hô-va đã giết người và phó vương quốc cho Đa-vít con trai của Gie-sê. 111Lúc ấy, cả Y-sơ-ra-ên đến cùng Đa-vít tại Hếp-rôn, mà nói rằng: Kìa, chúng tôi vốn là xương thịt của ông.2Mới rồi đây, khi Sau-lơ còn làm vua trên chúng tôi, chính ông đã lãnh đạo quân đội Y-sơ-ra-ên; Giê-hô-va Đức Chúa Trời của ông có phán cùng ông rằng: “Ngươi sẽ chăn dân Y-sơ-ra-ên ta, và ngươi sẽ trở thành người cai trị trên dân Y-sơ-ra-ên ta.”3Vậy, các trưởng lão Y-sơ-ra-ên đến cùng vua ở Hếp-rôn; Đa-vít bèn lập giao ước với chúng trước mặt Đức Giê-hô-va. Chúng xức dầu cho Đa-vít làm vua trên Y-sơ-ra-ên. Theo cách thức nầy Lời của Đức Giê-hô-va đã thành ra sự thực y như Sa-mu-ên đã tuyên bố.4Đa-vít và cả dân Y-sơ-ra-ên đi lên thành Giê-ru-sa-lem, (tức là Giê-bu). Bấy giờ, người Giê-bu-sít, là dân bản xứ, đã ở đó.5Dân cư của Giê-bu nói cùng Đa-vít rằng: “Ngươi sẽ chẳng vào được đây.” Nhưng Đa-vít chiếm lấy đồn lũy Si-ôn, ấy là thành Đa-vít.6Đa-vít nói rằng: Hễ ai hãm đánh dân Giê-bu-sít trước hết sẽ được làm quan tổng binh. Vậy, Giô-áp, con trai Xê-ru-gia, đi lên đánh trước hết, nên được phong là tổng binh.7Khi ấy Đa-vít bắt đầu sống trong đồn. Vì vậy, họ gọi là thành của Đa-vít.8Từ Mi-lô người xây tường thành bốn phía. Giô-áp lo củng cố phần còn lại của thành.9Đa-vít ngày càng cường thạnh vì Đức Giê-hô-va vạn quân ở cùng người.10Đây là cấp lãnh đạo mà Đa-vít đã có, họ tỏ mình ra mạnh mẽ với người trong vương quốc của người, cùng với cả Y-sơ-ra-ên, lập người lên làm vua, vâng theo lời Đức Giê-hô-va đã phán về Y-sơ-ra-ên.11Nầy là danh sách binh lính mạnh dạn của Đa-vít: Gia-sô-bê-am, con trai của Hác-mô-ni, làm đầu ba mươi tướng. Ông dùng giáo mình mà giết ba trăm người một lượt.12Sau người có Ê-lê-a-sa, con trai của Đô-đô, ở A-hô-a, ông là một trong ba người mạnh dạn.13Người nầy ở cùng Đa-vít nơi Pha-đa-mim, và ở đó người Phi-li-tin tập trung lại đặng giao chiến, ở đó có một đám ruộng lúa mạch, và quân đội chạy trốn khỏi mặt dân Phi-li-tin.14Họ đứng ở giữa ruộng, bảo vệ nó, và đánh hơn dân Phi-li-tin. Đức Giê-hô-va đã giải cứu họ với một chiến thắng thật lớn.15Và ba trong số ba mươi tướng lãnh, họ đi xuống hang đá A-đu-lam, đến cùng Đa-vít. Quân đội Phi-li-tin đóng trại trong trũng Rê-pha-im.16Lúc ấy Đa-vít còn ở trong đồn, trong khi dân Phi-li-tin thiết lập trại của họ ở Bết-lê-hem.17Đa-vít ước muốn uống nước mà rằng: “Nếu có ai ban cho ta nước uống của giếng từ thành Bết-lê-hem, cái giếng ở bên cạnh cổng thành ấy!”18Vậy, ba người mạnh sức nầy xông ngang qua trại quân Phi-li-tin múc nước của cái giếng bên cổng thành Bết-lê-hem, cái giếng ở bên cạnh cổng thành. Họ đem nước về trao cho Đa-vít; song người từ chối không chịu uống nước ấy. Thay vì thế, ông rảy nước ấy ra trước mặt Đức Giê-hô-va,19Khi ấy ông nói: “Lạy Đức Giê-hô-va, xin đừng dan xa khỏi tôi, tôi sẽ uống nước nầy chăng? Tôi hẳn không uống huyết của ba người nầy, họ đã liều mạng mình, ông từ chối không uống nước ấy. Đây là những việc của ba người mạnh dạn đó đã làm.20A-bi-sai, em của Giô-áp, làm đầu ba người mạnh dạn đó. Ông dùng giáo mình chống lại ba trăm người rồi giết họ. Ông thường được nhắc tới với ba người ấy.21Trong ba người mạnh dạn đó, người được tôn trọng hơn và trở thành thủ lãnh của họ. Tuy nhiên, tiếng tăm của ông không bằng tiếng tăm của ba người nối tiếng nhất.22Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, là một người mạnh dạn đã làm nhiều việc cả thể. Ông đã giết hai con trai mạnh bạo hơn hết của A-ri-ên xứ Mô-áp. Ông cũng đi xuống một cái hố giết một con sư tử trong khi trời đổ tuyết xuống.23Ông cũng giết một người Ê-díp-tô cao năm cu-bít (1 cu-bít = 42,7cmx5=212 cm=2m12); người Ê-díp-tô có ngọn giáo lớn bằng trục máy dệt, nhưng Bê-na-gia đi xuống đón người, tay cầm một cây gậy, tước lấy ngọn giáo khỏi tay người Ê-díp-tô, rồi dùng giáo của hắn mà giết hắn.24Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa đã làm mọi việc nầy, được nổi danh cùng với ba người mạnh dạn.25Nói chung, ông được tôn trọng hơn ba ngươi chiến binh, song chẳng bằng ba người kia. Đa-vít đặt người chỉ huy vệ binh của ông.26Những người mạnh dạn là: A-sa-ên, em của Giô-áp; En-ca-nan, con trai của Đô-đô ở Bết-lê-hem;
27Sa-mốt, người Ha-rôn; Hê-lết, người Pha-lôn;28Y-ra, con trai của Y-kết ở Thê-kô-a; A-bi-ê-xe ở A-na-tốt;29Si-bê-cai người Hu-sa; Y-lai người A-hô-a;30Ma-ha-rai người Nê-tô-pha; Hê-lết, con trai của Ba-a-na người Nê-tô-pha;31Y-tai, con trai Ri-bai ở Ghi-bê-a, thành của dòng dõi Bên-gia-min; Bê-na-gia người Phi-ra-thôn;32Hu-rai thuộc trũng Na-ha-lê-Ga-ách; A-bi-ên người A-ra-ba;33Ách-ma-vết người Ba-hu-rim; Ê-li-ác-ba người Sa-anh-bôn;34Các con trai của Bê-nê-ha-sem người Ghi-xôn; Giô-na-than, con trai Sa-ghê người Ha-ra;35A-hi-giam con trai Sa-ca người Ha-ra; Ê-li-pha, con trai U-rơ;36Hê-phe người Mê-kê-ra; A-hi-gia người Pha-lôn;37Hết-rô người Cạt-mên; Na-a-rai con trai E-bai;38Giô-ên em của Na-than, Mi-bê-ha, con trai của Ha-gơ-ri;39Xê-léc là người Am-môn; Na-ha-rai người Bê-ê-rốt, là kẻ vác binh khí của Giô-áp, con trai của Xê-ru-gia.40Y-ra người Giê-the; Ga-rép người Giê-the;
41U-ri người Hê-tít; Xa-bát con trai Ác-lai;42A-đi-na con trai của Si-xa người Ru-bên, trưởng tộc dòng Ru-bên, và có ba mươi chiến binh ở với người;43Ha-nan con trai của Ma-a-ca; và Giô-sa-phát người Mê-then;44U-xia người Ách-ta-rốt; Sa-ma và Giê-hi-ên, con trai của Hô-tam người A-rô-e;45Giê-đi-a-ên con trai của Sim-ri; Giô-ha em người, dân Thi-sít;46Ê-li-en người Ma-ha-vim; Giê-ri-bai và Giô-sa-via hai con trai của En-na-am; Gít-ma người Mô-áp;47Ê-li-ên, Ô-bết, và Gia-a-si-ên, người Mết-sô-ba. 121Đây là những người đã đến với Đa-vít tại Xiếc-lác, khi ông bị trục xuất khỏi sự hiện diện của Sau-lơ, con trai của Kích. Họ có mặt giữa vòng các chiến binh, những kẻ giúp đỡ ông trong chiến trận.2Họ được trang bị cung tên, có thể sử dụng cả hai tay ném đá bằng trành. Họ đều là người Bên-gia-min, chi phái thân tộc của Sau-lơ.3A-hi-ê-xe làm đầu, kế đó là Giô-ách — cả hai đều là con trai của Sê-ma người Ghi-bê-a. Đã có Giê-xi-ên và Phê-lết, hai con trai của Ách-ma-vết; Bê-ra-ca, Giê-hu người A-na-tốt,4Gít-mai-gia người Ga-ba-ôn — một chiến binh trong ba mươi chiến binh, và làm đầu họ — lại có Giê-rê-mi; Gia-ha-xi-ên; Giô-ha-nan; Giô-xa-bát người Ghê-đê-ra;5Ê-lu-xai; Giê-ri-mốt; Bê-a-lia; Sê-ma-li-a; Sê-pha-ti-a người Ha-rốp;6Người Cô-rê: Ên-ca-na, Di-si-gia, A-xa-rên, Giô-ê-xe, và Gia-sô-bê-am và7Giô-ê-la và Xê-ba-đia, hai con trai của Giê-rô-ham người Ghê-đô.8Một số người Gát hiệp với Đa-vít tại nơi đồn trong đồng vắng. Họ vốn là hạng chiến binh, được huấn luyện thuần thục để tác chiến, họ có thể cầm khiên, giáo, diện mạo như sư tử. Họ lanh lẹ như hoàng dương ở trên núi.9Đã có Ê-xe lãnh đạo; Ô-ba-đia thứ nhì, Ê-li-áp thứ ba,
10Mích-ma-nan thứ tư, Giê-rê-mi thứ năm,11Ạt-tai thứ sáu, Ê-li-ên thứ bảy,12Giô-ha-nan thứ tám, Ên-xa-bát thứ chín,13Giê-rê-mi thứ mười, Mác-ba-nai thứ mười một,14Các con trai của Gát, làm chỉ huy trong quân đội; kẻ nhỏ cai một trăm người, kẻ lớn cai một ngàn người.15Họ băng qua sông Giô-đanh trong tháng thứ nhứt, lúc nước tràn bờ, rồi đánh đuổi các hết thảy những kẻ sống trong đồng bằng hoặc về phía đông hay về phía tây.16Một số người thuộc chi phái Bên-gia-min và Giu-đa đã đến với Đa-vít trong đồn người.17Đa-vít ra đón rước họ, mà nói rằng: Nếu anh em đến cùng ta trong hòa bình để giúp đỡ ta, thì lòng ta sẽ hiệp cùng anh em; ví bằng anh em thầm mưu phản ta trước kẻ thù nghịch, nguyện Đức Chúa Trời của tổ phụ ta xem xét và quở trách anh em; một khi ta chẳng làm chi sai lầm.18Khi ấy Đức Thánh Linh giáng trên A-ma-sai là chỉ huy của ba mươi người ấy. A-ma-sai nói rằng: Hỡi Đa-vít, chúng tôi thuộc về ông! Hỡi con trai Y-sai, chúng tôi ở về phía ông! Hãy bình yên, nguyện bình yên giáng trên kẻ giúp đỡ ông; bởi vì Đức Chúa Trời ông đang phò trợ ông! Khi ấy Đa-vít tiếp nhận các người ấy rồi lập làm chỉ huy trên người của ông.19Cũng có một số người thuộc về Ma-na-se đến theo Đa-vít khi người cùng quân Phi-li-tin đi giao chiến với Sau-lơ. Tuy nhiên, họ chẳng giúp đỡ dân Phi-li-tin, vì các quan trưởng Phi-li-tin bàn luận nhau rồi đuổi Đa-vít đi. Họ nói: “E nó trở về cùng Sau-lơ, chủ nó, rồi gây hại cho mạng sống chúng ta chăng.”20Khi người trở về Xiếc-lác, người của Ma-na-se đến hiệp với ông, là At-na, Giô-xa-bát, Ê-li-hu, và Xi-lê-thai, đều là cấp chỉ huy ngàn quân trong chi phái Ma-na-se.21Họ giúp đỡ Đa-vít đối địch với quân giặc cướp, bởi vì họ đều là hạng chiến binh. Sau đó họ trở thành tướng lãnh trong quân đội.22Hằng ngày, có nhiều người đến với Đa-vít đặng giúp đỡ người, cho đến khi có một quân đội lớn, như đội quân của Đức Chúa Trời.23Đây là tường trình về các chiến sĩ vũ trang cho chiến trường, họ đã đến với Đa-vít tại Hếp-rôn, đặng chuyển vương quốc của Sau-lơ qua cho ông, theo như lời của Đức Giê-hô-va.24Từ chi phái Giu-đa, những kẻ cầm khiên và giáo là sáu ngàn tám trăm người, được vũ trang để giao chiến.
25Từ chi phái Si-mê-ôn, có bảy ngàn một trăm chiến binh. 26Từ chi phái Lê-vi, có 4. 600 chiến binh.
27Giê-hô-gia-đa chỉ huy dòng dõi của A-rôn, và với ông có 3. 700 người.
28Với Xa-đốc, còn trẻ, mạnh dạn, và can đảm, là 20 lãnh đạo từ gia tộc của tổ phụ ông. 29Từ chi phái Bên-gia-min, chi phái của Sau-lơ, là 3. 000 người. Hầu hết họ còn giữ lòng trung thành với Sau-lơ cho đến thời điểm nầy.
30Chi phái Ép-ra-im, đã có 20. 800 chiến binh, những người nổi tiếng trong gia đình của tổ phụ họ.
31Từ nửa chi phái Ma-na-se, có 18. 000 người nổi tiếng, họ đến để lập Đa-vít làm vua. 32Từ chi phái Y-sa-ca, có 200 vị lãnh đạo, họ kẻ hiểu biết thời thế và biết rõ dân Y-sơ-ra-ên nên làm gì. Hết thảy tông tộc họ đều ở dưới quyền chỉ huy của họ.
33Từ chi phái Sa-bu-lôn, có 50. 000 chiến binh, đã sửa soạn cho chiến trường, với các thứ binh khí, và sẵn sàng lâm chiến và sẵn sàng dâng lòng trung thành không dời đổi. 34Từ chi phái Nép-ta-li, có 1. 000 quan cai, với họ có 37. 000 người với khiên và giáo.
35Từ chi phái Đan, có 28. 600 người đã chuẩn bị cho chiến trận. 36Từ chi phái A-se, đã có 40. 000 người đã chuẩn bị cho chiến trận.
37Từ phía bên kia sông Giô-đanh, từ chi phái Ru-bên, Gát, và nửa chi phái Ma-na-se, có 120. 000 người được trang bị vũ trang với đủ loại vũ khí cho chiến trận. 38Hết thảy các chiến binh nầy, đã được chuẩn bị cho chiến trận, đã đến với Hếp-rôn đặng lập Đa-vít lên làm vua trên cả Y-sơ-ra-ên; Hết thảy phần còn lại trong Y-sơ-ra-ên cũng đều nhất trí muốn lập Đa-vít lên làm vua.39Họ có mặt tại đó với vua Đa-vít ba ngày, ăn uống; vì bà con của họ gửi đến cho họ các thứ viện trợ.40Thêm nữa, những người ở gần họ, đến tận Y-sa-ca, Sa-bu-lôn, và Nép-ta-li, họ chở bánh trên lưng lừa, lạc đà, con la, và con bò, nào các thứ bánh trái vả, nho khô, rượu, dầu, cũng dẫn bò và chiên đến rất nhiều, vì Y-sơ-ra-ên có tiệc tùng. 131Đa-vít hội ý với các tướng lãnh ngàn quân, quan tướng trăm quân, cùng cấp lãnh đạo.2Đa-vít nói với cả hội chúng Y-sơ-ra-ên rằng: Nếu anh em xem là tốt lành, và nếu sự nầy đến từ Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng ta, thì chúng ta hãy sai các sứ giả đi khắp mọi nơi, đến với các anh em chúng ta còn lại trên khắp xứ Y-sơ-ra-ên, và đến cùng các thầy tế lễ và người Lê-vi đang sống trong các thành của họ, để họ đến hiệp cùng chúng ta;3Chúng ta đưa hòm giao ước của Đức Chúa Trời chúng ta về lại với chúng ta; vì chúng ta không có tìm kiếm ý chỉ của Ngài trong đời trị vì của Sau-lơ.”4Cả hội chúng đều nhất trí làm theo những việc nầy; vì mọi sự ấy lấy làm đúng theo mắt của mọi người.5Vì vậy Đa-vít tập trung hết thảy dân Y-sơ-ra-ên lại, từ sông Si-hô trong xứ Ai-cập cho đến Lê-bô-Ha-mát, để đưa hòm của Đức Chúa Trời về từ Ki-ri-át-Giê-a-rim.6Đa-vít và cả Y-sơ-ra-ên đi lên tại Ba-a-la, tức là, Ki-ri-át-Giê-a-rim, thuộc về chi phái Giu-đa, đặng rước hòm của Đức Chúa Trời lên, hòm được gọi theo danh xưng của Đức Giê-hô-va, Đức Giê-hô-va là Đấng đang ngự giữa Chê-ru-bim.7Vì vậy họ đặt hòm giao ước của Đức Chúa Trời lên một chiếc xe bò mới. Họ thỉnh hòm ấy từ nhà của A-bi-na-đáp. U-xa và A-hi-ô thì đang dẫn dắt chiếc xe.8Đa-vít và cả Y-sơ-ra-ên đều hết sức tiệc tùng trước mặt Đức Chúa Trời. Họ ca hát với đàn cầm, đàn sắt, trống cơm, chập chỏa, và các thứ kèn.9Khi chúng đến sân đạp lúa của Ki-đôn, U-xa bèn giơ tay ra nắm lấy hòm, bởi vì con bò bị vấp chân10Khi ấy cơn thịnh nộ của Đức Giê-hô-va nổi lên cùng U-xa, và Đức Giê-hô-va giết người đi, bởi vì người có giơ tay ra nắm lấy hòm. Người ngã chết tại đó trước mặt Đức Chúa Trời.11Đa-vít rất giận vì Đức Giê-hô-va đã tấn công U-xa. Chỗ ấy được gọi là Bê-rết-U-xa cho đến ngày nay.12Trong ngày ấy, Đa-vít lấy làm sợ hãi Đức Chúa Trời. Ông nói: “Phải thỉnh hòm của Đức Chúa Trời về với ta bằng cách nào chứ?”13Vậy, Đa-vít không thỉnh hòm tới thành Đa-vít, nhưng đặt hòm ấy vào nhà Ô-bết-Ê-đôm, là người Gát.14Hòm của Đức Chúa Trời ở lại ba tháng trong nhà Ô-bết-Ê-đôm; thế là Đức Giê-hô-va chúc phước cho nhà Ô-bết-Ê-đôm và mọi vật thuộc về người. 141Hi-ram, vua Ty-rơ, sai sứ giả đến Đa-vít, cùng gởi theo gỗ bá hương, thợ hồ, thợ mộc. Họ cất cho người một cung điện.2Đa-vít nhìn biết rằng Đức Giê-hô-va đã lập mình lên làm vua trên Y-sơ-ra-ên; vì vương quốc của ông được tôn cao vì cớ dân sự Y-sơ-ra-ên của ông.3Tại Giê-ru-sa-lem, Đa-vít lấy thêm mấy người vợ khác nữa, và trở thành cha của nhiều con trai con gái.4Nầy là tên các con cái sanh cho ông tại thành Giê-ru-sa-lem: Sa-mua, Sô-háp, Na-than, Sa-lô-môn,5Gi-ba, Ê-li-sua, En-bê-lết,6Nô-ga, Nê-phết, Gia-phia,7Ê-li-sa-ma, Bê-ên-gia-đa, và Ê-li-phê-lết.8Bấy giờ, khi dân Phi-li-tin hay rằng Đa-vít đã được xức dầu làm vua trên cả Y-sơ-ra-ên, thì hết thảy chúng đều đi lên đặng tìm người; Đa-vít hay đều đó, bèn đi ra đón đánh chúng nó.9Dân Phi-li-tin đã loán đến, rồi mở một chiến dịch trong trũng Rê-pha-im.10Đa-vít cầu xin sự phù trợ từ Đức Chúa Trời, ông nói: “Tôi có nên tấn công dân Phi-li-tin chăng? Liệu Chúa có ban cho tôi thắng hơn chúng không? Đức Giê-hô-va phán cùng người rằng: “Hãy tấn công đi, vì chắc chắn ta sẽ phó chúng cho ngươi.”11Vậy, chúng kéo lên Ba-anh-Phê-rát-sim, rồi ở đó Đa-vít đánh bại chúng nó. Ông nói rằng: “Đức Giê-hô-va có dùng tay ta đã đánh tan tác những kẻ thù nghịch ta, như nước vỡ bờ vậy.” Vậy, người ta gọi chỗ đó là Ba-anh-Phê-rát-sim.12Người Phi-li-tin bỏ các thần tượng mình lại đó; và Đa-vít ban lệnh thiêu chúng nó trong lửa.13Khi ấy, dân Phi-li-tin lại bủa khắp trong trũng một lần nữa.14Đa-vít cầu vấn Đức Chúa Trời một lần nữa; Đức Chúa Trời phán cùng người rằng: “Ngươi chớ tấn công chúng nó chính diện; thay vì thế hãy vòng ra phía sau chúng, rồi hãm đánh chúng nó tại nơi đối ngang rừng cây dâu.15Vừa khi ngươi nghe tiếng bước trên ngọn cây dâu, khi ấy hãy dùng sức mà tấn công. Hãy làm theo mạng lịnh nầy vì Đức Chúa Trời đi ra trước các ngươi đặng tấn công quân đội Phi-li-tin.”16Thế là Đa-vít làm theo y như Đức Chúa Trời đã truyền ra cho ông. Họ đánh bại quân đội dân Phi-li-tin từ Ga-ba-ôn cho đến Ghê-xe.17Thế rồi danh tiếng của Đa-vít đồn ra trong khắp các nước; và Đức Giê-hô-va khiến cho các dân đều kinh sợ ông. 151Đa-vít cất cho mình cung điện tại thành Đa-vít. Ông sắm sửa một chỗ cho hòm của Đức Chúa Trời và dựng lên cái trại cho hòm ấy.2Khi ấy Đa-vít bèn nói rằng: “Chỉ có người Lê-vi mới có thể khiêng hòm của Đức Chúa Trời, vì Đức Giê-hô-va đã chọn họ để khiêng nó và hầu việc Ngài cho đến đời đời.”3Đa-vít bèn nhóm cả Y-sơ-ra-ên lại tại thành Giê-ru-sa-lem, để đem hòm của Đức Giê-hô-va đến chỗ mà ông đã sắm sẵn cho nó.4Đa-vít cũng nhóm con cháu A-rôn và người Lê-vi lại:5Từ dòng dõi Kê-hát có U-ri-ên là lãnh đạo cùng các thân tộc, được 120 người.6Từ dòng dõi của Mê-ra-ri có A-sa-gia, là lãnh đạo cùng các thân tộc, được 220 người; 7Từ dòng dõi của Ghẹt-sôn có Giô-ên là trưởng tộc cùng các thân tộc, được 130 người.8Từ dòng dõi Ê-li-sa-phan có Sê-ma-gia là lãnh đạo cùng các thân tộc, được 200 người.
9Từ dòng dõi của Hếp-rôn có Ê-li-ên là lãnh đạo, cùng các thân tộc, được 80 người.
10Từ dòng dõi của U-xi-ên có A-mi-na-đáp là lãnh đạo cùng các thân tộc, được 112 người. 11Đa-vít gọi hai thầy tế lễ Xa-đốc và A-bia-tha, cùng những người Lê-vi như U-ri-ên, A-sa-gia, Giô-ên, Sê-ma-gia, Ê-li-ên, và A-mi-na-đáp,12Ông nói với họ: Anh em là lãnh đạo của các gia đình người Lê-vi. Hãy dâng mình cho Đức Giê-hô-va, cả anh em cùng anh em các ngươi, hầu cho anh em có thể khiêng hòm của Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, đến nơi mà ta đã sắm sẵn.13Anh em không có khiêng hòm lần thứ nhứt. Đấy là lý do Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã trở nghịch cùng chúng ta vì chúng ta không tìm kiếm Ngài hoặc vâng theo mạng lịnh Ngài.14Vậy, những thầy tế lễ và người Lê-vi dâng mình để khiêng hòm của Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.15Như vậy, người Lê-vi dùng đòn khiêng hòm của Đức Chúa Trời trên vai mình, y như Môi-se đã truyền — theo các luật lệ được ban ra bởi Lời của Đức Giê-hô-va.16Đa-vít truyền cho các cấp lãnh đạo người Lê-vi phải chỉ định trong anh em của họ những người hát xướng với các thứ nhạc cụ, ống quyển, các thứ đàn dây, đàn cầm, chập chỏa để cất tiếng vui mừng vang rền lên.17Thế là người Lê-vi mới chỉ định Hê-man con trai của Giô-ên, và một trong các em người là A-sáp con trai của Bê-rê-kia. Họ cũng chỉ định anh em của họ về dòng dõi Mê-ra-ri, và Ê-than con trai của Cu-sa-gi.18Với họ là các người bà con thuộc dòng thứ, là Xa-cha-ri, Gia-xi-ên, Sê-mi-ra-mốt, Giê-hi-ên, U-ni, Ê-li-áp, Bê-na-gia, Ma-a-xê-gia, Ma-ti-thia, Ê-li-phê-lê, Mích-nê-gia, Ô-bết-Ê-đôm, và Giê-i-ên, là người giữ cửa.19Những nhạc sĩ là Hê-man, A-sáp, và Ê-than, được chỉ định dùng những chập chỏa đồng, đánh vang dội lên;20Xa-cha-ri, A-xi-ên, Sê-mi-ra-mốt, Giê-hi-ên, U-ni, Ê-li-áp, Ma-a-xê-gia, và Bê-na-gia, dùng nhạc cụ bằng dây theo điệu A-la-mốt;21Còn Ma-ti-thia, Ê-li-phê-lê, Mích-nê-gia, Ô-bết-Ê-đôm, Giê-i-ên, và A-xa-xia, đều dùng đàn cầm đánh theo giọng Sê-mi-nít.22Kê-na-nia, lãnh đạo người Lê-vi, ông là người chỉ đạo việc ca xướng, vì ông là giáo sư âm nhạc.23Còn Bê-rê-kia và En-ca-na là ai người canh giữ hòm giao ước.24Sê-ba-nia, Giô-sa-phát, Nê-tha-nê-ên, A-ma-xai, Xa-cha-ri, Bê-na-gia, và Ê-li-ê-se, tức là những thầy tế lễ, đều thổi kèn trước hòm của Đức Chúa Trời; Ô-bết-Ê-đôm và Giê-hi-gia đứng canh giữ hòm giao ước.25Vậy, Đa-vít, các trưởng lão của Y-sơ-ra-ên, và các quan tướng ngàn quân, đều đi đưa hòm giao ước của Đức Giê-hô-va ra khỏi nhà của Ô-bết-Ê-đôm với sự vui mừng.26Khi Đức Chúa Trời giúp người Lê-vi, là những người khiêng hòm giao ước của Đức Giê-hô-va, họ tế bảy con bò đực và bảy con chiên đực.27Đa-vít mặc áo vải gai mịn, y như các người Lê-vi nào lo khiêng hòm, kẻ ca hát, và Kê-na-nia, chỉ huy bài hát và những kẻ hát. Đa-vít cũng mặc trên mình một cái ê-phót bằng vải gai mịn.28Như vậy cả Y-sơ-ra-ên đều thỉnh hòm giao ước của Đức Giê-hô-va lên với tiếng vui mừng, và với âm thanh của các loại sừng, với chập chỏa, và với các nhạc cụ bằng dây và đàn cầm.29Nhưng khi hòm giao ước của Đức Giê-hô-va đến tại thành Đa-vít, Mi-canh, con gái của Sau-lơ, ngó ngang qua cửa sổ. Nàng thấy vua Đa-vít đang nhảy nhót vui chơi. Thì nàng xem khinh người ở trong lòng. 161Chúng đem hòm của Đức Chúa Trời về, rồi đặt nó ở giữa lều trại mà Đa-vít đã dựng lên cho nó. Khi ấy, họ dâng những của lễ thiêu và của lễ chay tại trước mặt Đức Chúa Trời.2Khi Đa-vít đã dâng xong của lễ thiêu và của lễ chay, ông chúc phước cho dân sự trong danh của Đức Giê-hô-va.3Ông phân phát cho từng người Y-sơ-ra-ên, cả nam và nữ, một ổ bánh, một miếng thịt, và một cái bánh nho khô.4Đa-vít chỉ định người Lê-vi phục vụ trước hòm của Đức Giê-hô-va, lo ngợi khen, cảm tạ, và chúc tụng Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.5Những người Lê-vi nầy là A-sáp, lãnh đạo, kế ông là Xa-cha-ri, Giê-i-ên, Sê-mi-ra-mốt, Giê-hi-ên, Ma-ti-thia, Ê-li-áp, Bê-na-gia, Ô-bết-Ê-đôm, và Giê-i-ên. Họ phải dùng đàn dây, với đàn cầm. A-sáp nổi chập chỏa vang dội lớn tiếng.6Bê-na-gia và thầy tế lễ Gia-ha-xi-ên cần phải thổi kèn thật đều đặn ở trước hòm giao ước của Đức Chúa Trời.7Tiếp đến trong ngày đó, trước tiên Đa-vít chỉ định A-sáp và anh em người phải hát bài ca nầy, đặng cảm tạ Đức Giê-hô-va.8Hãy dâng lời cảm tạ cho Đức Giê-hô-va, hãy kêu cầu danh Ngài; và khiến cho các dân nhìn biết mọi công việc Ngài!
9Hãy ca hát cho Ngài, hãy ca lên những lời ngợi khen Ngài! Hãy nói về mọi việc làm lạ lùng của Ngài. 10Hãy khoe về danh thánh của Ngài; nguyện tấm lòng của những ai tìm cầu Đức Giê-hô-va đều được vui vẻ.
11Hãy tìm kiếm Đức Giê-hô-va và sức lực của Ngài; hãy tìm kiếm sự hiện diện của Ngài luôn luôn. 12Hãy nhớ lại những việc lạ lùng mà Ngài đã làm, các phép lạ của Ngài và các điều răn ra từ miệng của Ngài.
13Anh em là dòng dõi của Y-sơ-ra-ên tôi tớ Ngài, anh em là dân sự của Gia-cốp, là những kẻ được chọn của Ngài.
14Ngài là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng ta; Điều răn Ngài bủa ra trên khắp đất. 15Hãy giữ trong trí giao ước Ngài cho đến đời đời, cùng lời lẽ Ngài đã truyền cho hàng ngàn thế hệ.
16Ngài luôn nhớ đến giao ước mà Ngài đã lập cùng Áp-ra-ham, và lời thề Ngài đã lập cùng Y-sác.
17Đây là những gì khẳng định cho Gia-cốp làm luật lệ, và cho Y-sơ-ra-ên làm giao ước đời đời.
18Ngài phán: “Ta sẽ ban cho ngươi đất Ca-na-an làm phần cơ nghiệp ngươi.” 19Ta phán điều nầy khi các ngươi chỉ là một số ít người, và làm khách lạ trong xứ.
20Họ đi từ dân nầy qua dân kia, từ nước nầy đến nước khác.
21Ngài không cho ai bức hiếp chúng; Ngài trừng phạt các vua vì cớ họ.
22Ngài phán: “Chớ đụng đến những kẻ chịu xức dầu của ta, và đừng làm hại các tiên tri của ta.” 23Hỡi cả đất, hãy hát ngợi khen cho Đức Giê-hô-va; hãy giảng ra ơn cứu rỗi của Ngài từng ngày một!
24Hãy công bố sự vinh hiển Ngài giữa vòng các dân, mọi việc làm lạ lùng của Ngài giữa vòng các nước. 25Vì Đức Giê-hô-va là lớn, và đáng được ngợi khen, và Ngài đáng kính sợ trên hết các thần.
26Vì hết thảy các thần của những dân tộc vốn là hình tượng, nhưng chính Đức Giê-hô-va là Đấng dựng nên các từng trời.
27Sự vinh hiển, oai nghi ở trong sự hiện diện của Ngài. Sức lực và sự vui mừng ở trong nơi ngự của Ngài. 28Hãy tôn kính Đức Giê-hô-va, hỡi các họ hàng của muôn dân, hãy quy sự vinh hiển và sức lực cho Ngài.
29Hãy quy cho Đức Giê-hô-va sự vinh hiển thích đáng với danh của Ngài. Hãy đem của lễ đến trước mặt Ngài. Hãy sấp mình xuống trước Đức Giê-hô-va trong sự rực rỡ thánh khiết của Ngài. 30Hỡi cả đất, khá run rẩy trước mặt Ngài. Thế gian cũng được vững lập; nó không bị lay động.
31Nguyện các từng trời được vui mừng, và nguyện trái đất được hỉ lạc; nguyện họ nói ra trong các nước: “Đức Giê-hô-va trị vì!” 32Nguyện biển gầm rống lên, và mọi vật trong biển hô to lên với sự vui mừng. Nguyện đồng ruộng sẽ đầy sự vui vẻ, và mọi vật đang ở trong đó!
33Khi ấy, nguyện cây cối trong rừng sẽ hô to mừng rỡ ở trước mặt Đức Giê-hô-va, vì Ngài đến đặng xét đoán thế gian. 34Hãy dâng lời cảm tạ Đức Giê-hô-va, vì Ngài là tốt lành, vì sự thành tín giao ước của Ngài còn đến đời đời.
35Hãy nói: Hỡi Đức Chúa Trời của sự cứu rỗi chúng tôi, xin cứu chúng tôi! Xin hiệp chúng tôi lại, và giải cứu chúng tôi khỏi các nước, hầu cho chúng tôi dâng lời cảm tạ danh thánh Ngài, và khoe mình trong sự ngợi khen Ngài. 36Nguyện Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên được ngợi khen từ đời đời cho đến đời đời! Cả dân sự đều đáp: “A-men!” và ngợi khen Đức Giê-hô-va. 37Vậy, Đa-vít đặt A-sáp và anh em người ở trước hòm giao ước của Đức Giê-hô-va, phục vụ liên tục ở trước hòm giao ước, như công việc từng ngày đòi hỏi.38Ô-bết-Ê-đôm với sáu mươi tám thân tộc người cả thảy. Ô-bết-Ê-đôm, con trai của Giê-đu-thun, cùng với Hô-sa làm người giữ cửa.39Thầy tế lễ Xa-đốc và các thầy tế lễ đồng thời với người cần phải phục vụ ở trước đền tạm của Đức Giê-hô-va, tại đền thờ ở Ga-ba-ôn.40Họ phải dâng của lễ thiêu cho Đức Giê-hô-va liên tục sáng và chiều tuỳ theo mọi sự đã chép trong luật pháp của Đức Giê-hô-va, những mạng lịnh mà Ngài đã ban ra cho Y-sơ-ra-ên;41Hê-man, Giê-đu-thun, có mặt với họ, cùng với phần còn lại những người khác đã được chọn đích danh, dâng lời cảm tạ Đức Giê-hô-va, vì sự thành tín giao ước của Ngài còn đến đời đời.42Hê-man và Giê-đu-thun chỉ huy những người thổi kèn và chập chỏa, cùng các thứ nhạc cụ khác để trổi nhạc thánh lên. Các con trai của Giê-đu-thun đứng gác nơi cửa.43Khi ấy, cả dân sự trở về nhà mình; còn Đa-vít trở về đặng chúc phước cho người nhà của mình. 171Việc xảy ra sau khi nhà vua ở trong cung điện mình, ông nói với tiên tri Na-than rằng: “Nầy, ta ở trong nhà bằng gỗ bá hương, còn hòm giao ước của Đức Giê-hô-va đang ở trong lều trại kìa.”2Khi ấy Na-than thưa với Đa-vít rằng: “Hãy đi, làm theo điều có ở trong lòng vua, vì Đức Chúa Trời ở cùng vua.”3Nhưng trong chính đêm đó, lời của Đức Chúa Trời đã đến cùng Na-than rằng:4“Hãy đi thưa cùng Đa-vít, tôi tớ ta rằng: Đây là điều Đức Giê-hô-va phán: Con chớ cất đền cho ta ở trong đó;5vì ta không sống trong đền nào kể từ ngày ta dẫn Y-sơ-ra-ên lên cho đến ngày nay. Thay vì thế, ta đã ở trong lều trại, đền tạm, ở những địa điểm khác nhau.6Trong mọi chỗ ta dời đi giữa vòng hết thảy dân Y-sơ-ra-ên, ta có bao giờ nói một điều gì cho bất kỳ cấp lãnh đạo nào trong Y-sơ-ra-ên, những kẻ mà ta chỉ định chăn giữ dân sự ta như sau: “Sao các ngươi không cất cho ta một cái đền bằng gỗ bá hương?”7“Bây giờ, hãy nói cho Đa-vít tôi tớ ta như vầy: Đây là những điều Đức Giê-hô-va vạn quân truyền phán: Ta đã bắt ngươi từ đồng cỏ, từ đàng sau những con chiên, hầu cho ngươi sẽ làm vua trên dân Y-sơ-ra-ên ta.8Và ta đã ở với ngươi bất cứ đâu ngươi đi và đã trừ diệt các kẻ thù ngươi khỏi trước mặt ngươi. Và ta sẽ lập cho ngươi một danh; giống như danh của những kẻ cao trọng ở trên đất.9Ta sẽ ấn định một nơi cho dân Y-sơ-ra-ên ta và sẽ vun trồng chúng ở đó, hầu cho chúng sẽ sống trong chính nơi thuộc riêng của chúng và không còn bị khuấy rối nữa. Dân gian ác sẽ chẳng áp bức chúng nữa, như họ đã làm khi trước.10Như chúng đã làm từ những ngày ta đã truyền cho các quan xét cai trị trên dân Y-sơ-ra-ên ta. Và ta sẽ bắt phục các thù nghịch ngươi. Hơn nữa, ta báo cho ngươi biết rằng ta, Đức Giê-hô-va, sẽ cất cho ngươi một cái nhà.11Xảy khi các ngày ngươi đã mãn để ngươi về với các tổ phụ ngươi, ta sẽ dấy dòng dõi ngươi lên sau ngươi, và lập một người trong chính dòng dõi của ngươi; ta sẽ thiết lập vương quốc của người.12Người ấy sẽ cất cho ta một cái đền, và ta sẽ lập ngôi của người cho đến đời đời.13Ta sẽ là cha của người ấy, và người ấy sẽ làm con ta. Ta sẽ không dời sự thành tín giao ước của ta khỏi người, như ta đã cất khỏi Sau-lơ, là kẻ đã cai trị trước ngươi.14Ta sẽ đặt người trên nhà ta và trong nước ta cho đến đời đời; còn ngôi của người sẽ được thiết lập cho đến đời đời.”15Na-than đã nói với Đa-vít và tường thuật lại cho ông nghe các lời nầy, và ông nói cho Đa-vít biết về toàn bộ khải thị nầy.16Khi ấy Vua Đa-vít bước vào và ngồi trước mặt Đức Giê-hô-va; ông nói: Lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời! Tôi là ai và nhà tôi là gì, mà Chúa đem tôi đến chỗ nầy?17Và lạy Chúa, đây là một việc nhỏ ở trước mặt Ngài! Ngài đã phán về nhà của tôi tớ Ngài trong thời gian hầu đến tới đây, và có tỏ cho tôi thấy các thế hệ trong tương lai, lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời!18Chúa làm cho tôi tớ Ngài được tôn trọng như thế, thì Đa-vít còn nói gì được nữa? Ngài đã ban cho tôi tớ Ngài sự công nhận đặc biệt nầy.19Lạy Đức Giê-hô-va, vì cớ tôi tớ Ngài, và để làm phu phỉ mục đích của Ngài, Ngài đã làm việc lớn lao nầy để tỏ ra mọi việc làm cả thể của Ngài.20Lạy Đức Giê-hô-va, chẳng có ai giống như Ngài, và chẳng có Thần nào ở bên cạnh Ngài, giống như chúng tôi luôn nghe nói.21Và có dân nào trên đất giống như Y-sơ-ra-ên dân sự Ngài, là dân mà Ngài, lạy Đức Chúa Trời, đã giải cứu khỏi Ai-cập làm một dân cho riêng Ngài, để lập một danh cho chính Ngài qua các việc làm cả thể đáng kính đáng sợ hay không? Ngài đánh đuổi các dân khỏi trước mặt dân sự Ngài, là dân mà Ngài đã giải cứu khỏi Ai-cập.22Ngài đã lập Y-sơ-ra-ên là tuyển dân của riêng Ngài cho đến đời đời, và Ngài, hỡi Đức Giê-hô-va, Ngài đã trở nên Đức Chúa Trời của họ.23Vậy bây giờ, lạy Đức Giê-hô-va! Nguyện lời hứa mà Ngài đã lập về tôi tớ Ngài và về nhà của nó được thiết lập cho đến đời đời, nguyện Chúa cứ làm y như Ngài đã phán.24Nguyện danh của Ngài được thiết lập cho đến đời đời và được cả thể, để người ta nói rằng: Đức Giê-hô-va vạn quân, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, trong khi nhà của tôi, là Đa-vít, là tôi tớ Chúa, được thiết lập trước mặt Ngài!25Lạy Đức Chúa Trời! Vì Ngài đã tỏ ra cho kẻ tôi tớ Chúa biết rằng Ngài sẽ xây một cái nhà cho nó. Đấy là lý do tại sao tôi, là tôi tớ Ngài, đã tìm được lòng dạn dĩ để cầu nguyện với Ngài.26Bây giờ, lạy Đức Giê-hô-va! Ngài là Đức Chúa Trời, và đã lập lời hứa tốt lành nầy với tôi tớ Ngài:27Bây giờ, nguyện Ngài đẹp lòng chúc phước cho nhà của tôi tớ Ngài, hầu cho nó sẽ tiếp tục ở trước mặt Ngài cho đến đời đời. Lạy Đức Giê-hô-va! Ngài đã chúc phước cho nó, thì nó sẽ được phước cho đến đời đời. 181Sau việc ấy, Đa-vít tấn công dân Phi-li-tin và đánh bại chúng. Ông chiếm lấy Gát cùng các làng mạc nó khỏi quyền quản trị của dân Phi-li-tin.2Khi ấy, ông đánh bại Mô-áp; và dân Mô-áp trở thành tôi tớ cho Đa-vít, và nộp cống thuế cho người.3Đa-vít tiếp đến đánh bại Ha-đa-rê-xe, vua Xô-ba, tại Ha-mát, khi Ha-đa-rê-xe đi lập quyền cai trị của ông ta bên sông Ơ-phơ-rát.4Đa-vít chiếm của người một ngàn cỗ xe, bảy ngàn lính kỵ, và hai vạn lính bộ. Đa-vít cắt nhượng của các ngựa kéo xe, nhưng chừa lại đủ số để kéo một trăm chiến xa.5Khi dân A-ram ở Đa-mách đến cứu giúp Ha-đa-rê-xe, vua Xô-ba, Đa-vít giết chúng hai mươi hai ngàn người.6Rồi Đa-vít lập đồn trong xứ A-ram của Đa-mách, và dân A-ram trở thành tôi tớ ông, và nộp cống thuế cho người. Đức Giê-hô-va ban chiến thắng cho Đa-vít bất cứ đâu ông đi đến.7Đa-vít chiếm lấy những thuẩn bằng vàng của các tôi tớ Ha-đa-rê-xe, rồi đem chúng về Giê-ru-sa-lem.8Từ Ti-bát và Cun, hai thành của Ha-đa-rê-xe, Đa-vít chiếm lấy rất nhiều đồng. Chính với đồng nầy mà Sa-lô-môn về sau dùng làm cái biển bằng đồng, các trụ và trang thiết bị bằng đồng.9Khi Tô-hu, vua Ha-mát, hay rằng Đa-vít đã đánh bại cả quân đội của Ha-đa-rê-xe, vua Xô-ba,10Thì sai Ha-đô-ram, con trai người, đến chào mừng và ngợi khen Vua Đa-vít, vì Đa-vít đã giao chiến với Ha-đa-rê-xe, và đã đánh bại người; và vì Ha-đa-rê-xe và Tô-hu thường giao chiến với nhau luôn; Ha-đô-ram đem theo với mình các đồ vật bằng vàng, bạc, và đồng.11Vua Đa-vít cũng dâng các đồ vật nầy cho Đức Giê-hô-va, cùng với bạc và vàng mà người đã chiếm lấy từ các nước, Ê-đôm, Mô-áp, dân Am-môn, dân Phi-li-tin, và dân A-ma-léc.12A-bi-sai, con trai của Xê-ru-gia, giết tại trong trũng Muối mười tám ngàn người Ê-đôm.13Người dựng đồn luỹ tại Ê-đôm, và cả dân Ê-đôm đều trở thành tôi tớ của Đa-vít. Đức Giê-hô-va đã ban chiến thắng cho Đa-vít bất cứ đâu người đi đến.14Đa-vít đã trị vì trên cả Y-sơ-ra-ên, và ông quản trị ngay thẳng và công bình đối với hết thảy dân sự của người.15Giô-áp, con trai của Xê-ru-gia, là quan tổng binh của quân đội; Giô-sa-phát con trai của A-hi-lút, làm quan thái sử.16Xa-đốc, con trai của A-hi-túp, và A-bi-mê-léc, con trai của A-bia-tha, làm thầy tế lễ; Sa-vê-sa làm quan ký lục.17Bê-na-gia, con trai của Giê-hô-gia-đa, cai quản người Kê-rê-thít và người Phê-lê-thít, còn các con trai Đa-vít đều là tư vấn hàng đầu của nhà vua. 191Sau các việc đó, Na-hách, vua dân Am-môn, qua đời, và con trai lên làm vua trong chỗ của người.2Đa-vít nói: Ta muốn tỏ ra tử tế với Ha-nun con trai của Na-hách, vì cha người đã tỏ ra tử tế với ta. Đa-vít sai những sứ giả đến yên ủi người về việc cha người. Các đầy tớ của Đa-vít bước vào xứ của dân Am-môn, đến gặp Ha-nun đặng yên ủi người.3Nhưng các quan trưởng dân Am-môn trình với Ha-nun rằng: “Có phải vua thực sự nghĩ rằng Đa-vít tôn trọng cha vua vì ông ta sai người đến yên ủi vua chăng? Có phải các tôi tớ hắn đã đến gặp vua để dò xét xứ để rồi lật đổ nó chăng?4Vậy Ha-nun bắt lấy các tôi tớ của Đa-vít, cạo râu họ đi, cắt áo họ từ lưng trở xuống, rồi đuổi họ về.5Khi họ giải thích điều nầy cho Đa-vít nghe; ông sai đi đón họ về, vì họ lấy làm xấu hổ lắm. Nhà vua nói: Hãy ở lại Giê-ri-cô cho đến khi râu các ngươi khởi mọc lại, bấy giờ sẽ trở về.”6Khi dân Am-môn thấy rằng họ rất hôi thối đối với Đa-vít, Ha-nun và dân Am-môn bèn sai người đem một ngàn ta lâng bạc đến thuê xe và lính kỵ của người A-ram, Ma-a-ca, và Xô-ba7Chúng thuê cho mình ba mươi hai ngàn chiến xa với vua xứ Ma-a-ca cùng dân của người; chúng kéo đến đóng tại trước Mê-đê-ba. Dân Am-môn tự tập trung lại từ các thành của họ đặng giao chiến.8Khi Đa-vít hay điều đó, ông sai Giô-áp cùng cả quân đội ra đón họ.9Dân Am-môn kéo ra, dàn trận nơi cửa thành; trong khi các vua tự họ đến đóng riêng ra trong đồng bằng.10Khi Giô-áp thấy hàng ngũ bãi chiến trường trước và sau mình, ông chọn một số chiến binh giỏi nhất của Y-sơ-ra-ên dàn ra đối địch với người A-ram;11Với phần quân lính còn lại, ông giao cho quan tổng binh A-bi-sai, em mình; rồi ông dàn quân giao chiến với quân đội của Am-môn.12Giô-áp nói: Nếu người A-ram quá mạnh đối với anh, thế thì A-bi-sai, em phải giải cứu anh. Còn nếu quân Am-môn quá mạnh đối với em, thì anh sẽ đến giải cứu em.13Khá vững lòng; và chúng ta phải mạnh mẽ lên vì dân ta, vì các thành của Đức Chúa Trời ta, vì Đức Giê-hô-va sẽ làm điều chi là tốt lành vì mục đích của Ngài.14Vậy, Giô-áp và quân lính trong quân đội của người tiến ra trận giao chiến với người A-ram; họ buộc phải trốn chạy trước mặt quân đội Y-sơ-ra-ên.15Khi quân đội của Am-môn thấy quân A-ram đã chạy trốn, thì họ cũng chạy trốn khỏi trước mặt A-bi-sai, em của Giô-áp, mà trở vào thành. Khi ấy, Giô-áp trở về lại thành Giê-ru-sa-lem từ cuộc giao chiến với quân A-ram.16Rồi khi quân A-ram thấy rằng họ bị dân Y-sơ-ra-ên đánh bại, họ sai tìm viện binh ở bên kia sông Ơ-phơ-rát, với Sô-phác, quan tổng binh quân đội của Ha-đa-rê-xe.17Khi Đa-vít hay điều đó, liền tập trung cả Y-sơ-ra-ên lại, băng qua sông Giô-đanh, rồi đến cùng quân A-ram. Ông sắp đặt quân đội lo giao chiến với người A-ram, và họ giao chiến với ông.18Quân Sy-ri bỏ chạy trước mặt Y-sơ-ra-ên; và Đa-vít giết bảy ngàn lính cầm xe, bốn vạn lính bộ của quân A-ram. Ông cũng giết Sô-phác, quan tổng binh của quân đội ấy.19Khi hết thảy các vua nào là đầy tớ của Ha-đa-rê-xe nhìn thấy chúng bị dân Y-sơ-ra-ên đánh bại, họ lập hòa ước cùng Đa-vít và phục dịch người. Vậy dân A-ram chẳng còn muốn giúp đỡ dân Am-môn nữa. 201Qua năm mới, vào thời điểm các vua thường lâm chiến, Giô-áp chỉ huy quân đội ra trận tàn phá đất của người Am-môn. Ông đến vây thành Ráp-ba; còn Đa-vít ở lại thành Giê-ru-sa-lem. Giô-áp tấn công Ráp-ba, và đánh bại nó.2Đa-vít lấy vương miện vua của dân Am-môn khỏi đầu người, và ông thấy nó cân nặng cả ta-lâng vàng, và trên đó có nạm đá quí nữa. Vương miện được đội lên đầu của Đa-vít, và ông thu lấy chiến lợi phẩm rất nhiều với số lượng rất lớn từ trong thành.3Ông bắt dân trong thành, buộc họ phải lao động với cưa và bừa hay rìu sắt. Đa-vít buộc các thành của dân Am-môn phải lao dịch như thế. Khi ấy, Đa-vít và cả quân đội trở về lại thành Giê-ru-sa-lem.4Sau việc nầy, có bãi chiến trường ở Ghê-xe với dân Phi-li-tin. Si-bê-cai, người Hu-sa-tít, đánh giết Síp-bai, vốn là một trong dòng dõi những kẻ giềnh giàng, và dân Phi-li-tin bị bắt phục.5Lại nữa, có một bãi chiến trường với dân Phi-li-tin tại Gốp, En-ha-nan, con trai của Giai-rơ người Bên-gia-min, đã giết Lác-mi, em của Gô-li-át, người Gát; cái cán giáo của hắn giống như cây trục của thợ dệt.6Lại có một trận đánh khác tại Gát; có một người tướng tá cao lớn, mỗi bàn tay có sáu ngón và mỗi bàn chân có sáu ngón cái. Hắn cũng là dòng dõi của những người giềnh giàng ra từ Rê-pha-im.7Khi hắn chế giễu quân đội của Y-sơ-ra-ên; Giô-na-đáp, con trai của Si-mê-a, em của Đa-vít, đã giết người đi.8Đây là dòng dõi của Rê-pha-im xứ Gát; và chúng đều bị giết bởi tay Đa-vít và bởi tay các chiến binh người giết đi. 211Một kẻ nghịch dấy lên chống lại Y-sơ-ra-ên rồi giục Đa-vít kê số Y-sơ-ra-ên.2Đa-vít nói với Giô-áp cùng các quan trưởng của quân đội rằng: Hãy đi, kê số dân Y-sơ-ra-ên, từ Bê-e-Sê-ba cho đến Đan; rồi tường trình lại cho ta, để ta biết sĩ số của họ.”3Giô-áp nói: Nguyện Đức Giê-hô-va làm cho quân đội ông tăng gấp trăm lần như đang có! Nhưng hỡi vua chúa tôi! Chẳng phải hết thảy họ đều lo phục vụ chúa tôi hay sao? Tại sao chúa tôi muốn làm việc nầy chớ? Tại sao lại muốn đem tội lỗi giáng trên Y-sơ-ra-ên?”4Nhưng lời của vua sau cùng chống lại Giô-áp. Vì vậy, Giô-áp bước ra, đi khắp Y-sơ-ra-ên. Khi ấy ông về lại thành Giê-ru-sa-lem.5Thế rồi Giô-áp tường trình tổng số chiến binh cho Đa-vít. Đã có trong cả Y-sơ-ra-ên được 1. 100. 000 người cầm gươm. Trong Giu-đa được 470. 000 chiến binh.6Nhưng người Lê-vi và người Bên-gia-min thì không tính đến; vì lịnh của vua làm cho Giô-áp không hài lòng.7Đức Chúa Trời buồn lòng bởi sự việc nầy; nên Ngài đã tấn công Y-sơ-ra-ên.8Đa-vít thưa với Đức Chúa Trời rằng: “Tôi đã phạm tội trọng do việc làm nầy. Giờ đây, xin hãy cất lấy tội ác của kẻ tôi tớ Chúa đi; vì tôi có làm cách ngu dại.”9Đức Giê-hô-va phán với Gát, là tiên tri của Đa-vít:10Hãy đi nói với Đa-vít: “Đây là điều Đức Giê-hô-va phán: “Ta sẽ ban cho ngươi ba sự chọn lựa. Hãy chọn lấy một trong số chúng.”11Vì vậy Gát đến gặp Đa-vít, rồi nói với ông như sau: “Đức Giê-hô-va phán như vầy: Hãy chọn một trong số nầy:12hoặc ba năm đói kém, hoặc ba tháng bị truy đuổi tại trước mặt kẻ thù ngươi, và bị hại bởi gươm của họ, hay là bị ba ngày gươm của Đức Giê-hô-va, nghĩa là ôn dịch ở trong xứ, với thiên sứ của Đức Giê-hô-va hủy diệt trong khắp xứ của Y-sơ-ra-ên. Vậy bây giờ, hãy định lấy điều nào để tôi phải tâu lại cùng Đấng đã sai tôi.”13Lúc đó Đa-vít nói với Gát rằng: Ta bối rối lắm đây. Nguyện ta sa vào tay Đức Giê-hô-va thay vì tay của người ta, vì những hành động thương xót của Ngài là rất lớn.14Thế là Đức Giê-hô-va bèn giáng ôn dịch lên Y-sơ-ra-ên; có bảy mươi ngàn người ngã chết.15Đức Chúa Trời sai một thiên sứ đến Giê-ru-sa-lem đặng hủy diệt nó. Khi thiên sứ sắp sửa huỷ diệt nó, Đức Giê-hô-va quan sát thấy rồi Ngài đổi ý về tổn hại nầy. Ngài nói với thiên sứ huỷ diệt rằng: “Đủ rồi! Bây giờ hãy rút tay ngươi lại.” Lúc đó thiên sứ của Đức Giê-hô-va đang đứng gần sân đạp lúa của Ọt-nan, người Giê-bu-sít.16Đa-vít nhìn lên, thấy thiên sứ của Đức Giê-hô-va đứng giữa trời và đất, có gươm trần trong tay Ngài hướng về thành Giê-ru-sa-lem. Lúc đó, Đa-vít cùng các trưởng lão, mặc bao gai, liền sấp mình xuống đất.17Đa-vít thưa cùng Đức Chúa Trời rằng: “Chẳng phải là tôi đã truyền kê số dân sao? Tôi đã làm việc gian ác nầy. Còn các con chiên kia, họ đã làm gì chứ? Giê-hô-va Đức Chúa Trời tôi ôi! Xin tay Chúa hãy sửa phạt tôi và nhà tôi; nhưng chớ trừng phạt dân sự của Chúa với dịch lệ nầy.”18Thế là thiên sứ của Đức Giê-hô-va truyền cho Gát nói với Đa-vít, rằng Đa-vít phải đi lên rồi xây một bàn thờ cho Đức Giê-hô-va tại sân đạp lúa của Ọt-nan, người Giê-bu-sít.19Đa-vít đi lên theo sự dặn dò của Gát phải làm trong danh của Đức Giê-hô-va.20Khi Ọt-nan đang đạp lúa, ông xây lại nhìn thấy thiên sứ. Ông và bốn con trai cùng với ông đều ẩn mình đi.21Khi Đa-vít đến gặp Ọt-nan, Ọt-nan nhìn thấy Đa-vít. Ông rời sân đạp lúa, sấp mình xuống đất trước mặt Đa-vít.22Lúc đó Đa-vít nói với Ọt-nan rằng: Hãy bán cho ta chỗ sân đạp lúa nầy, để ta có thể xây một bàn thờ cho Đức Giê-hô-va. Ta sẽ hãy trả giá đầy đủ, hầu cho tai vạ dừng lại trên dân sự.”23Ọt-nan thưa với Đa-vít rằng: Vua hãy lấy nó theo ý vua, hỡi vua chúa tôi. Hãy làm với nó điều gì là tốt lành trong mắt vua. Kìa, tôi dâng bò cho vua dùng làm của lễ thiêu, cộ sân đạp lúa dùng làm củi, và lúa miến để dùng làm của lễ chay; tôi dâng cả thảy cho vua.”24Vua Đa-vít nói cùng Ọt-nan rằng: “Không, ta khẳng định về việc mua nó theo đúng giá bạc. Ta chẳng muốn lấy vật gì của ngươi rồi dâng cho nó làm của lễ thiêu cho Đức Giê-hô-va, nếu vật ấy không đáng giá gì với ta.”25Vậy, Đa-vít trả sáu trăm siếc-lơ vàng mua chỗ sân ấy.26Đa-vít xây một bàn thờ cho Đức Giê-hô-va tại đó và dâng những của lễ thiêu, của lễ chay. Ông cầu khẩn Đức Giê-hô-va; Ngài đáp lời ông bằng lửa từ trời giáng trên bàn thờ về của lễ thiêu.27Khi ấy Đức Giê-hô-va truyền lịnh cho thiên sứ, và thiên sứ bèn tra gươm mình vào vỏ.28Khi Đa-vít thấy Đức Giê-hô-va đã nhậm lời mình tại sân đạp lúa của Ọt-nan, người Giê-bu-sít, ông dâng của lễ tại đó cùng lúc ấy.29Lúc bấy giờ, đền tạm của Đức Giê-hô-va mà Môi-se đã dựng lên trong đồng vắng, và cái bàn thờ về của lễ thiêu, còn ở nơi cao tại Ga-ba-ôn.30Tuy nhiên, Đa-vít không thể đi đến đó để cầu xin hướng dẫn của Đức Chúa Trời; bởi vì ông lấy làm kinh hãi gươm của thiên sứ Đức Giê-hô-va. 221Đa-vít nói: “Đây là chỗ sẽ đặt đền của Giê-hô-va Đức Chúa Trời, với bàn thờ để dâng của lễ thiêu của Y-sơ-ra-ên.”2Đa-vít truyền cho các tôi tớ ông phải tập trung người ngoại bang sống trong xứ Y-sơ-ra-ên. Ông phân công họ làm thợ đục đá, để cắt các khối đá, để cất đền của Đức Chúa Trời.3Đa-vít cung ứng một số lượng sắt thật nhiều, để làm đinh cho các cánh cửa và bản lề nơi lối cổng vào. Ông cũng cung ứng nhiều đồng không thể cân được,4và nhiều gỗ bá hương không tính được. (Dân Si-đôn và dân Ty-rơ mang nhiều gỗ bá hương đến đến nỗi vua Đa-vít không tính được).5Đa-vít nói: “Sa-lô-môn, con trai ta, hãy còn nhỏ và chưa có kinh nghiệm, còn cái đền sẽ cất cho Đức Giê-hô-va phải thật đặc biệt oai nghi, hầu cho đền ấy được nổi tiếng và vinh hiển trong mọi xứ. Vì vậy, ta sẽ sắm sẵn cho việc xây dựng đền ấy. Thế là, Đa-vít lo sắm sẵn nhiều thứ trước khi người qua đời.6Bấy giờ, ông cho đòi Sa-lô-môn, con trai mình đến rồi truyền dặn người phải cất một cái đền cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.7Đa-vít nói với Sa-lô-môn: “Hỡi con, cất một cái cung điện cho ta là dự tính của ta, vì danh của Giê-hô-va Đức Chúa Trời,8nhưng Đức Giê-hô-va đến cùng ta mà phán rằng: ‘ngươi đã làm đổ nhiều huyết và đã tham dự nhiều trận đánh. Ngươi sẽ không xây một ngôi đền cho ta, vì ngươi đã làm đổ huyết ra quá nhiều trước mặt ta trên đất.9Tuy nhiên, ngươi sẽ có một con trai, người ấy sẽ là người của hoà bình. Ta sẽ ban cho người yên nghỉ khỏi các thù nghịch ở bốn phía. Vì tên nó sẽ là Sa-lô-môn, và ta sẽ ban sự bình an và yên tịnh cho Y-sơ-ra-ên trong đời nó.10Nó sẽ cất một cái đền cho danh ta. Nó sẽ làm con trai ta, và ta sẽ làm cha nó. Ta sẽ lập ngôi nước nó trên Y-sơ-ra-ên cho đến đời đời.11Bây giờ, hỡi con trai ta, nguyện Đức Giê-hô-va ở cùng con và giúp cho con được thành công. Nguyện con sẽ cất cái đền cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời của con, theo như lời Ngài đã phán con sẽ lo việc ấy.12Nguyện Đức Giê-hô-va ban cho con sự khôn ngoan thông sáng, hầu cho con vâng theo luật pháp của Giê-hô-va Đức Chúa Trời của con, khi Ngài đặt con làm vua trên Y-sơ-ra-ên.13Khi ấy, con sẽ thành công, nếu con cẩn thận vâng theo giới mạng và lịnh lạc mà Đức Giê-hô-va đã ban cho Môi-se truyền lại cho Y-sơ-ra-ên. Khá vững lòng bền chí. Chớ sợ hãi hoặc chớ ngã lòng.14Bây giờ, hãy xem đây, với nỗ lực lớn lao ta đã sắm sẵn cho đền của Đức Giê-hô-va 100. 000 ta lâng vàng, 1. 000. 000 ta lâng bạc; còn đồng và sắt thì với số lượng nhiều lắm. Ta cũng cung ứng gỗ và đá. Con phải thêm nhiều vào số đó.15Con có nhiều nhân công với con: thợ đục đá, thợ hồ, thợ mộc, và nhiều thợ thạo về các thứ công việc,16họ có thể ra công với vàng, bạc, đồng, và sắt. Vậy, hãy khởi công đi, và nguyện Đức Giê-hô-va ở cùng con.”17Đa-vít cũng truyền dặn các quan trưởng Y-sơ-ra-ên lo giúp đỡ Sa-lô-môn, con trai người, như sau:18Nguyện Giê-hô-va Đức Chúa Trời ở cùng các ngươi và đã ban bình an bốn phía. Ngài đã phó dân của xứ vào tay ta. Xứ đã bị bắt phục ở trước mặt Đức Giê-hô-va và trước mặt dân sự Ngài.19Vậy bây giờ, hãy hết lòng hết linh hồn mà tìm cầu Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ngươi. Hãy chổi dậy và xây cất đền thánh cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời. Tiếp đến các ngươi sẽ đặt hòm giao ước của Đức Giê-hô-va cùng các khí dụng thuộc về Đức Chúa Trời trong ngôi đền dành cho danh của Đức Giê-hô-va. 231Khi Đa-vít đã già và đang ở gần cuối đời mình, ông đưa Sa-lô-môn, con trai mình, lên làm vua Y-sơ-ra-ên.2Ông tập trung các quan trưởng Y-sơ-ra-ên lại, cùng với những thầy tế lễ và người Lê-vi.3Người Lê-vi từ ba mươi tuổi trở lên được kê sổ. Họ đếm được 38. 000 người.4Trong số nầy, có 24. 000 người lo việc giám sát công việc của đền Đức Giê-hô-va; và 6. 000 người đều làm quan cai và quan xét.554. 000 người làm kẻ canh cửa; và 4. 000 người ngợi khen Đức Giê-hô-va bằng nhạc cụ “mà ta làm cho sự thờ phượng”, Đa-vít nói.6Đa-vít phân họ theo từng nhóm tương ứng với ba con trai của Lê-vi, là Ghẹt-sôn, Kê-hát, và Mê-ra-ri.7Từ các họ hàng ra từ Ghẹt-sôn có La-ê-đan và Si-mê-i.8Có ba con trai của La-ê-đan là Giê-hi-ên lãnh đạo, Xê-tham, và Giô-ên.
9Có ba con trai của Si-mê-i là Sê-lô-mít, Ha-xi-ên, và Ha-ran. Đây là các trưởng của họ hàng La-ê-đan. 10Có bốn con trai của Si-mê-i là Gia-hát, Xi-xa, Giê-úc, và Bê-ri-a.
11Gia-hát con cả, Xi-xa con thứ; nhưng Giê-úc và Bê-ri-a không có nhiều con; nên họ bị xem là một họ với cùng bổn phận. 12Có bốn con trai của Kê-hát là Am-ram, Dít-sê-ha, Hếp-rôn, U-xi-ên.13Đây là các con trai của Am-ram là A-rôn và Môi-se. A-rôn và dòng dõi của ông được chọn theo cơ sở thường trực để dâng các thứ hoàn toàn thuộc về Đức Giê-hô-va, và xông hương cho Đức Giê-hô-va, và đời đời hầu việc Ngài, cũng như nhân danh Ngài mà chúc phước cho dân sự.
14Nhưng về phần Môi-se, người của Đức Chúa Trời, các con trai người đều được kể là người Lê-vi. 15Các con trai của Môi-se là Ghẹt-sôn và Ê-li-ê-xe.
16Dòng dõi của Ghẹt-sôn là Sê-bu-ên con trưởng.
17Dòng dõi của Ê-li-ê-xe là Rê-ha-bia. Ê-li-ê-xe không có con trai nào khác; nhưng Rê-ha-bia có nhiều dòng dõi lắm.
18Con trai của Dít-sê-ha là Sê-lô-mít làm trưởng. 19Dòng dõi của Hếp-rôn là Giê-ri-gia con cả; A-ma-ria thứ nhì; Gia-ha-xi-ên thứ ba; và Giê-ca-mê-am thứ tư.
20Các con trai của U-xi-ên là Mi-ca con cả; và Di-si-gia con thứ. 21Các con trai của Mê-ra-ri là Mác-li và Mu-si. Các con trai của Mác-li là Ê-lê-a-sa và Kích.22Ê-lê-a-sa chết, không có con cái chi hết. Ông chỉ có con gái mà thôi. Các con trai của Kích cưới chúng nó làm vợ.
23Ba con trai của Mu-si là Mác-li, Ê-đe và Giê-rê-mốt. 24Cũng có dòng dõi của Lê-vi tuỳ theo họ hàng của họ. Họ là cấp lãnh đạo, được kê số đích danh, các họ hàng đã làm công việc trong đến của Đức Giê-hô-va từ hai mươi tuổi trở lên.25Vì Đa-vít nói: Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đã ban sự yên nghỉ cho dân sự Ngài. Ngài lập đền của Ngài ngự tại Giê-ru-sa-lem cho đến đời đời.26Người Lê-vi cũng sẽ chẳng còn cần khiêng vác đền tạm cùng các trang thiết bị được sử dụng trong sự thờ phượng ở đó nữa.27Vì theo lời trối của Đa-vít, người Lê-vi được kê số từ hai mươi tuổi sấp lên.28Bổn phận của họ là trợ giúp dòng dõi của A-rôn trong sự thờ phượng ở đền Đức Giê-hô-va. Họ cần phải chăm sóc hành lang và các phòng, giữ tinh sạch các vật thánh thuộc về Đức Giê-hô-va, và công việc khác trong sự thờ lạy ở đền Đức Chúa Trời:29Họ cũng lo về bánh trần thiết, bột nhất hạng dùng làm của lễ chay, về bánh không men, về các của lễ phải nướng trên vỉ, về các của lễ có trộn dầu, và về các dụng cụ đong đo;30Họ cũng đứng mỗi buổi mai để cảm tạ ngợi khen Đức Giê-hô-va. Họ cũng làm như vậy lúc ban chiều31và bất cứ khi nào của lễ thiêu được dâng lên cho Đức Giê-hô-va, vào ngày sa-bát, và vào những ngày lễ trăng mới, và ngày lễ trọng thể. Một số người, đã được phân công theo lịnh lạc, luôn luôn phải hiện diện trước mặt Đức Giê-hô-va;32Họ chăm lo nơi nhóm lại, nơi thánh, và giúp đỡ dòng dõi của A-rôn, là anh em của họ trong sự thờ phượng ở đền Đức Giê-hô-va. 241Nhóm công tác chiếu theo dòng dõi của A-rôn là đây: Na-đáp, A-bi-hu, Ê-lê-a-sa, và Y-tha-ma.2Na-đáp và A-bi-hu qua đời trước cha của họ. Họ không có con cái chi hết; nên Ê-lê-a-sa và Y-tha-ma phục vụ trong vai trò thầy tế lễ.3Đa-vít, cùng với Xa-đốc, một dòng dõi của Ê-lê-a-sa, và A-hi-mê-léc, một dòng dõi của Y-tha-ma, chia họ ra thành các nhóm vì công tác của họ trong vai trò thầy tế lễ.4Đã có nhiều lãnh đạo giữa vòng các dòng dõi của Ê-lê-a-sa hơn trong các dòng dõi của Y-tha-ma; thế nên họ chia các dòng dõi của Ê-lê-a-sa thành 16 nhóm. Họ đã làm như vậy bỡi các trưởng tộc và bởi các dòng dõi của Y-tha-ma. Họ chia ra làm 8, tuỳ theo các họ hàng của họ.5Họ bắt thăm chia chúng ra, vì có nhiều chức vụ thánh và nhiều người phục vụ Đức Chúa Trời, từ cả hai dòng dõi của Ê-lê-a-sa và các dòng dõi của Y-tha-ma.6Sê-ma-gia, con trai của Na-tha-na-ên thầy thông giáo, một người Lê-vi, đã biên tên của họ trong sự hiện diện của nhà vua, các chức sắc, thầy tế lễ Xa-đốc, A-hi-mê-léc con trai của A-bia-tha, và các cấp lãnh đạo các dòng họ thầy tế lễ và người Lê-vi. Một dòng họ được bắt thăm rút ra từ các dòng dõi của Ê-lê-a-sa, rồi kế đó sẽ bắt thăm rút ra từ các dòng dõi của Y-tha-ma.7Cái thăm thứ nhất trúng nhằm Giê-hô-gia-ríp; cái thăm thứ nhì nhằm Giê-đa-ê-gia;
8Cái thăm thứ ba nhằm Ha-rim; cái thăm thứ tư nhằm Sê-ô-rim;9Cái thăm thứ năm nhằm Manh-kia; cái thăm thứ sáu nhằm Mia-min;10Cái thăm thứ bảy nhằm Cốt; cái thăm thứ tám nhằm A-bi-gia;11Cái thăm thứ chín nhằm Giê-sua; cái thăm thứ mười nhằm Sê-ca-nia;12Cái thăm thứ mười một nhằm Ê-li-a-síp; cái thăm thứ mười hai nhằm Gia-kim;13Cái thăm thứ mười ba nhằm Húp-ba; cái thăm thứ mười bốn nhằm Giê-sê-báp;14Cái thăm thứ mười lăm nhằm Binh-ga; cái thăm thứ mười sáu nhằm Y-mê;15Cái thăm thứ mười bảy nhằm Hê-xia; cái thăm thứ mười tám nhằm Phi-xết;16Cái thăm thứ mười chín nhằm Phê-ta-hia, cái thăm thứ hai mươi nhằm Ê-xê-chi-ên;17Cái thăm thứ hai mươi mốt nhằm Gia-kin; cái thăm thứ hai mươi hai nhằm Ga-mun;18Cái thăm thứ hai mươi ba nhằm Đê-la-gia; cái thăm thứ hai mươi bốn nhằm Ma-a-xia.19Đây là ban bệ công việc của họ, khi họ vào trong đền của Đức Giê-hô-va, theo thủ tục được ban cho bởi A-rôn, tổ phụ của họ, y như Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đã phán dặn người.20Đây là phần còn lại của dòng dõi Lê-vi: dòng dõi của Am-ram có Su-ba-ên. Dòng dõi của Su-ba-ên có Giê-đia.21Dòng dõi của Am-ram có Di-si-gia làm trưởng.
22Dòng dõi của Dít-sê-ha có Sê-lô-mốt; về con cháu Sê-lô-mốt có Gia-hát. 23Dòng dõi của Hếp-rôn có Giê-ri-gia, con cả, A-ma-ria thứ nhì, Gia-ha-xi-ên thứ ba, và Gia-ca-mê-am thứ tư.
24Dòng dõi của U-xi-ên có Mi-ca; về dòng dõi Mi-ca có Sa-mia.
25Anh em của Mi-ca là Dít-hi-gia; về con cháu Dít-hi-gia có Xa-cha-ri. 26Dòng dõi của Mê-ra-ri là Mác-li và Mu-si. Dòng dõi của Gia-a-xi-gia là Bê-nô,
27Dòng dõi của Mê-ra-ri là Gia-a-xia, Bê-nô, Sô-ham, Xác-cua, và Y-bê-ri.28Dòng dõi của Mác-li là Ê-lê-a-sa, là người không có con cái chi hết. 29Dòng dõi của Kích có Giê-rác-mê-ên.
30Dòng dõi của Mu-si là Mác-li, Ê-đe và Giê-ri-mốt. Đây là người Lê-vi, tùy theo họ hàng của họ
31Những người nầy cũng được bóc thăm trong sự hiện diện của Vua Đa-vít, Xa-đốc, và A-hi-mê-léc, và các cấp lãnh đạo những họ hàng của những thầy tế lễ và người Lê-vi. Các gia đình của những người con cả cũng phải bắt thăm với các gia đình của người con út. Họ bắt thăm y như các dòng dõi của A-rôn đã bắt thăm. 251Đa-vít và các cấp lãnh đạo công việc đền tạm đã chọn một số con cái của của A-sáp, Hê-man và Giê-đu-thun làm công việc. Những người nầy đã nói tiên tri với đàn cầm, các nhạc cụ bằng dây, và chập chỏa. Đây là danh sách những kẻ làm công việc nầy:2Về các con cái của A-sáp, có Xác-cua, Giô-sép, Nê-tha-nia, và A-sa-rê-la, đều là con trai của A-sáp, dưới sự hướng dẫn của A-sáp, họ đã nói tiên tri dưới sự giám sát của nhà vua.3Về các con cái của Giê-đu-thun có Ghê-đa-lia, Xê-ri, Giê-sai-a, Si-mê-i, Ha-sa-bia, và Ma-ti-thia, sáu người cả thảy, đều ở dưới sự hướng dẫn của Giê-đu-thun, cha chúng, họ dùng đàn cầm dâng lời cảm tạ và ngợi khen Đức Giê-hô-va.4Về các con cái của Hê-man: Búc-ki-gia, Ma-tha-nia, U-xi-ên, Sê-bu-ên, và Giê-ri-mốt, Ha-na-nia, Ha-na-ni, Ê-li-a-tha, Ghi-đanh-thi, Rô-mam-ti Ê-xe, Giốt-bê-ca-sa, Ma-lô-thi, Hô-thia, và Ma-ha-xi-ốt.
5Hết thảy những người đó đều là con cái của Hê-man, tiên tri của nhà vua. Đức Chúa Trời đã ban cho Hê-man mười bốn con trai và ba con gái để tôn vinh Ngài6Hết thảy các người ấy đều ở dưới sự hướng dẫn của cha họ. Họ là những nhạc sĩ trong nhà của Đức Giê-hô-va, với chập choả và các nhạc cụ bằng dây khi họ phục vụ trong nhà của Đức Chúa Trời. A-sáp, Giê-đu-thun, và Hê-man, đều ở dưới quyền giám sát của nhà vua.7Họ cùng các anh em mình có tài khéo và được dạy dỗ để làm nhạc cho Đức Giê-hô-va, kê số được hai trăm tám mươi tám người.8Họ bắt thăm về bổn phận mình, bất kể lớn hay nhỏ, giáo sư cũng như học viên.9Giờ đây, hãy xem các con trai của A-sáp: thăm thứ nhứt nhằm vào gia đình vào của Giô-sép, thăm thứ nhì nhằm vào gia đình của Ghê-đa-lia; kê số mười hai người.
10Thăm thứ ba nhằm vào Xác-cua, các con trai và thân tộc người, kê số mười hai người;11thăm thứ tư nhằm vào Dít-sê-ri, các con trai và thân tộc người, kê số mười hai người;12thăm thứ năm nhằm vào Nê-tha-nia, các con trai và thân tộc người, kê số mười hai người;13thăm thứ sáu nhằm vào Búc-ki-gia, các con trai và thân tộc người, kê số mười hai người;14thăm thứ bảy nhằm vào Giê-sa-rê-la, các con trai và thân tộc người, kê số mười hai người;15thăm thứ tám nhằm vào Giê-sai, các con trai và thân tộc người, kê số mười hai người;16thăm thứ chín nhằm vào Ma-tha-nia, các con trai và thân tộc người, kê số mười hai người;17thăm thứ mười nhằm vào Si-mê-i; các con trai và thân tộc người, kê số mười hai người;18thăm thứ mười một nhằm vào A-xa-rên, các con trai và thân tộc người, kê số mười hai người;19thăm thứ mười hai nhằm vào Ha-sa-bia, các con trai và thân tộc người, kê số mười hai người;20thăm thứ mười ba nhằm vào Su-ba-ên, các con trai và thân tộc người, kê số mười hai người;21thăm thứ mười bốn nhằm vào Ma-ti-thia, các con trai và thân tộc người, kê số mười hai người;22thăm thứ mười lăm nhằm vào Giê-rê-mốt, các con trai và thân tộc người, kê số mười hai người;23thăm thừ mười sáu nhằm vào Ha-na-nia, các con trai và thân tộc người, kê số mười hai người;24thăm thứ mười bảy nhằm vào Giốt-bê-ca-sa, các con trai và thân tộc người, kê số mười hai người;25thăm thứ mười tám nhằm vào Ha-na-ni, các con trai và thân tộc người, kê số mười hai người;26thăm thứ mười chín nhằm vào Ma-lô-thi, các con trai và thân tộc người, kê số mười hai người;27thăm thứ hai mươi nhằm vào Ê-li-gia-ta, các con trai và thân tộc người, kê số mười hai người;28thăm thứ hai mươi mốt nhằm vào Hô-thia, các con trai và thân tộc người, kê số mười hai người;29thăm thứ hai mươi hai nhằm vào Ghi-đanh-thi, các con trai và thân tộc người, kê số mười hai người;30thăm thứ hai mươi ba nhằm vào Ma-ha-xi-ốt, các con trai và thân tộc người, kê số mười hai người;31thăm thứ hai mươi bốn nhằm vào Rô-man-ti-Ê-xe, các con trai và thân tộc người, kê số mười hai người. 261Đây là sự phân chia những người giữ cửa: Từ họ hàng Cô-rê có Mê-sê-lê-mia con trai của Cô-rê, cháu của A-sáp.2Mê-sê-lê-mia có các con trai, là Xa-cha-ri, con trưởng; Giê-đi-a-ên thứ nhì, Xê-ba-đia thứ ba, Giát-ni-ên thứ tư,
3Ê-lam thứ năm, Giô-ha-nan thứ sáu, và Ê-li-ô-ê-nai thứ bảy.4Ô-bết-Ê-đôm có các con trai là Sê-ma-gia con trưởng, Giê-hô-xa-bát thứ nhì, Giô-a thứ ba, Sa-ca thứ tư, Nê-ta-nên thứ năm,
5A-mi-ên thứ sáu, Y-sa-ca thứ bảy, và Phê-u-lê-tai thứ tám; vì Đức Chúa Trời có chúc phước cho Ô-bết-Ê-đôm.6Sê-ma-gia, con trai của ông cũng sanh những con trai, họ cai quản tông tộc mình; vì họ đều là người có nhiều khả năng. 7Các con trai của Sê-ma-gia là Ốt-ni, Rê-pha-ên, Ô-bết, Ên-xa-bát. Thân tộc của họ Ê-li-hu và Sê-ma-kia, cũng là những người có nhiều khả năng.
8Các người đó là dòng dõi của Ô-bết-Ê-đôm. Họ với các con trai và thân tộc của họ, đều là những người có khả năng thạo chức việc mình trong đền tạm. Có sáu mươi hai người trong số họ ra từ Ô-bết-Ê-đôm.
9Mê-sê-lê-mia có các con trai và thân tộc, đều là người có khả năng, cả thảy là mười tám người. 10Hô-sa, dòng dõi của Mê-ra-ri, có các con trai, là Sim-ri làm trưởng (dầu người không phải là con đầu lòng, cha người lập người làm con trưởng),
11Hinh-kia thứ nhì, Tê-ba-lia thứ ba, và Xa-cha-ri thứ tư. Hết thảy các con trai và bà con của Hô-sa, kê sổ là mười ba người.12Những sự phân chia nầy về những kẻ giữ cửa; tuỳ theo cấp lãnh đạo của họ, có nhiều trách nhiệm, giống như các thân tộc họ mà hầu việc trong đền của Đức Giê-hô-va.13Họ theo các gia đình, cả lớn như nhỏ, bắt thăm về mỗi cửa.14Thăm về cửa đông trúng nhằm Sê-lê-mia. Tiếp đến, họ bỏ thăm về cửa bắc, thăm ấy trúng nhằm Xa-cha-ri, con trai Sê-lê-mia, một mưu sĩ thông sáng.15Thăm về cửa nam trúng nhằm Ô-bết-Ê-đôm; và các con trai người được phân công canh giữ kho lương.
16Súp-bim và Hô-sa được phân công cửa tây, cùng với Sa-lê-kết, nơi con đường đi dốc lên. Phiên gác được phân chia cho từng gia đình.17Về cửa đông có sáu người Lê-vi, cửa bắc bốn người một ngày, cửa nam bốn người một ngày, và nơi kho lương có hai cặp.18Ở hành lang về phía tây có bốn người gác: có bốn người trên con đường, và ở hành lang có hai người.19Đó là sự phân chia người giữ cửa. Họ đều là dòng dõi của Cô-rê và Mê-ra-ri.20Trong số người Lê-vi, A-hi-gia quản lý kho tàng của đền Đức Chúa Trời, và kho tàng những vật thuộc về Đức Giê-hô-va.21Dòng dõi của La-ê-đan, ra từ Ghẹt-sôn, và họ là cấp lãnh đạo các gia đình của La-ê-đan, người Ghẹt-sôn, là Giê-hi-ê-li cùng các gia đình người22Xê-tham và Giô-ên, em người, họ giữ nhà kho đền Đức Giê-hô-va.23Đã có những người canh gác rút ra từ họ hàng Am-ram, Dít-sê-ha, Hếp-rôn, và U-xi-ên,24Sê-bu-ên, con của Ghẹt-sôn, cháu của Môi-se, làm quan cai quản kho tàng.25Các thân tộc người ra từ họ hàng của Ê-li-ê-xe: là con trai ông, Gie-sai con trai Rê-ha-bia; Giô-ram con trai Gie-sai; Xiếc-ri, con trai Giô-ram, và Sê-lô-mít, con trai Xiếc-ri.26Sê-lô-mít cùng các thân tộc người đứng quản lý kho các vật thuộc về Đức Giê-hô-va, Vua Đa-vít, các trưởng tộc, quan tướng cai ngàn quân và cai trăm quân, cùng các tướng đạo binh đã biệt riêng ra cho Đức Giê-hô-va.27Họ biệt riêng một số chiến lợi phẩm chiếm được trong chiến tranh đặng dùng xây sửa đền của Đức Giê-hô-va.28Họ cũng coi sóc mọi thứ đã được dâng cho Đức Giê-hô-va bởi tiên tri Sa-mu-ên, Sau-lơ, con trai của Kích, Áp-ne, con trai Nê-rơ, và Giô-áp, con trai Xê-ru-gia. Mọi thứ đã được dâng cho Đức Giê-hô-va ở dưới quyền coi sóc của Sê-lô-mít cùng các thân tộc người.29Trong dòng dõi của Dít-sê-ha, Kê-na-nia và các con trai người coi sóc mọi việc nội bộ của Y-sơ-ra-ên. Họ được lập lên làm quan trưởng và quan xét.
30Trong dòng dõi của Hếp-rôn, Ha-sa-bia và anh em người, 1. 700 người có khả năng, họ coi sóc công việc của Đức Giê-hô-va và công việc của nhà vua. Họ ở bên kia sông Giô-đanh về phía tây. 31Từ dòng dõi của Hếp-rôn, Giê-ri-gia là lãnh đạo của dòng dõi ông, tính từ danh sách các gia đình của họ. Vào năm thứ bốn mươi dưới sự trị vì của Đa-vít, họ xem xét các bản tường trình thì thấy giữa vòng họ nhiều người có khả năng tại Gia-ê-xe trong xứ Ga-la-át.32Giê-ri-gia đã có hai ngàn bảy trăm người thân tộc, họ là cấp lãnh đạo các gia đình. Đa-vít lập họ giám sát trên người Ru-bên, và người Gát, và trên nửa chi phái Ma-na-se, cho từng vấn đề liên quan đến Đức Chúa Trời và các vụ việc của nhà vua. 271Đây là danh sách những trưởng tộc của dân Y-sơ-ra-ên, tức các quan tướng cai ngàn người và cai trăm người, cũng như các tướng lãnh quân đội phục vụ vua theo nhiều cách khác nhau. Từ sự phân chia về mặt quân sự phục vụ từng tháng suốt cả năm. Mỗi đơn vị có 24. 000 người.2Đơn vị cho tháng thứ nhứt là Gia-sô-bê-am, con trai của Xáp-đi-ên. Trong đơn vị người là 24. 000 người.
3Ông có mặt giữa dòng dõi Phê-rết, là chỉ huy các sĩ quan quân đội cho tháng thứ nhứt.4Đơn vị cho tháng thứ nhì là Đô-đai, là dòng dõi của A-hô-ha; Mích-lô làm thứ. Trong đơn vị người là 24. 000 người.
5Đơn vị cho tháng thứ ba, là Bê-na-gia, con trai thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa, là thầy tế lễ và quan trưởng. Trong đơn vị người là 24. 000 người.
6Đây là Bê-na-gia, là cấp lãnh đạo ba mươi người kia, và làm đầu ba mươi người ấy. Am-mi-xa-đáp, con trai người, cũng ở trong đơn vị của người.7Cấp chỉ huy tháng thứ tư là A-sa-ên, em của Giô-áp. Xê-ba-đia, con trai người trở thành tướng lãnh nối theo người. Trong đơn vị người là 24. 000 người.
8Cấp chỉ huy tháng thứ năm là Sa-mê-hút, dòng dõi của Gít-ra. Trong đơn vị người là 24. 000 người.
9Cấp chỉ huy tháng thứ sáu là Y-ra, con trai Y-ke, ở Thê-cô-a. Trong đơn vị người là 24. 000 người. 10Cấp chỉ huy của tháng thứ bảy là Hê-lết, người Pha-lôn, ra từ dân sự Ép-ra-im. Trong đơn vị người là 24. 000 người.
11Cấp chỉ huy của tháng thứ tám là Si-bê-cai, người Hu-sa, từ họ hàng ra từ Xê-rách. Trong đơn vị người là 24. 000 người.
12Cấp chỉ huy tháng thứ chín là A-bi-ê-xe, người A-na-tốt, ra từ chi phái Bên-gia-min. Trong đơn vị người là 24. 000 người. 13Cấp chỉ huy của tháng thứ mười là Ma-ha-rai, ra từ thành Nê-tô-pha, họ hàng Xê-rách. Trong đơn vị người là 24. 000 người.
14Cấp chỉ huy tháng thứ mười một là Bê-na-gia, ra từ thành Phi-ra-thôn, từ chi phái Ép-ra-im. Trong đơn vị người là 24. 000 người.
15Cấp chỉ huy của tháng thứ mười hai là Hiên-đai, ra từ thành Nê-tô-pha, từ họ hàng Ốt-ni-ên. Trong đơn vị người là 24. 000 người. 16Đây là cấp lãnh đạo các chi phái Y-sơ-ra-ên: Về chi phái Ru-bên. Ê-li-ê-xe, con trai Xiếc-ri. Về chi phái Si-mê-ôn là Sê-pha-tia, con trai Ma-a-ca;17Về chi phái Lê-vi là Ha-sa-bia, con trai của Kê-mu-ên làm trưởng; còn Xa-đốc lãnh đạo dòng dõi của A-rôn;18Về chi phái Giu-đa là Ê-li-hu, một trong các anh của Đa-vít, làm trưởng. Về chi phái Y-sa-ca là Ôm-ri, con trai của Mi-ca-ên, làm trưởng;19Về chi phái Sa-bu-lôn là Dít-ma-hia, con trai của Ô-ba-đia làm trưởng. Về chi phái Nép-ta-li là Giê-ri-mốt, con trai của A-ri-ên làm trưởng;20Về chi phái Ép-ra-im là Ô-sê, con trai của A-xa-xia, làm trưởng. Về nửa chi phái Ma-na-se là Giô-ên, con trai Phê-đa-gia, làm trưởng;21Về nửa chi phái Ma-na-se ở Ga-la-át, là Gi-đô, con trai của Xa-cha-ri, làm trưởng. Về chi phái Bên-gia-min là Gia-a-xi-ên, con trai Ap-ne, làm trưởng;22Về chi phái Đan là A-xa-rên, con trai của Giê-rô-ham, làm trưởng. Đây là cấp lãnh đạo của các chi phái Y-sơ-ra-ên.23Đa-vít không tính những người trên dưới hai mươi tuổi, bởi vì Đức Giê-hô-va đã hứa rằng làm tăng Y-sơ-ra-ên lên đông như sao trên trời.24Giô-áp, con trai của Xê-ru-gia, khởi lấy số nhiều người, nhưng không hoàn tất được. Cơn thạnh nộ giáng trên Y-sơ-ra-ên vì việc nầy. Số tu bộ nầy không nhập vào sách sử ký của vua Đa-vít.25Ách-ma-vết, con trai A-đi-ên, coi sóc kho tàng của nhà vua. Giô-na-than, con trai U-xi-gia, coi sóc các kho tàng ở đồng ruộng, trong các thành, trong các làng mạc và trong các tháp của đồn
26Ết-ri, con trai Kê-lúp, giám sát những người làm nông, những người lo cày cấy trong xứ;27Sim-ri, ra từ Ra-ma, giám sát các vườn nho; còn Xáp-đi, ra từ Sê-pham, giám sát các vườn nho và kho rượu;28Giám sát cây ô-li-ve và cây sung mọc trong chỗ thấp là Ba-anh-Ha-nan, ra từ Ghê-đe; còn Giô-ách giám sát các kho dầu;29Giám sát các bầy gia súc ăn cỏ tại Sa-rôn là Sít-trai, ra từ Sa-rôn, còn giám sát các bầy gia súc trong đồng bằng là Sa-phát, con trai Át-lai.30Giám sát bầy lạc đà là Ô-binh, người Ích-ma-ên, và giám sát bầy lừa cái là Giê-đia, ra từ Mê-rô-nốt. Giám sát các bầy chiên là Gia-xít, người Ha-ga-rít.
31Hết thảy những người nầy đều là giám sát viên tài sản của Vua Đa-vít.32Giô-na-than, cậu của Đa-vít, làm mưu sĩ, là một người thông sáng và là thầy thông giáo. Giê-hi-ên con trai của Hác-mô-ni, coi sóc các con trai của nhà vua.
33A-hi-tô-phên là mưu sĩ của nhà vua; và Hu-sai, người At-kít, là cố vấn riêng của nhà vua.34Giê-hô-gia-đa chiếm lấy địa vị của A-hi-tô-phe, Giê-hô-gia-đa là con trai của Bê-na-gia, và bởi A-bia-tha. Giô-áp làm quan tổng binh quân đội của nhà vua. 281Đa-vít tập trung các quan trưởng của Y-sơ-ra-ên tại thành Giê-ru-sa-lem, các quan trưởng các chi phái, các đơn vị quân đội phục sự vua trong công tác đã vạch, các quan tướng cai ngàn quân và trăm quân, các nhà quản lý sản nghiệp của nhà vua và của các con trai người, các quan trưởng và những chiến binh, kể cả người khéo léo nhất trong số họ.2Khi ấy Vua Đa-vít đứng dậy rồi nói: Hỡi các anh em và dân sự ta, hãy nghe! Xây dựng một đền thờ cho hòm giao ước của Đức Giê-hô-va là dự tính của ta, một bệ chơn cho Đức Chúa Trời của chúng ta, và ta đã sắm sẵn vật liệu để xây cất đền ấy.3Nhưng Đức Chúa Trời phán cùng ta: “Ngươi chớ cất đền cho danh ta, vì ngươi là một tay chiến sĩ, đã đổ huyết ra nhiều.”4Tuy nhiên, Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, đã chọn ta từ trong cả nhà cha ta lên làm vua Y-sơ-ra-ên cho đến đời đời. Ngài đã chọn chi phái Giu-đa làm trưởng. Trong chi phái Giu-đa, và trong nhà cha ta; từ trong các con trai của cha ta, Ngài chọn ta để làm vua trên cả Y-sơ-ra-ên.5Từ nhiều con trai Đức Giê-hô-va đã ban cho ta; Ngài đã chọn Sa-lô-môn, con trai ta, đặt ngồi trên ngôi của Vương quốc Đức Giê-hô-va, đặng cai trị Y-sơ-ra-ên.6Ngài phán cùng ta rằng: “Sa-lô-môn, con trai ngươi, sẽ xây đền thờ và các hành lang ta; vì ta đã chọn nó làm con trai ta, và ta sẽ làm cha nó.7Ta sẽ thiết lập nước của người cho đến đời đời, nếu người giữ cam kết vâng theo các điều răn và luật lệ của ta, như các ngươi thấy ngày nay.8Vậy bây giờ, tại trước mặt cả Y-sơ-ra-ên, là hội chúng của Đức Giê-hô-va, và trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời chúng ta, hết thảy các ngươi phải tuân giữ và tìm kiếm các điều răn của Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi. Hãy làm theo điều nầy hầu cho các ngươi chiếm lấy xứ tốt tươi nầy rồi để lại như một cơ nghiệp cho con cháu các ngươi đến đời đời.9Còn ngươi, hỡi Sa-lô-môn, con trai ta, hãy vâng theo Đức Chúa Trời của cha ngươi, hãy hết lòng và hết linh hồn mà phục sự Ngài; vì Đức Giê-hô-va dò xét mọi lòng, và hiểu hết từng động lực trong suy tưởng của con người. Nếu con tìm kiếm Ngài, Ngài sẽ cho con gặp; nhưng nếu con lìa bỏ Ngài, ắt Ngài sẽ từ bỏ con cho đến đời đời.10Hãy công nhận rằng Đức Giê-hô-va đã chọn con đặng xây cất đền thờ nầy làm nơi thánh của Ngài: khá mạnh dạn mà làm.”11Bấy giờ, Đa-vít trao cho Sa-lô-môn, con trai người, mọi chương trình về hiên cửa, về đền thờ, về các kho tàng, về lầu gác, về phòng trong của đền thờ, và về phòng với nắp thi ân;12Ông trao cho người mọi chương trình mà ông đã vẽ về các hành-lang của đền Đức Giê-hô-va, và về các phòng vây quanh, về các nhà kho trong đền của Đức Chúa Trời, và về các kho tàng chứa những đồ vật thuộc về Đức Giê-hô-va;13Ông trao cho người các sự phân chia dòng thầy tế lễ và người Lê-vi, về các trách nhiệm đã phân công về sự thờ phượng trong đền của Đức Giê-hô-va, và về các thứ khí dụng cho sự thờ phượng trong đền của Đức Giê-hô-va;14Ông cũng trao cho người số cân về các khí dụng bằng vàng dùng cho từng loại công việc, và về các khí dụng bằng bạc, với số cân nó, dùng về từng loại công việc;15Các chi tiết nầy được trao theo số lượng cân, bao gồm các chi tiết các chân đèn bằng vàng, và về những thếp đèn bằng vàng của nó, các chi tiết theo số cân của từng chân đèn và thếp nó; số cân về những chân đèn bằng bạc, và chi tiết cách sử dụng thích đáng của từng chân đèn.16Ông trao số cân vàng về các bàn để bánh trần thiết, cho từng cái bàn, và số cân bạc cho những cái bàn bằng bạc;17Ông trao số cân về vàng ròng cho nỉa, chậu, và ly. Ông đã trao số cân về từng cái bát bằng vàng, và số cân của từng cái bát bằng bạc.18Ông đã trao số cân bằng vàng đã thét luyện rồi về bàn thờ xông hương, và số cân bằng vàng về kiểu chê-ru-bim xoè cánh ra che trên hòm giao ước của Đức Giê-hô-va.19Đa-vít nói: “Kiểu mẫu về các công việc nầy vẽ ra theo như Đức Giê-hô-va đã hướng dẫn ta và đã ban cho ta hiểu được về kiểu cách ấy.”20Đa-vít lại nói với Sa-lô-môn, con trai mình rằng: “Hãy vững lòng bền chí mà làm. Chớ sợ sệt hay kinh hãi, vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời, tức là Đức Chúa Trời của cha, đang ở cùng con. Ngài chẳng hề từ bỏ con, cũng chẳng hề lìa khỏi con cho đến chừng các công việc cho sự thờ phượng trong đền của Đức Giê-hô-va được hoàn tất.21Hãy xem, đây là những sự phân chia về thầy tế lễ và người Lê-vi cho mọi công việc của đền Đức Chúa Trời. Họ sẽ ở với con, cùng với hết thảy những người vui ý, thông thạo về các nghề, đặng phụ giúp con trong công việc và hoàn thành công việc. Các quan trưởng và cả dân sự đều sẵn sàng vâng theo các mạng lịnh của con.” 291Vua Đa-vít nói với cả hội chúng rằng: “Sa-lô-môn, con trai ta, chỉ một mình con đó mà Đức Chúa Trời đã chọn, hãy còn trẻ tuổi và chưa có kinh nghiệm, và công việc lại lớn lao. Vì cái đền đó không phải dành cho con người đâu, mà là cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời.2Ta đã chu cấp hết sức mình cho đền của Đức Chúa Trời ta. Ta đã dâng vàng dùng về đồ làm bằng vàng, bạc dùng về đồ làm bằng bạc, đồng dùng về đồ làm bằng đồng, sắt dùng về đồ làm bằng sắt, và gỗ dùng về đồ làm bằng gỗ. Ta cũng dâng ngọc bích, ngọc để khảm, ngọc chiếu sáng, ngọc đủ các màu — và các thứ đá quí — cùng đá cẩm thạch trắng rất nhiều.3Bây giờ, vì cớ ta vui thích nơi đền của Đức Chúa Trời ta, ta dâng kho riêng của ta về vàng và bạc cho đền ấy. Ta làm mọi sự nầy thêm vào mọi thứ mà ta đã sắm sẵn cho đền thánh nầy.4Ba ngàn ta lâng vàng từ xứ Ô-phia, và bảy ngàn ta lâng bạc đã thét, đặng dùng bọc các vách đền;5Ta dâng vàng dùng về những vật làm bằng vàng, bạc dùng về những vật bằng bạc, và các thứ dùng về các việc do thầy thợ làm. Vậy ngày nay, ai là người vui lòng đóng góp và dâng mình cho Đức Giê-hô-va?6Bấy giờ, nhiều của dâng rời rộng được dâng lên bởi các trưởng tộc những gia đình của tổ phụ họ, các lãnh đạo những chi phái Y-sơ-ra-ên, các quan tướng cai ngàn người và trăm người, và bởi những quan chức giám sát công việc của nhà vua,7Họ dâng về công việc đền Đức Chúa Trời, năm ngàn ta lâng và mười ngàn đa-riếc vàng, mười ngàn ta lâng bạc, mười tám ngàn ta lâng đồng, và một trăm ngàn ta lâng sắt.8Những ai có đá quí, thì giao cho kho đền Đức Giê-hô-va, dưới quyền giám sát của Giê-hi-ên, dòng dõi của Ghẹt-sôn.9Dân sự rất vui mừng vì cớ những của dâng trọn lòng vui ý nầy, vì họ đã hết lòng đóng góp cho Đức Giê-hô-va. Vua Đa-vít cũng lấy làm vui mừng cả thể.10Trước mặt cả hội chúng, Đa-vít chúc tạ Đức Giê-hô-va. Ông nói: Hỡi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, tổ phụ chúng tôi ôi! Nguyện Ngài được ngợi khen cho đến đời đời vô cùng!11Hỡi Đức Giê-hô-va, thuộc về Ngài là sự cao cả, quyền năng, vinh hiển, toàn thắng, và oai nghi. Vì mọi sự ở trên các từng trời và dưới đất đều thuộc về Ngài. Thuộc về Ngài là Vương quốc, hỡi Đức Giê-hô-va! Ngài được tôn cao làm Chúa Tể của muôn vật 12Cả hai: sự giàu có và vinh hiển đều từ Ngài mà đến, và Ngài tể trị trên mọi người. Trong tay Ngài là quyền phép và sức mạnh. Ngài có năng lực và sức mạnh để khiến cho người ta được tôn trọng và ban sức mạnh cho bất cứ ai.13Bây giờ, Đức Chúa Trời của chúng tôi ôi! Chúng tôi cảm tạ Ngài và ngợi khen danh vinh hiển của Ngài. 14Nhưng tôi là ai, và dân sự tôi là gì, mà chúng tôi có khả năng dâng các thứ nầy cách vui lòng như vậy chứ? Thực vậy, vì mọi vật đều do nơi Chúa mà đến; và chúng tôi đã dâng lại cho Chúa những gì đã thuộc về Ngài.15Vì chúng tôi vốn là khách lạ và lữ hành ở trước mặt Chúa, y như các tổ phụ chúng tôi. Các ngày chúng tôi tại trên đất, khác nào cái bóng, không mong ở lâu được. 16Hỡi Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi ôi! Mọi sự giàu có nầy mà chúng tôi đã sắm sửa để cất đền tôn vinh danh thánh Ngài — đều đến từ Ngài, và thuộc về Ngài.
17Hỡi Đức Chúa Trời tôi! Tôi cũng biết rằng Ngài dò xét tấm lòng, và lấy làm vui về sự ngay thẳng. Về phần tôi, cứ theo sự ngay thẳng của lòng tôi mà vui lòng dâng các vật nầy, và bây giờ tôi vui mừng nhìn thấy dân sự Ngài, họ hiện diện ở đây cũng sẵn lòng dâng hiến cho Chúa. 18Hỡi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, của Y-sác, và của Y-sơ-ra-ên — tổ phụ của chúng tôi ôi! — Xin hãy cho dân sự Chúa giữ luôn luôn một tâm ý ấy trong lòng. Xin lèo lái tấm lòng của họ hướng về Ngài.
19Xin ban cho Sa-lô-môn, con trai tôi, có một ước ao hết lòng giữ theo các điều răn, chứng cớ, và luật lệ của Ngài, cùng thực thi mọi công việc nầy, lo xây cất đền thờ mà tôi đã lo các khoản cung hiến nầy. 20Đa-vít nói với cả hội chúng rằng: “Bây giờ, hãy chúc phước Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ngươi.” Cả hội chúng đều chúc phước Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tổ phụ mình, họ cúi đầu xuống mà thờ lạy Đức Giê-hô-va, kính cẩn trước mặt nhà vua.21Qua ngày sau, họ dâng những tế lễ cho Đức Giê-hô-va, và dâng những của lễ thiêu cho Ngài. Họ đã dâng một ngàn con bò đực, một ngàn con chiên đực, một ngàn con chiên con, với các thức uống làm của dâng, và của lễ dư dật trong cả Y-sơ-ra-ên;22Trong ngày ấy, họ ăn uống rất vui vẻ tại trước mặt Đức Giê-hô-va. Họ lập Sa-lô-môn, con trai Đa-vít, làm vua lần thứ nhì, và xức dầu cho ông làm vua với thẩm quyền của Đức Giê-hô-va. Họ cũng xức dầu cho Xa-đốc làm thầy tế lễ.23Bấy giờ, Sa-lô-môn ngồi lên trên ngôi của Đức Giê-hô-va, làm vua thế cho Đa-vít, cha người. Người được thịnh vượng; cả Y-sơ-ra-ên đều vâng theo người.24Các quan trưởng, những chiến binh, và các con trai của vua Đa-vít, đều dâng lòng trung thành với vua Sa-lô-môn.25Đức Giê-hô-va tôn cao Sa-lô-môn rất long trọng tại trước mặt cả Y-sơ-ra-ên, và ban cho người được oai nghiêm, đến đỗi trong Y-sơ-ra-ên chẳng có một vua nào trước người được như vậy.26Đa-vít, con trai Gie-sê, cai trị trên cả Y-sơ-ra-ên.27Đa-vít làm vua Y-sơ-ra-ên bốn mươi năm. Ông cai trị 7 năm tại Hếp-rôn, và ba mươi ba năm tại thành Giê-ru-sa-lem.28Ông băng hà tuổi cao, thỏa nguyện về đời mình, về sự giàu có, và về vinh hiển. Sa-lô-môn, con trai người, kế vị người.29Các thành tựu của vua Đa-vít, đều được chép trong sử ký của tiên tri Sa-mu-ên, trong sử ký của tiên tri Na-than, và trong sử ký của tiên tri Gát,30Mọi việc làm trong đời trị vì của người đều được ghi chép lại, các thành tựu của người, và các biến cố tác động đến người, Y-sơ-ra-ên, cùng hết thảy các vương quốc ở các xứ khác. Gióp
11Tại xứ U-xơ có một người tên là Gióp; Gióp vốn là người trọn vẹn và ngay thẳng, kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều dữ.2Ông có bảy con trai và ba con gái.3Ông sở hữu bảy ngàn con chiên, ba ngàn lạc đà, năm trăm cặp bò đực, và năm trăm con lừa cùng rất nhiều tôi tớ. Ông là người giàu sang nhất trong tất cả các dân ở Phương Đông.4Hàng ngày, các con trai ông thay phiên nhau đãi tiệc trong nhà mình và họ sai người đi mời ba chị em gái cùng đến ăn uống với họ.5Khi các ngày tiệc tùng đã qua rồi, Gióp sai người kêu họ đến và dâng họ cho Đức Chúa Trời. Ông thức dậy sớm vào buổi sáng và dâng của lễ thiêu cho từng người con, vì ông nghĩ, “Có thể các con ta đã phạm tội và lòng chúng nó báng bổ Đức Chúa Trời.” Gióp luôn làm như vậy.6Một ngày nọ, các con trai của Đức Chúa Trời đến ra mắt Đức Giê-hô-va, và Sa-tan cũng đến trong số đó.7Đức Giê-hô-va hỏi Sa-tan, “Ngươi từ đâu đến?” Sa-tan thưa với Đức Giê-hô-va rằng, “Tôi đi lang thang và tới lui đây đó trên đất.”8Đức Giê-hô-va hỏi Sa-tan, “Ngươi có để ý thấy Gióp, tôi tớ Ta không? Trên thế gian chẳng có ai như nó, một người trọn vẹn và ngay thẳng, kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều dữ.”9Sa-tan trả lời Đức Giê-hô-va, “Gióp kính sợ Đức Chúa Trời chẳng phải vì điều gì sao?10Ngài há không dựng hàng rào xung quanh người, gia đình và mọi thứ tứ bề sao? Ngài đã ban phước cho công việc của tay người, và tài sản của người trên đất đã thêm lên.11Nhưng xin Chúa giơ tay Ngài ra đánh trên mọi thứ của người, rồi người sẽ từ bỏ Ngài.”12Đức Giê-hô-va bảo Sa-tan, “Kìa, mọi vật của người đều tùy vào quyền trong tay ngươi; chớ tra tay ngươi trên người.” Vậy Sa-tan lui khỏi trước mặt Đức Giê-hô-va.13Một ngày kia, khi các con trai và con gái ông đang ăn và uống rượu trong nhà người anh cả,14một sứ giả đến gặp Gióp và nói, “Bò đực đang cày và lừa đang ăn bên cạnh;15thì dân Sa-bê xông vào và cướp hết. Thật vậy, chúng giết các tôi tớ bằng gươm; chỉ còn một mình tôi thoát chết chạy về báo ông.”16Trong khi người này còn đang nói, thì một đầy tớ khác cũng chạy đến báo, “Lửa của Đức Chúa Trời giáng từ trời và thiêu đốt chiên cùng các tôi tớ; chỉ còn một mình tôi thoát chết chạy về báo ông.”17Trong khi người này còn đang nói, thì một đầy tớ khác cũng chạy đến báo, “Dân Canh-đê lập thành ba đạo quân, xông vào lạc đà và cướp đi mất. Vâng, chúng đã giết các tôi tớ bằng gươm, chỉ còn một mình tôi thoát chết chạy về báo ông.”18Trong khi người này còn đang nói, thì một đầy tớ khác cũng chạy về báo, “Các con trai và con gái ông đang ăn và uống rượu trong nhà cậu cả.19Một cơn gió lớn từ hoang mạc nổi lên và đánh sập bốn góc nhà, đè lên những người trẻ, tất cả đều tử vong, chỉ còn một mình tôi thoát chết chạy về báo ông.”20Gióp đứng dậy, xé áo choàng, cạo đầu, sấp mặt xuống đất mà thờ lạy Đức Chúa Trời.21Ông nói, “Tôi đã trần truồng lọt khỏi lòng mẹ tôi, tôi cũng trần truồng trở về lại đó thôi. Đức Giê-hô-va ban cho, và Đức Giê-hô-va cất đi; nguyện chúc tán danh Đức Giê-hô-va.”22Trong mọi việc này, Gióp không phạm tội, cũng không ngu xuẩn báng bổ Đức Chúa Trời. 21Lại một ngày kia, khi các con trai của Đức Chúa Trời đến ra mắt trước mặt Đức Giê-hô-va, và Sa-tan cũng đến trong số đó.2Đức Giê-hô-va hỏi Sa-tan, “Ngươi từ đâu đến?” Sa-tan thưa với Đức Giê-hô-va rằng, “Tôi đi lang thang và tới lui đây đó trên đất.”3Đức Giê-hô-va phán với Sa-tan, “Ngươi có để ý thấy Gióp, tôi tớ Ta không? Trên thế gian chẳng có ai như nó, một người trọn vẹn và ngay thẳng, kính sợ Đức Chúa Trời và lánh điều dữ. Gióp vẫn giữ lòng liêm chính, dù ngươi đã xúi Ta ra tay hại nó vô cớ.”4Sa-tan trả lời Đức Giê-hô-va, “Thật vậy, da đền da; người sẽ từ bỏ hết mọi thứ người có để giữ mạng sống.5Nhưng xin Ngài giơ tay Ngài ra đụng đến xương cốt và thân thể người, người sẽ báng bổ Ngài.”6Đức Giê-hô-va nói với Sa-tan, “Kìa, Gióp ở trong tay ngươi; chớ đụng đến mạng sống của nó.”7Vậy Sa-tan lui khỏi trước mặt Đức Giê-hô-va và hành Gióp đau đớn bằng bệnh ung nhọt từ dưới bàn chân đến đỉnh đầu.8Gióp lấy một miếng sành để gãi và ngồi trong tro bụi.9Vợ ông bảo, “Ông vẫn còn giữ lòng liêm chính sao? Hãy rủa Đức Chúa Trời rồi chết quách đi.”10Nhưng ông nói với bà, “Bà nói y như đàn bà dại dột. Bà thật nghĩ rằng chúng ta nên nhận điều tốt lành từ tay Chúa mà không nhận điều dữ sao?” Trong việc này, Gióp không phạm tội bởi môi miệng mình.11Bấy giờ khi ba bạn của Gióp hay tin về tất cả những việc dữ đã xảy đến trên ông, mỗi người từ nơi mình đến gặp ông: Ê-li-pha người Tê-man, Binh-đát người Su-a, và Xô-pha người Na-a-ma. Họ hẹn ngày đến than khóc với ông và an ủi ông.12Khi thấy ông từ đàng xa, họ không thể nhận ra ông; họ lớn tiếng khóc; mỗi người xé áo choàng mình và tung bụi đất lên trời và lên đầu mình.13Họ ngồi xuống đất với ông suốt bảy ngày và bảy đêm, không ai nói với nhau một lời nào, vì họ thấy nỗi sầu khổ của ông là quá lớn. 31Sau việc này, Gióp mở miệng rủa sả ngày sinh của ông.2Ông nói:3“Ước gì ngày tôi sinh ra tàn lụi, đêm nói rằng, ‘Một bé trai được thụ thai.’4Ước gì ngày đó tối tăm; ước gì Đức Chúa Trời từ trên cao không nhớ đến nó, ánh mặt trời cũng không chiếu trên nó.
5Ước gì bóng đêm và bóng sự chết cứ bao trùm nó; ước gì mây che phủ nó; ước gì mọi thứ làm cho ngày ấy đen tối thật khiến kinh hãi. 6Ước gì bóng tối hãm đêm ấy: ước gì nó đừng hoan hỉ giữa các ngày trong năm; ước gì nó không được tính trong số các tháng.
7Kìa, ước gì đêm đó tĩnh mịch; ước gì đêm ấy không có tiếng reo vui. 8Hãy để họ rủa sả ngày đó, là những người biết đánh thức Lê-vi-a-than.
9Hãy để những ngôi sao chạng vạng trong ngày đó trở nên tối tăm. Hãy để ngày đó tìm ánh sáng nhưng chẳng thấy ánh sáng; nó cũng chẳng thấy bình minh ló dạng,
10vì ngày ấy không đóng cửa tử cung mẹ tôi, cũng không giấu sự khó khăn khỏi mắt tôi.11Sao tôi không chết ngay khi vừa lọt lòng mẹ? Sao tôi không trút linh hồn khi mẹ tôi sanh tôi ra?
12Sao đầu gối của mẹ đỡ lấy tôi? Hay tại sao có bầu sữa mẹ cho tôi bú? 13Vì bấy giờ tôi ắt sẽ nằm yên; tôi hẳn sẽ ngủ và an nghỉ
14cùng các vua và cố vấn trên đất, là những người đã xây lăng mộ cho mình mà nay đã đổ nát.15Hoặc tôi hẳn sẽ nằm cùng các hoàng thân giàu có, họ chứa vàng bạc đầy nhà.
16Hay tôi có thể bị chết non, như hài nhi không hề thấy ánh sáng. 17Kẻ ác thôi quấy phá; người mệt mỏi được yên nghỉ.
18Tù nhân chung sống thư thái; họ không nghe tiếng của chủ nô.
19Người thấp bé và người giàu sang đều ở đó; tôi tớ được tự do khỏi chủ mình. 20Sao người khốn khổ được thấy ánh sáng; sao người cay đắng trong lòng lại được sống;
21người nào muốn chết thì cũng không chết được; họ tìm sự chết nhiều hơn những người tìm kho tàng?22Sao người hớn hở vui mừng được thấy ánh sáng trong khi người có thể tìm mộ? 23Sao người chẳng biết đường lối mình lại được thấy ánh sáng, tức là người được Đức Chúa Trời bảo vệ?
24Tôi thở dài thay vì ăn; tôi rên rỉ như nước tràn tuôn 25Vì điều tôi sợ đã đến trên tôi; điều tôi khinh khiếp đã xảy đến với tôi.26Tôi không thoải mái, tôi không yên tịnh, tôi không được nghỉ ngơi; gian khó đã đến. 41Bấy giờ Ê-li-pha người Tê-man đáp rằng,2Nếu có ai tìm cách nói với ông, ông có mất lòng không? Nhưng ai có thể lặng thinh?3Kìa, ông đã dạy dỗ nhiều người; ông đã làm cho tay yếu đuối trở nên mạnh mẽ. 4Lời của ông đã khích lệ người vấp ngã, ông làm cho đầu gối yếu đuối trở nên vững vàng.
5Nhưng bây giờ ông mang họa, ông nản lòng; tai họa đến với ông, ông bồn chồn.
6Lòng kính sợ Đức Chúa Trời của ông không giúp ông tự tin sao? Đường lối liêm chính của ông không đem lại cho ông niềm hy vọng sao? 7Xin ông hãy xét lại: có người vô tội nào hư vong không? Hoặc có khi nào người ngay thẳng bị diệt không?
8Theo những gì tôi thấy, kẻ vun xới tội lỗi và gieo phiền muộn đều gặt như nhau.
9Hơi thở của Đức Chúa Trời khiến họ hư mất; cơn thạnh nộ của Ngài thiêu đốt họ. 10Tiếng gầm của sư tử, tiếng của sư tử hung dữ, răng của sư tử con – chúng bị bẻ gãy.
11Sư tử già chết vì thiếu con mồi; con của sư tử cái bị tản lạc khắp nơi. 12Bấy giờ, có một chuyện đến với tôi cách bí mật; có tiếng thì thầm bên tai tôi về điều đó.
13Giữa các tư tưởng từ những khải tượng trong đêm, khi mọi người đang say giấc. 14Nỗi sợ hãi và run sợ đến trên tôi, khiến xương cốt tôi lung lay.
15Sau đó, có một thần lướt ngang qua tôi; lông tôi dựng đứng. 16Thần đó đứng yên, nhưng tôi không thấy rõ hình dạng. Một hình thể đứng trước mặt tôi; xung quanh yên ắng, và tôi nghe có tiếng nói,
17“Người phàm có thể công bình hơn Đức Chúa Trời sao? Loài người có thể trong sạch hơn Đấng Tạo hóa của nó sao?”18Kìa, nếu Đức Chúa Trời không đặt sự tin cậy trong các tôi tớ Ngài; nếu Ngài trách các thiên sứ của Ngài về lầm lỗi,
19thì huống chi những kẻ sống trong nhà bằng đất sét, trên nền đất bụi, bị chà nát như sâu bướm?20Giữa sáng và tối, chúng bị diệt; chúng biến mất mà không ai để ý.
21Dây lều của chúng không bị đứt sao? Chúng chết mà chẳng khôn ngoan. 51Hãy kêu la; ai sẽ trả lời ông? Ông sẽ trở lại đấng nào trong các thánh?2Lòng căm giận giết kẻ ngu ngốc; sự ghen tỵ giết kẻ khờ dại.
3Tôi đã thấy người ngu dại đâm rễ, nhưng bỗng nhiên tôi rủa sả nhà của hắn. 4Con cái hắn không được an toàn; chúng bị chà đạp ở cổng thành. Không ai giải cứu chúng –
5người đói ăn hết mùa màng, thậm chí lấy ra khỏi gai góc; kẻ khát thèm muốn của cải của chúng.6Vì hoạn nạn không đến từ cát bụi; sự phiền muộn không nảy lên từ đất;
7Nhưng nhân loại tạo nên sự phiền muộn cho mình, như chớp lửa bay lên.8Nhưng về phần tôi, tôi sẽ quay sang Đức Chúa Trời; tôi sẽ giao phó duyên cớ tôi cho Ngài –
9Ngài làm việc lớn không sao hiểu được, những việc kỳ diệu vô kể.10Ngài ban mưa xuống đất, cho nước chảy khắp đồng ruộng. 11Ngài nâng người thấp kém lên cao; ban sự an toàn cho người than khóc trong tro.
12Ngài làm hỏng mưu chước của kẻ xảo trá, để tay chúng không thể thực hiện âm mưu của chúng.
13Ngài bẫy kẻ khôn trong mánh khóe của chính họ; kế hoạch của kẻ quỷ quái sẽ sớm chấm dứt. 14Chúng gặp bóng tối giữa ban ngày, và rên rỉ vào buổi trưa như thể ban đêm.
15Nhưng Ngài cứu người nghèo khỏi gươm của miệng chúng và người thiếu thốn khỏi tay kẻ mạnh bạo.
16Người nghèo có niềm hy vọng, kẻ bất công ngậm miệng lại. 17Kìa, phước cho người nào được Đức Chúa Trời chỉnh sửa; vì vậy, chớ khinh thường sự uốn nắn của Đấng Toàn năng.
18Ngài làm bị thương rồi rịt lành; Ngài làm bị thương rồi tay Ngài chữa lành.
19Ngài sẽ giải cứu ông khỏi sáu điều phiền muộn; thật sự, trong bảy điều phiền muộn, sẽ không có tai họa nào trên ông. 20Trong cơn đói, Ngài sẽ cứu ông khỏi chết; và trong chiến tranh, Ngài sẽ cứu ông khỏi sức mạnh của gươm giáo.
21Ông sẽ được che chở khỏi tai họa của lưỡi; ông sẽ chẳng sợ gì khi sự hủy phá đến.
22Ông sẽ cười vào sự hủy phá và đói kém, ông sẽ chẳng sợ loài dã thú. 23Vì ông sẽ lập giao ước với đá trong đồng ruộng ông; ông sẽ ở bình hòa với dã thú.
24Ông sẽ biết rằng lều của ông được an toàn; ông sẽ kiểm tra ràn chiên và thấy chẳng thiếu gì.
25Ông cũng sẽ biết rằng con cháu của ông sẽ đông đúc, con cháu của ông sẽ như cỏ trên đất. 26Ông sẽ xuống mồ khi tuổi cao, như bó lúa được đem đến sân đạp lúa.
27Kìa, chúng tôi đã xem xét điều này; và quả là như vậy; hãy nghe và nhận biết. 61Gióp trả lời và nói,2“Ồ, giá mà nỗi thống khổ của tôi được cân; giá mà mọi tai họa của tôi được để trên bàn cân!3Vì bấy giờ nó sẽ nặng hơn cát biển. Do đó tôi không để ý lời nói. 4Vì các mũi tên của Đấng Toàn năng ghim trúng tôi, tâm thần tôi uống hết chất độc; nỗi kinh hãi của Đức Chúa Trời dàn trận chống lại tôi.
5Con lừa rừng kêu inh ỏi khi có cỏ? Hay con bò đực đói rống bên đám cỏ khô?
6Đồ ăn lạt lẽo không cần muối? Tròng trắng trứng có mùi vị không? 7Tôi chẳng màng đụng đến chúng; chúng như thức ăn gớm ghiếc đối với tôi.
8Ồ, ước gì tôi được yêu cầu; ồ, ước gì Đức Chúa Trời ban cho tôi điều lòng tôi mong mỏi:
9ước gì Đức Chúa Trời chà nát tôi, Ngài buông tay và chặt tôi khỏi cuộc đời này!10Nguyện đây là niềm an ủi của tôi – thậm chí nếu tôi hân hoan trong sự đau khổ khôn nguôi: tôi không từ chối lời của Đấng Thánh.
11Sao tôi đủ sức chờ đợi? Kết cục của tôi là gì mà tôi phải kéo dài cuộc đời? 12Có phải sức tôi là sức của đá? Có phải da thịt tôi bằng đồng?
13Chẳng phải là trong tôi không còn sự giúp đỡ nào, và nguồn cứu trợ đó đã bị lấy ra khỏi tôi? 14Với người nản lòng, bạn bè sẽ chứng tỏ sự trung tín; ngay cả với người bỏ lòng kính sợ Đấng Toàn năng.
15Nhưng anh em tôi lừa dối tôi như hoang mạc có nước chảy, như kênh dẫn nước đến chỗ khô hạn,
16là nơi tối đen vì băng tuyết phía trên, và tuyết bao phủ chúng.17Khi chúng tan, chúng biến mất; khi trời nóng, chúng tan chảy ra khỏi nơi mình. 18Các đoàn lái buôn rẽ khỏi đường cái tìm nước; họ lang thang trong vùng khô cằn rồi chết.
19Các đoàn lái buôn từ Tê-ma nhìn quanh tìm kiếm, trong khi các đoàn từ Sê-ba hy vọng ở chúng.
20Họ thất vọng vì quá tin vào việc tìm nước; họ đến đó nhưng bàng hoàng. 21Bây giờ, các bạn chẳng là gì đối với tôi; các bạn thấy hoàn cảnh đáng thương của tôi và sợ hãi.
22Có bao giờ tôi xin các bạn, ‘Xin bố thí tôi?” hoặc, ‘Xin lấy của cải các bạn cho tôi?’
23Hoặc, ‘Xin cứu tôi khỏi tay kẻ thù nghịch tôi?’ hoặc, ‘Xin cứu tôi khỏi tay kẻ đàn áp tôi?’ 24Xin dạy tôi, tôi sẽ lặng thinh; xin cho tôi biết tôi đã sai ở đâu.
25Lời chân thật thật làm đau lòng thay! Nhưng sự tranh luận của các bạn khiển trách được gì tôi? 26Các bạn muốn bỏ qua lời nói của tôi, xem lời nói của người tuyệt vọng như cơn gió?
27Thật sự, các bạn bốc thăm giành trẻ mồ côi cha, và mặc cả với bạn bè mình như con buôn. 28Vậy bây giờ, xin hãy xem tôi, vì chắc chắn tôi không nói dối trước mặt các bạn.
29Xin các bạn hãy rộng lòng thương; mong là các bạn đừng bất công; thật sự, xin hãy mủi lòng, vì duyên cớ của tôi là chính đáng.
30Lưỡi tôi có nói điều dữ nào chưa? Miệng tôi không phân biệt điều xấu sao? 71Chẳng có sự lao khổ cực nhọc cho loài người trên đất sao? Những ngày của người không giống với những ngày của người làm công sao?2Như một nô lệ nghiêm túc ao ước bóng chiều tàn, như người làm công tìm kiếm tiền lương mình –
3tôi đã được dựng nên để chịu đựng những tháng khổ cực; tôi đã nhận những đêm đầy phiền muộn.4Khi tôi nằm xuống, tôi tự nhủ, ‘Chừng nào ta sẽ thức dậy và khi nào đêm sẽ qua đi?’ Tôi trằn trọc lăn qua lăn lại cho đến bình minh.
5Thịt tôi bị bao bọc bằng sâu và lấp đất; những vết lở loét trong da tôi cứng lại, phân hủy và lại chảy mủ. 6Các ngày của tôi qua nhanh hơn con thoi của thợ dệt; chúng qua mà không có hy vọng.
7Đức Chúa Trời ơi, xin hãy nhớ lại rằng mạng sống tôi chỉ là hơi thở; mắt tôi sẽ không còn thấy điều lành nữa. 8Mắt của Đức Chúa Trời, là Đấng thấy tôi, sẽ không còn thấy tôi nữa; mắt Đức Chúa Trời sẽ trông xem tôi, nhưng tôi sẽ không tồn tại.
9Như mây tan ra và biến mất, người xuống âm phủ sẽ không trở lên nữa.
10Người sẽ không còn trở về nhà; địa phương của người sẽ chẳng biết người. 11Vậy tôi sẽ không cầm giữ miệng tôi; tôi sẽ nói trong nỗi thống khổ của tâm thần tôi; tôi sẽ than phiền trong sự cay đắng của linh hồn tôi.
12Có phải tôi là biển hay là con quái vật biển mà Ngài đặt một kẻ canh giữ tôi? 13Khi tôi nói, ‘Giường tôi sẽ an ủi tôi, chiếc trường kỷ tôi sẽ làm thanh thản nỗi đau phiền của tôi,’
14thì Ngài làm tôi kinh hãi bằng những giấc mơ và khiến tôi khiếp sợ qua những khải tượng,15để tôi sẽ chọn sự rời rạc và chết còn hơn là giữ xương cốt tôi.16Tôi ghê tởm cuộc đời tôi; tôi sẽ không ước gì mình còn sống; xin hãy để tôi yên vì các ngày tôi là vô ích.
17Loài người là gì mà Chúa chú ý đến người, lưu ý đến người,
18quan sát người mỗi buổi sáng và thử thách người từng lúc?19Sẽ còn bao lâu nữa trước khi Ngài xây mắt khỏi tôi, trước khi Ngài để tôi yên thân cho đến khi tôi nuốt nước bọt?
20Thậm chí nếu tôi phạm tội, thì điều đó can hệ gì đến Ngài, là Đấng quan sát loài người? Sao Ngài biến tôi thành mục tiêu, để tôi là gánh nặng cho Ngài? 21Sao Ngài không tha thứ sự vi phạm tôi và cất tội lỗi tôi đi? Vì bây giờ tôi sẽ nằm trong bụi đất; Ngài sẽ cẩn thận tìm tôi, nhưng tôi sẽ không tồn tại. 81Binh-đát người Su-a trả lời,2“Ông sẽ còn nói những điều này đến bao giờ nữa? Lời từ miệng ông sẽ như gió lốc đến chừng nào?3Đức Chúa Trời bẻ cong chân lý sao? Đấng Toàn năng bẻ cong sự công bình sao? 4Con cái của ông đã phạm tội trước mặt Ngài; chúng ta biết điều này, vì Ngài đã phó chúng vào tội lỗi của chúng.
5Nhưng giả sử ông sốt sắng tìm kiếm Đức Chúa Trời và trình lời cầu xin của ông cho Đấng Toàn năng. 6Giả sử ông trong sạch và ngay thẳng; thì chắc chắn Ngài sẽ giải cứu ông và ban thưởng cho ông một gia đình thật sự thuộc về ông.
7Thậm chí dù khởi đầu của ông là nhỏ, nhưng tương lai ông vẫn sẽ rạng rỡ. 8Xin ông hãy học hỏi thế hệ xưa; tìm hiểu những gì tổ phụ chúng ta đã khám phá.
9(Hôm qua chúng ta mới sinh ra và chẳng biết gì, những ngày của chúng ta trên đất như bóng tối).
10Họ không dạy ông và nói cho ông nghe sao? Họ không nói những lời trong lòng sao? 11Cây lau có thể mọc nơi không phải đầm lầy sao? Cây sậy có thể lớn lên mà không cần nước sao?
12Khi chúng vẫn còn xanh tươi và chưa bị chặt, chúng tàn héo trước mọi thực vật khác. 13Số phận của kẻ quên Đức Chúa Trời cũng sẽ như vậy, niềm hy vọng của kẻ vô đạo sẽ tàn lụi –
14lòng tin cậy của họ sẽ tan vỡ, lòng trông cậy của họ yếu như mạng nhện.15Người ấy dựa vào nhà mình, nhưng không đứng vững; họ bám giữ nó, nhưng không bền lâu. 16Dưới ánh mặt trời, nó xanh tươi, nó đâm chồi trong khắp vườn.
17Rễ nó quấn trên đống đá; chúng len lỏi giữa đá sỏi.
18Nhưng nếu cây bị bứng khỏi chỗ của nó, nơi đó sẽ từ chối nó và nói, ‘Ta chưa bao giờ gặp ngươi.’ 19Kìa, đây là “niềm vui” của người có hành vi đó; cây khác sẽ đâm chồi từ đất của nó.
20Kìa, Đức Chúa Trời sẽ không bỏ người trọn vẹn; Ngài sẽ không phù hộ tay của kẻ làm ác. 21Nhưng Ngài sẽ khiến miệng ông đầy tiếng cười, môi ông vang tiếng reo mừng.
22Những kẻ ghét ông sẽ mặc lấy sự xấu hổ; lều của kẻ ác sẽ tiêu tan.” 91Gióp trả lời rằng,2“Phải, tôi biết là vậy. Nhưng làm sao loài người có thể công bình trước mặt Đức Chúa Trời?3Nếu người muốn tranh luận với Đức Chúa Trời, người cũng không thể đáp lại Ngài một ngàn lần. 4Đức Chúa Trời có trí khôn và sức mạnh; ai cứng cỏi trước mặt Ngài để thành công? –
5Ngài dời núi mà không cảnh báo bất kỳ ai, trong cơn giận Ngài lật đổ chúng –
6Ngài là Đấng làm rúng động trái đất khỏi chỗ nó và các trụ nó rung rinh.7Chính Đức Chúa Trời truyền mặt trời không mọc, nó không mọc, Đấng bao phủ các ngôi sao,
8một mình Ngài giương các từng trời, giẫm lên sóng biển,9Ngài dựng nên Sao Bắc đẩu, Sao Cày, và Sao Rua, cùng những chòm sao phương nam.10Chính Đức Chúa Trời là Đấng làm những việc lớn lao, khó hiểu – thật vô số những việc phi thường.
11Kìa, Ngài đi cạnh tôi, tôi không thấy Ngài; Ngài lướt ngang qua, tôi cũng không thấy Ngài.
12Nếu Ngài cất mạng ai, ai có thể ngăn nổi Ngài? Ai dám hỏi Ngài, ‘Chúa làm gì vậy?’ 13Đức Chúa Trời sẽ không rút cơn giận của Ngài; những người giúp đỡ Ra-háp quỳ dưới chân Ngài.
14Làm sao tôi có thể trả lời Ngài, tôi có thể lựa lời biện luận với Ngài không?
15Thậm chí nếu tôi công bình, tôi cũng không thể trả lời Ngài; tôi chỉ có thể nài xin sự thương xót của Đấng phán xét tôi. 16Thậm chí nếu tôi kêu cầu và Ngài đáp lời tôi, tôi sẽ không tin là Ngài nghe tiếng tôi.
17Vì Ngài vùi dập tôi bằng giông tố và vô cớ gia tăng vết thương tôi.
18Ngài thậm chí không cho phép tôi thở; trái lại, Ngài lấp đầy tôi bằng sự đắng cay. 19Nếu chúng ta nói về sức lực, kìa, Ngài là Đấng hùng mạnh! Và nếu nói đến công lý? Thì Ngài hỏi, ‘Ai dám chất vấn Ta?’
20Dù tôi là người công bình, thì miệng tôi sẽ lên án tôi; dù tôi vô tội, nó sẽ chứng minh là tôi có tội. 21Tôi vô tội, nhưng tôi không bận tâm nữa; tôi khinh miệt cuộc đời tôi.
22Tất cả đều như nhau; do đó tôi nói rằng Ngài diệt người vô tội cũng như người gian ác.
23Nếu tai họa bỗng dưng giết chết, Ngài sẽ nhạo cười nỗi ưu phiền của người vô tội.
24Trái đất bị phó vào tay của kẻ ác; Đức Chúa Trời che mắt các quan tòa. Nếu chẳng phải Ngài, thì là ai? 25Những ngày của tôi qua nhanh hơn kẻ trạm; chúng biến mất; chẳng thấy điều gì tốt lành cả.
26Chúng lướt qua nhanh như chiếc thuyền nan, và nhanh như đại bàng sà vào con mồi. 27Nếu tôi nói rằng tôi sẽ không quên lời than phiền của tôi, rằng tôi sẽ bỏ mặt buồn thảm và tươi cười,
28tôi sẽ sợ mọi nỗi khổ của tôi vì tôi biết rằng Ngài sẽ không kể tôi là vô tội.29Tôi bị lên án; vậy thì sao tôi phải cố gắng một cách vô ích? 30Nếu tôi tắm trong tuyết và rửa tay cho sạch,
31Đức Chúa Trời sẽ dìm tôi xuống mương, quần áo tôi trở nên dơ bẩn.32Vì Đức Chúa Trời chẳng phải là người phàm như tôi, để tôi có thể đối đáp Ngài, để chúng tôi cùng nhau ra tòa.
33Chẳng có thẩm phán nào giữa chúng ta để đặt tay lên cả hai chúng ta. 34Chẳng có quan tòa nào có thể cất cây gậy của Đức Chúa Trời khỏi tôi, Đấng có thể ngăn sự kinh khiếp làm tôi hoảng loạn.
35Tôi sẽ lên tiếng và không sợ Ngài. Nhưng như hiện nay, tôi không thể làm vậy được. 101Tôi chán đời rồi; tôi sẽ tha hồ phàn nàn; tôi sẽ nói trong sự cay đắng của lòng tôi.2Tôi sẽ thưa với Đức Chúa Trời, ‘Xin đừng kết án con; xin cho con biết vì sao Ngài lên án con.
3Ngài đè nặng con là tốt sao, khinh thường công việc của tay Ngài trong khi Ngài mỉm cười trên kế hoạch của kẻ ác sao? 4Ngài có mắt xác thịt chăng? Ngài thấy như người phàm thấy chăng?
5Các ngày của Ngài giống với ngày của nhân loại hoặc các năm của Ngài giống với năm của loài người chăng,
6đến nỗi Ngài thẩm tra lỗi của con và tìm kiếm tội lỗi con,7dù Ngài biết là con vô tội và chẳng ai có thể cứu con khỏi tay Ngài?8Tay Chúa đã dựng và nắn nên con, nhưng nay Ngài diệt con.
9Cầu xin Chúa nhớ lại rằng Ngài đã nắn con như đất sét; lẽ nào Ngài sẽ đem con trở về tro bụi? 10Chẳng phải Ngài đã đổ con ra như sữa và làm con đông đặc như phô-mai sao?
11Ngài đã mặc cho con bằng da và thịt và kết chặt con bằng xương và gân. 12Ngài đã ban cho con sự sống và sự thành tín; Ngài giúp đỡ, bảo vệ tâm hồn con.
13Nhưng Ngài giấu những điều này trong lòng – con biết rằng đây là suy nghĩ của Ngài:
14rằng nếu con phạm tội, Ngài sẽ để ý; Ngài sẽ không dung thứ tội lỗi của con.15Nếu con gian ác, thì thật khốn nạn cho con; thậm chí nếu con công bình, con cũng không dám ngẩng cao đầu, vì con nhục nhã và đầy khổ đau.
16Nếu con ngẩng đầu lên, Ngài sẽ săn lùng con như sư tử; Ngài lại tỏ ra quyền năng đối với con. 17Ngài đem đến những nhân chứng mới để chống lại con và gia tăng cơn thạnh nộ của Ngài trên con; Ngài đánh con bằng những quân đội xác thịt. 18Vậy tại sao Ngài đem con ra khỏi lòng mẹ? Ước gì con đã tắt hơi và chẳng mắt nào có thể thấy con.
19Ước gì con chưa bao giờ tồn tại; ước gì con được đem từ lòng mẹ đến mồ mả. 20Chẳng phải các ngày của con ít ỏi sao? Xin Chúa ngừng tay, để con yên thân, nghỉ ngơi một chút
21trước khi con rời khỏi nơi con sẽ không trở về, đến xứ của bóng tối và bóng sự chết,22xứ tối tăm như đêm đen, xứ của bóng sự chết, không có trật tự, và ánh sáng chẳng khác gì đêm đen.’” 111Sau đó, Xô-pha người Na-a-ma trả lời rằng,2“Chẳng lẽ không nên trả lời những lời đó sao? Chẳng lẽ nên tin người nói nhiều này sao?3Lời khoe khoang của ông sẽ khiến người ta im lặng sao? Khi ông chế giễu lời dạy của chúng tôi, sẽ không ai khiến ông cảm thấy xấu hổ sao? 4Vì ông nói với Đức Chúa Trời, ‘Lòng tin của con là trong sạch, con trọn vẹn trước mặt Ngài.’
5Nhưng Đức Chúa Trời sẽ mở miệng phán với ông;
6ước gì Ngài tỏ cho ông thấy những điều kín nhiệm của sự khôn ngoan! Vì Ngài thông hiểu tường tận. Vậy hãy biết rằng điều Đức Chúa Trời bắt ông phải chịu thật ít hơn tội của ông đáng bị phạt là bao.7Ông có thể nào hiểu Đức Chúa Trời bằng cách tìm kiếm Ngài không? Ông có thể hiểu Đấng Toàn năng tường tận không?
8Vấn đề này cao hơn thiên đàng; ông có thể làm gì? Nó sâu hơn âm phủ; ông có thể biết gì?
9Phạm vi của nó dài hơn trái đất, và rộng hơn biển cả. 10Nếu Ngài đi qua và bắt giam ai đó, nếu Ngài đoán xét bất kỳ ai, thì ai có thể ngăn Ngài lại?
11Vì Ngài biết người giả dối; khi Ngài nhìn thấy tội lỗi, lẽ nào Ngài không để ý chăng?
12Nhưng người dại dột không hiểu; họ sẽ hiểu khi con lừa rừng đẻ ra người. 13Nhưng giả sử ông đã để lòng ngay thẳng và giơ tay ra hướng về Đức Chúa Trời;
14giả sử tội lỗi ở trong tay ông, nhưng sau đó ông bỏ xa khỏi ông quăng xa đi, và không để sự trái lẽ cư ngụ trong lều ông.15Chắc chắn ông sẽ ngẩng mặt lên mà không thấy xấu hổ; thật vậy, ông sẽ vững vàng và không sợ hãi.
16Ông sẽ quên sự khổ sở của mình; ông sẽ nhớ nó như nước đã chảy qua.
17Cuộc đời ông sẽ tươi sáng hơn ban trưa; dù có bóng tối, nó vẫn sẽ như ban ngày. 18Ông sẽ được yên ninh vì có hy vọng; thật vậy, ông sẽ thấy mình được an toàn và nghỉ ngơi trong sự yên ninh.
19Ông cũng sẽ nằm xuống yên nghỉ, và không ai khiến ông sợ hãi; thật vậy, nhiều người sẽ tìm ơn của ông. 20Nhưng mắt của kẻ ác sẽ yếu dần; chúng sẽ không còn lối nào để chạy thoát; niềm hy vọng duy nhất của chúng sẽ là hơi thở cuối cùng. 121Gióp trả lời rằng,2“Các ông đúng là phàm nhân; sự khôn ngoan sẽ chết với các ông.3Nhưng tôi cũng có sự thông hiểu như các ông; tôi chẳng hề kém hơn các ông. Thật vậy, ai không biết những việc này chứ? 4Tôi trở thành trò cười cho bạn bè tôi – tôi đã kêu cầu Đức Chúa Trời và được Ngài trả lời! Tôi, một người công chính và trọn vẹn – bây giờ trở thành trò cười.
5Người thanh thản khinh bỉ điều tai họa; người cho rằng tai họa giáng xuống ai trượt chân.
6Lều của kẻ trộm cướp thịnh vượng, kẻ trêu chọc Đức Chúa Trời thì cảm thấy an toàn; tay của chúng là thần của chúng. 7Nhưng bây giờ hãy hỏi loài thú, chúng sẽ dạy các ông; hãy hỏi loài chim trời, chúng sẽ cho các ông biết.
8Hoặc hãy nói với trái đất, nó sẽ dạy các ông; cá biển sẽ tỏ cho các ông biết. 9Có loài nào trong số những loài này không biết rằng tay của Đức Giê-hô-va đã làm việc này – tức là ban sự sống cho chúng –
10Đức Giê-hô-va, là Đấng nắm trong tay sự sống của mọi loài vật và hơi thở của con người?11Tai không kiểm chứng lời như miệng nếm thức ăn sao?
12Người cao tuổi có sự khôn ngoan; sự thông hiểu nằm trong bề dài các ngày ấy. 13Đức Chúa Trời có sự khôn ngoan và sức mạnh; Ngài có tư tưởng và sự thông biết tốt lành.
14Kìa, điều gì Ngài bẻ thì không thể được dựng lại; nếu Ngài bỏ tù ai, thì người đó không thể được giải cứu.
15Kìa, nếu Ngài giữ nước lại, đất sẽ khô hạn; nếu Ngài thả nước ra, nước sẽ tràn khắp đất. 16Ngài có sức mạnh và mưu trí; kẻ bị lừa dối và kẻ lừa dối đều ở dưới quyền Ngài.
17Ngài dẫn các cố vấn đi tù đày bằng chân không trong sự ưu sầu; Ngài biến các quan tòa thành người ngu dại.
18Ngài tháo đai quyền lực khỏi các vua; Ngài quấn vải quanh eo họ. 19Ngài dẫn các thầy tế lễ đi tù đày chân không trong sự ưu sầu và ném kẻ mạnh sức.
20Ngài loại bỏ lời nói của những người đáng tin và cất đi sự thông hiểu của các trưởng lão.
21Ngài đổ sự khinh miệt trên các vương tử và tháo dây lưng của người mạnh sức. 22Ngài bày tỏ những điều sâu nhiệm từ bóng tối và phơi bày dưới ánh sáng bóng của tử thần.
23Ngài làm cho các nước mạnh mẽ, Ngài cũng hủy diệt chúng; Ngài nới rộng các nước, rồi Ngài cũng bắt chúng lưu vong. 24Ngài cất sự thông hiểu khỏi những nhà lãnh đạo dân tộc trên thế gian; Ngài khiến họ lang thang trong hoang mạc không lối thoát.
25Họ mò mẫm trong bóng tối mà chẳng có ánh sáng; Ngài khiến họ đi loạng choạng như kẻ say. 131Kìa, mắt tôi đã thấy điều ấy; tai tôi đã nghe và hiểu.2Điều các ông biết, tôi cũng biết; tôi chẳng thua kém gì các ông. 3Tuy nhiên, tôi thà thưa với Đấng Toàn năng; tôi ước gì mình có thể lý luận với Đức Chúa Trời.
4Nhưng các ông thanh minh sự thật bằng lời dối trá; các ông là những thầy thuốc vô dụng.
5Ôi, ước gì các ông cứ nín lặng! Đó mới là sự khôn ngoan của các ông. 6Bây giờ hãy nghe lập luận của tôi; hãy nghe lời bào chữa của môi tôi.
7Các ông sẽ nói lời bất công với Đức Chúa Trời, và bịa chuyện về Ngài sao?
8Các ông muốn thiên vị Ngài sao? Các ông muốn làm luật sư bào chữa cho Đức Chúa Trời tại tòa sao? 9Nếu Ngài làm quan tòa dò xét các ông thì việc đó tốt cho các ông chứ? Hay các ông sẽ xuyên tạc Ngài tại tòa như người ta lừa dối lẫn nhau sao?
10Chắc chắn Ngài sẽ trách phạt các ông nếu các ông âm thầm thiên vị Ngài. 11Sự oai nghi của Ngài không khiến các ông sợ hãi sao? Sự kinh sợ Ngài sẽ không giáng trên các ông sao?
12Châm ngôn của các ông như tục ngữ bằng tro bụi; lời biện hộ của các ông như là lời biện hộ làm bằng đất sét. 13Hãy yên lặng, hãy để tôi yên, để mặc tôi nói, rồi điều gì đến cũng sẽ đến.
14Tôi sẽ lấy răng cắn thịt mình; tôi sẽ giữ mạng sống trong tay tôi.
15Kìa, nếu Ngài giết tôi, tôi sẽ chẳng còn hy vọng gì nữa; tuy nhiên, tôi sẽ bảo vệ đường lối tôi trước mặt Ngài. 16Đây sẽ là lý do cho sự tha tội tôi, rằng tôi không đến trước mặt Ngài như một người vô đạo.
17Lạy Đức Chúa Trời, xin cẩn thận lắng nghe lời con; xin nghe lời tuyên bố của con. 18Bây giờ, tôi đã chuẩn bị sẵn lời biện hộ; tôi biết mình vô tội.
19Ai dám tranh luận với tôi trước tòa? Nếu Ngài đến tranh luận, và nếu Ngài chứng minh là tôi sai, thì tôi sẽ im lặng và giao phó mạng sống tôi cho Ngài. 20Lạy Đức Chúa Trời, xin Ngài chỉ làm hai điều cho con, sau đó con sẽ không ẩn mặt khỏi Ngài;
21xin Chúa rút tay nặng trĩu của Ngài khỏi con, và xin đừng để sự khiếp sợ Ngài khiến con sợ hãi.22Xin Chúa gọi con, con sẽ trả lời; hoặc cho con nói với Ngài, rồi Ngài trả lời con. 23Con đã phạm bao nhiêu lỗi lầm và tội lỗi? Xin cho con biết sự vi phạm và tội lỗi con.
24Sao Chúa ẩn mặt khỏi con và xem con như kẻ thù của Ngài?
25Ngài sẽ hành hạ chiếc lá bị gió đưa đi? Ngài sẽ đuổi theo cọng rơm khô? 26Vì Ngài ghi lại những điều con cay đắng; Ngài bắt con gánh những tội lỗi của thời thơ ấu.
27Ngài cũng đặt chân con vào cùm; Ngài cẩn thận xem xét đường lối con; Ngài ghi dấu nơi chân con đến
28dù con giống như thứ mục nát tan tành, như chiếc áo bị sâu ăn. 141Loài người do người nữ sinh ra, chỉ sống tạm vài ngày và lòng đầy phiền muộn.2Người như hoa nảy mầm từ đất rồi bị chặt đi; người như bóng tối và chẳng ở lại lâu.
3Ngài có xem những điều này không? Ngài có đem con ra để xét xử không? 4Ai có thể đem đến thứ gì trong sạch từ trong sự ô uế? Chẳng ai cả.
5Các ngày của loài người đã được định đoạt; Ngài biết rõ số các tháng trong đời người; Ngài đã lập giới hạn để người không thể vượt qua.
6Xin Chúa ngoảnh mặt khỏi người để người nghỉ ngơi, tận hưởng ngày của mình như người làm công nếu có thể được. 7Cây cối có thể hy vọng; nếu bị chặt, nó có thể lại đâm chồi, nhánh non của nó sẽ chẳng ngừng vươn ra.
8Dù rễ cây già cỗi dưới đất, và gốc cây chết trong cát bụi,
9nhưng nếu có ít nước, cây sẽ nảy chồi và đâm nhánh như cây non.10Nhưng loài người chết; tan biến; thật vậy, người tắt thở, rồi người về đâu?
11Như nước bốc hơi khỏi hồ, sông cạn nước và khô queo,
12loài người cũng nằm xuống và không thức dậy nữa. Cho đến khi các từng trời chẳng còn nữa, họ sẽ không thức dậy cũng không được kêu dậy.13Ôi, ước gì Chúa giấu con khỏi những điều phiền muộn ở âm phủ, ước gì Ngài giữ con khuất nẻo cho đến khi Ngài nguôi giận, ước gì Ngài định hạn cho con rồi hãy nhớ đến con!
14Nếu người phàm chết thì làm sao sống lại? Nếu vậy, con vẫn đợi chờ thời gian mệt nhọc đến khi con được giải cứu. 15Chúa sẽ gọi, con sẽ trả lời. Ngài mong chờ công việc của tay Ngài.
16Ngài sẽ đếm và quan tâm những bước chân của con; Ngài sẽ không ghi nhớ tội lỗi con.
17Sự vi phạm của con sẽ được niêm phong trong một cái túi; Ngài sẽ khỏa lấp tội lỗi con. 18Nhưng thậm chí núi non sụp đổ và chẳng còn lại gì; ngay cả đá bị dời khỏi chỗ nó;
19nước chảy đá mòn; nước lụt cuốn đi bụi đất trên thế gian. Cũng vậy, Ngài phá hủy niềm hy vọng của con người.20Ngài luôn đánh bại người, người qua đời; Ngài biến đổi diện mạo người và đuổi người đi.
21Các con trai người được tôn kính, nhưng người chẳng biết; họ có thể bị hạ xuống, nhưng người không hay.
22Người chỉ cảm biết nỗi đau của thân mình, và người than khóc cho chính mình. 151Ê-li-pha người Tê-man trả lời,2“Người khôn ngoan nên trả lời bằng tri thức vô dụng và lấp đầy mình bằng gió đông sao?3Người lý luận bằng lời vô bổ hay bằng cách nói vô giá trị sao? 4Thật vậy, ông giảm lòng tôn trọng Đức Chúa Trời; ông cản trở người ta tỏ lòng thành tâm với Ngài,
5vì tội lỗi ông xui miệng ông; ông chọn lưỡi của người xảo trá.6Miệng ông lên án ông, chứ không phải miệng tôi; thật vậy, môi ông làm chứng nghịch lại ông. 7Ông là người đầu tiên được sinh ra sao? Ông đã hiện hữu trước khi có núi đồi sao?
8Ông đã nghe về tri thức kín nhiệm của Đức Chúa Trời chưa? Chỉ một mình ông khôn ngoan sao?
9Có điều gì ông biết mà chúng tôi không biết? Có điều gì ông hiểu mà chúng tôi không hiểu? 10Trong số chúng tôi có người tóc bạc và người già cả, tuổi tác lớn hơn cha của ông.
11Có phải lời an ủi của Đức Chúa Trời quá nhỏ đối với ông, tức là những lời lẽ nhẹ nhàng đối với ông? 12Sao lòng ông bấn loạn? Tại sao mắt ông long lên sòng sọc,
13đến nỗi ông xây lòng khỏi Chúa và thốt ra những lời ấy?14Loài người là chi mà Ngài phải làm cho thanh sạch? Người phàm được người nữ sinh ra là chi mà lại công bình? 15Kìa, Đức Chúa Trời thậm chí không tin các thánh của Ngài; thật vậy, các từng trời không trong sạch trước mặt Ngài;
16huống chi người xấu xa và đồi bại, là người uống tội lỗi như uống nước, thì làm sao trong sạch được!17Tôi sẽ dạy ông; hãy nghe tôi; tôi sẽ nói với ông về những việc tôi đã thấy,
18những việc mà người khôn ngoan đã truyền lại từ tổ phụ họ, những việc mà tổ phụ họ không giấu giếm.19Các tổ phụ ấy là người đã được ban đất đai, và không có khách lạ nào ở giữa họ.
20Kẻ gian ác dằn vặt đau đớn trọn đời mình, số các năm được dành cho kẻ đàn áp.
21Tai nó nghe tiếng kinh hãi đang khi nó sống thịnh vượng, kẻ hủy diệt sẽ đến trên nó. 22Nó không nghĩ rằng nó thoát khỏi sự tối tăm; gươm giáo chờ nó.
23Nó đi khắp nơi để tìm bánh, hỏi rằng, ‘Bánh đâu?’ Nó biết rằng ngày tối tăm đang gần kề.
24Tai họa và nỗi thống khổ khiến nó sợ hãi; chúng lấn át nó, như vua sẵn sàng ra trận. 25Vì nó đã giơ tay nghịch lại Đức Chúa Trời và cư xử ngạo mạn với Đấng Toàn năng,
26kẻ gian ác ấy xông vào Đức Chúa Trời, cổ ngước thẳng và tay cầm khiên dày.27Đúng vậy, dù nó lấy mỡ che mặt và làm căng hông,
28nó sẽ sống trong các thành hoang phế; trong nhà cửa bỏ hoang và sắp đổ nát.29Nó sẽ không giàu; sự giàu sang của nó sẽ chẳng còn bao lâu; ngay cả bóng của nó cũng sẽ không kéo dài trên đất.
30Nó sẽ không thoát khỏi bóng tối; lửa sẽ thiêu rụi nhánh của nó; hơi thở từ miệng Chúa sẽ cuốn nó đi xa. 31Ước gì nó đừng tin cậy vào sự vô ích, tự lừa dối mình; vì sự vô ích sẽ là phần thưởng của nó.
32Việc đó sẽ xảy đến trước khi nó hết kỳ hạn; nhánh nó sẽ không xanh tươi.
33Nó sẽ như trái nho non bị rụng; nó sẽ không ra hoa như cây ô-liu. 34Vì hội của kẻ vô đạo sẽ không sinh sản; lửa sẽ thiêu đốt lều của bọn hối lộ.
35Chúng thụ thai việc ác và sinh ra điều tàn bạo; lòng dạ chúng thai nghén sự giả dối. 161Gióp trả lời,2“Tôi đã nghe những lời như vậy rồi; tất cả các ông đều là những người an ủi đáng thương.3Bao giờ mới dứt lời vô dụng? Các ông gặp chuyện gì đến nỗi trả lời tôi như vậy? 4Tôi cũng có thể nói như các ông, nếu các ông ở trong hoàn cảnh tôi; tôi có thể suy luận và dùng lời lẽ để nói nghịch các ông và lắc đầu nhạo báng các ông.
5Ôi, ước gì tôi dùng miệng mình mà khuyến khích các ông! Ước gì lời an ủi từ môi tôi sẽ làm nhẹ nỗi sầu khổ của các ông! 6Nếu tôi nói, nỗi sầu khổ của tôi chẳng giảm đi; nếu tôi cứ nói, làm sao tôi được giúp đỡ?
7Nhưng bây giờ, lạy Đức Chúa Trời, Ngài đã khiến con mệt mỏi; Ngài đã khiến cả gia đình con tan hoang.
8Ngài đã khiến con khô cằn, việc này làm chứng nghịch lại con; thân thể gầy còm tố cáo con. 9Đức Chúa Trời xâu xé tôi trong cơn thạnh nộ và nghịch tôi; Ngài nghiến răng nghịch tôi; kẻ thù tôi trừng mắt nhìn tôi khi Ngài xé xác tôi.
10Người ta há miệng nghịch tôi; họ vả má tôi một cách khinh thị; họ tụ họp nghịch lại tôi. 11Chúa Trời phó tôi vào tay người vô đạo; Ngài quăng tôi vào tay kẻ gian ác.
12Tôi đang sống thanh thản, Ngài bẻ tôi. Thật vậy, Ngài túm cổ tôi và đập tôi tan nát; Ngài cũng biến tôi thành bia đỡ đạn. 13Các cung thủ của Ngài vây quanh tôi; Chúa đâm thận tôi và không tha tôi; Ngài đổ mặt tôi xuống đất.
14Ngài đập tôi tơi tả; Ngài xông đánh tôi như một chiến binh. 15Tôi đã may áo tang trên da tôi; tôi ấn sừng tôi xuống đất.
16Mặt tôi sưng đỏ vì khóc; trên mi mắt tôi là bóng của sự chết
17dù tay tôi chẳng làm điều bạo lực, lời cầu nguyện của tôi tinh sạch.18Hỡi trái đất, chớ lấp huyết tôi; chớ để lời kêu than của tôi được ngưng lại.
19Ngay cả bây giờ, kìa, Đấng làm chứng của tôi ở trên thiên đàng; Đấng bào chữa tôi ngự trên cao. 20Bạn bè tôi chế nhạo tôi, nhưng tôi hướng về Chúa mà khóc.
21Ước gì Ngài làm chứng tôi với Đức Chúa Trời như loài người làm chứng với nhau!
22Vì sau một vài năm nữa, tôi sẽ đến nơi mà tôi sẽ chẳng trở về. 171Tinh thần con hao mòn, các ngày con qua đi; mồ mả đang đợi con.2Chắc chắn bọn chế nhạo vây quanh con; mắt con luôn thấy sự khiêu khích của chúng.
3Xin ban cho con chứng cớ, xin Ngài bảo lãnh con; còn ai sẽ giúp đỡ con nữa? 4Lạy Chúa, vì Ngài đã ngăn lòng họ khỏi sự hiểu biết; vì vậy, Ngài sẽ không nhấc họ lên cao hơn con.
5Kẻ nào tố giác bạn bè mình để nhận thưởng, mắt của con cái hắn sẽ hao mòn. 6Nhưng Ngài khiến con trở thành tục ngữ của thiên hạ, chúng nhổ vào mặt con.
7Mắt con cũng đã lờ đờ vì buồn thảm; toàn thân con rã rời như bóng đêm.
8Người ngay thẳng sẽ sửng sốt về việc này; người vô tội sẽ phẫn nộ kẻ vô đạo. 9Người công bình sẽ giữ vững đường lối mình; ai có tay trong sạch sẽ càng thêm mạnh mẽ.
10Nhưng các ông hãy đến đây; tôi sẽ không tìm được một ai khôn ngoan trong số các ông. 11Các ngày của tôi đã qua, kế hoạch của tôi đổ vỡ, ngay cả ước muốn trong lòng tôi cũng vậy.
12Những người này, những kẻ chế giễu, biến đêm thành ngày; họ nói ánh sáng gần với bóng tối. 13Bởi chưng tôi xem âm phủ như nhà mình; vì tôi trải giường trong bóng tối;
14vì tôi đã nói với cái huyệt, ‘Ngươi là cha ta,’ và với giòi bọ, ‘Ngươi là mẹ ta và chị ta,’15vậy niềm hy vọng của tôi ở đâu? Ai có thể thấy niềm hy vọng của tôi? 16Sự hy vọng sẽ cùng tôi xuống cổng âm phủ khi chúng ta trở về với bụi đất? 181Binh-đát người Su-a trả lời,2“Khi nào ông ngưng nói? Hãy xem xét, rồi chúng tôi sẽ nói.3Sao ông xem chúng tôi như loài thú; sao ông coi chúng tôi như kẻ ngốc?
4Ông giận dữ xé toạc mình, chẳng lẽ trái đất phải rúng động vì ông hay đá phải bị dời khỏi chỗ nó sao? 5Thật vậy, ánh sáng của kẻ ác sẽ vụt tắt; tia lửa của hắn sẽ chẳng cháy sáng.
6Ánh sáng trong lều hắn sẽ trở nên tối tăm; ngọn đèn trên đầu hắn sẽ tắt. 7Các bước chân mạnh mẽ của hắn trở nên ngắn ngủi; mưu kế của hắn sẽ hạ gục hắn.
8Vì hắn đưa chân mình vào lưới; hắn sẽ rơi vào cạm bẫy. 9Bẫy sẽ nắm gót chân nó; lưới bẫy sẽ sa trên hắn.
10Thòng lọng chờ chực hắn dưới đất; bẫy chờ sẵn hắn trên đường.
11Nỗi khiếp sợ sẽ khiến hắn hãi hùng tứ phía; chúng sẽ theo đuổi gót chân hắn. 12Của cải của hắn sẽ thành cơn đói, tai họa chực sẵn bên cạnh hắn.
13Các chi thể hắn sẽ bị cắn xé; thật vậy, con đầu lòng của thần chết sẽ ăn tươi nuốt sống thân thể hắn. 14Hắn sẽ bị kéo ra khỏi lều, là nơi hắn nương dựa; hắn sẽ bị lôi đến thần chết, vua của sự kinh hoảng.
15Kẻ chẳng thuộc về hắn sẽ sống trong lều hắn sau khi chúng thấy lưu huỳnh vương vãi trong nhà hắn. 16Rễ của hắn dưới đất sẽ khô cằn; nhánh của hắn sẽ bị chặt.
17Kỷ niệm của hắn dưới đất sẽ phai tàn; tên hắn sẽ không còn được nhắc ở ngoài đường. 18Hắn sẽ bị đuổi từ nơi có ánh sáng vào vùng tối tăm và bị trục xuất khỏi thế giới này.
19Hắn sẽ không có con cháu trong dòng tộc, trong nhà hắn cũng sẽ chẳng còn bà con.
20Người sống ở phương tây sẽ sững sờ về điều xảy ra với hắn; người sống ở phương đông sẽ khiếp hãi. 21Chắc chắn đó là số phận của người không công bình, là chỗ của những người không biết Đức Chúa Trời.” 191Gióp trả lời,2“Các ông dày vò tôi và dùng lời nói nghiền nát tôi đến khi nào?3Đã mười lần các ông quở trách tôi; các ông bạc đãi tôi mà chẳng xấu hổ.
4Nếu đúng là tôi có lỗi, thì lỗi ấy vẫn là do tôi. 5Nếu thật các ông lên mặt với tôi và thuyết phục mọi người rằng tôi bị ghét bỏ,
6thì các ông nên biết rằng Đức Chúa Trời đã gây thiệt hại cho tôi và giăng lưới Ngài bắt tôi.7Kìa, tôi kêu la rằng tôi bị ngược đãi, nhưng chẳng ai nghe tôi; tôi kêu cứu, nhưng chẳng thấy công lý.
8Ngài đã chặn đường để tôi không thể vượt qua, Ngài khiến tối tăm vây phủ lối đi của tôi.
9Ngài tước đoạt sự vinh quang tôi, Ngài lấy vương miện trên đầu tôi. 10Ngài đập tôi tan nát tứ phía, tôi chẳng còn nữa; Ngài lấy hết hy vọng của tôi như cái cây.
11Ngài cũng nhen cơn giận Ngài trên tôi; Ngài xem tôi như một trong các kẻ thù của Ngài.
12Các đạo quân của Ngài kéo tới; chúng đắp gò bao vây tôi và dựng trại quanh lều tôi. 13Ngài khiến anh em tôi lìa xa tôi; người quen của tôi hoàn toàn trở nên xa lạ với tôi.
14Bà con thân thích của tôi lìa bỏ tôi; bạn bè thân thiết quên tôi. 15Khách khứa từng ở trong nhà tôi và đứa tớ gái tôi xem tôi như người lạ; trước mặt họ tôi là người xa lạ.
16Tôi gọi đầy tớ, nhưng nó không trả lời dù miệng tôi nài xin nó. 17Hơi thở của tôi khiến vợ tôi khó chịu; lời tôi nài xin trở nên ghê tởm với anh chị em tôi.
18Ngay cả trẻ con cũng khinh thị tôi; nếu tôi đứng dậy nói, chúng cũng nói nghịch lại tôi.
19Tất cả bạn bè quen thuộc của tôi đều ghê tởm tôi; những người tôi yêu thương cũng trở mặt nghịch tôi. 20Xương cốt tôi bám vào da thịt tôi; tôi còn sống chỉ còn da bọc răng.
21Xin thương xót tôi, xin thương xót tôi, hỡi các bạn của tôi, vì tay của Đức Chúa Trời đã rờ đến tôi.
22Sao các ông bắt bớ tôi như thể các ông là Đức Chúa Trời? Sao các ông không thỏa mãn khi thiêu nuốt thịt tôi? 23Ôi, ước gì lời tôi nói được viết xuống! Ôi, ước gì chúng được viết trong sách!
24Ôi, ước gì chúng được viết bằng bút sắt và chì lên đá mãi mãi! 25Còn về phần tôi, tôi biết rằng Đấng Cứu chuộc tôi vẫn sống, cuối cùng Ngài sẽ đứng vững trên đất;
26sau khi da tôi, thân xác này, bị tiêu hủy, tôi sẽ xem Chúa trong xác thịt tôi.27Tôi sẽ thấy Ngài, chính tôi sẽ thấy Ngài bên cạnh tôi; mắt tôi sẽ thấy Ngài, chứ không xem Ngài là người lạ. Thận tôi hao mòn trong tôi. 28Nếu các ông nói, ‘Chúng ta quấy rối ông ấy thế nào! Cội rễ tai họa của ông ấy đều nằm ở ông ấy,’
29vậy các ông hãy sợ gươm, vì cơn thạnh nộ đem theo sự đoán phạt của gươm, để các ông biết là có sự đoán xét.” 201Bấy giờ, Xô-pha người Na-a-ma trả lời,2“Các tư tưởng tôi giục tôi trả lời vì tôi lo lắng.3Tôi có nghe một lời quở trách của ông khiến tôi xấu hổ, nhưng tinh thần hiểu biết của tôi đáp lại. 4Có biết rằng từ thời xa xưa, khi Đức Chúa Trời đặt loài người trên đất này:
5thì niềm hân hoan của kẻ ác là ngắn ngủi, và niềm vui của kẻ vô đạo chỉ kéo dài trong chốc lát?6Dù hắn vươn đến tận trời, và đầu hắn đụng đến mây,
7nhưng hắn sẽ hư vong mãi mãi như phân của hắn; ai từng thấy hắn sẽ hỏi, ‘Người đó ở đâu?’8Hắn sẽ tan biến như giấc mơ và không ai tìm được; thật vậy, hắn sẽ bị rượt đuổi như dị tượng trong đêm.
9Mắt từng thấy hắn sẽ không còn thấy hắn nữa; nơi hắn ở sẽ chẳng thấy hắn nữa. 10Con cái hắn sẽ xin lỗi người nghèo; tay hắn sẽ phải trả lại sự giàu sang của hắn.
11Xương cốt hắn đầy sinh lực của tuổi trẻ, nhưng sinh lực ấy sẽ nằm xuống với hắn trong bụi đất. 12Dù sự gian ác là ngọt ngào trong miệng hắn, dù hắn giấu sự gian ác dưới lưỡi,
13dù hắn không nhả ra nhưng vẫn ngậm trong miệng –14thì thức ăn trong bụng hắn sẽ đắng hơn; chúng như nọc rắn trong người hắn.15Hắn nuốt của cải, nhưng rồi lại mửa ra; Đức Chúa Trời sẽ tống chúng ra khỏi bụng hắn.
16Hắn sẽ mút nọc của rắn hổ; lưỡi rắn lục sẽ giết hắn. 17Hắn sẽ không còn sống để nhìn những con sông và dòng suối tràn mật và bơ.
18Điều hắn đã nhọc công, hắn sẽ phải trả lại; hắn sẽ không nuốt nổi; hắn sẽ không hưởng được sự giàu có của hắn.
19Vì hắn đã áp bức và khinh khi người nghèo; hắn đã chiếm đoạt nhà cửa mà hắn không xây. 20Vì hắn không thỏa mãn, nên hắn sẽ không thể giữ lấy bất cứ thứ gì mà hắn thích.
21Chẳng còn lại thứ gì mà hắn không cắn xé; vì vậy, sự thịnh vượng của hắn sẽ chẳng bền.
22Hắn sẽ gặp khó khăn đang khi giàu sang; tay của người nghèo sẽ tra trên hắn. 23Khi hắn sắp làm căng bụng mình, Chúa sẽ trút cơn thạnh nộ dữ dội của Ngài trên hắn; Chúa sẽ giáng mưa trên hắn khi hắn đang ăn.
24Dù hắn trốn thoát vũ khí bằng sắt, nhưng cây cung đồng sẽ bắn hắn.
25Mũi tên ấy sẽ đâm xuyên lưng hắn ra đằng trước; thật vậy, đầu tên lấp lánh sẽ lòi ra khỏi gan hắn; sự kinh khiếp giáng trên hắn. 26Sự tối tăm mù mịt bao trùm kho tàng của hắn; lửa không ai thổi sẽ thiêu rụi hắn; nó sẽ thiêu đốt những gì còn lại trong lều của hắn.
27Các từng trời sẽ tỏ bày tội lỗi của hắn, đất sẽ nổi dậy làm chứng chống lại hắn. 28Sự giàu có trong nhà hắn sẽ tan biến; của cải hắn sẽ biến mất trong ngày Đức Chúa Trời nổi cơn thạnh nộ.
29Đây là số phận của kẻ ác mà Đức Chúa Trời đem đến, là di sản Ngài dành cho hắn.” 211Gióp trả lời rằng,2“Xin nghe kỹ lời tôi nói, hãy để lời ấy an ủi các ông.3Xin chịu đựng tôi, tôi cũng sẽ nói; sau khi tôi nói, hãy cứ chế giễu tôi. 4Còn về phần tôi, lời than phiền của tôi hướng về người khác sao? Sao tôi không nên nóng vội?
5Hãy nhìn tôi và kinh ngạc, hãy lấy tay che miệng các ông.
6Khi nghĩ đến sự đau khổ của mình, tôi băn khoăn, sự kinh khiếp làm tôi rởn thịt. 7Sao kẻ ác vẫn sống, già đi, và sức mạnh quyền thế cứ thêm lên?
8Dòng dõi của chúng được lập trước mặt chúng, con cái chúng được lập trước mắt chúng.
9Nhà của chúng yên ổn, không có sự sợ hãi; roi của Chúa cũng không giáng trên chúng. 10Bò đực của chúng sanh sản không thôi; bò cái của chúng sanh sản và không bao giờ bị sẩy thai.
11Chúng sanh ra một bầy, con cái của chúng chạy nhảy như đàn chiên.
12Chúng hát theo tiếng trống cơm và đàn hạc, vui đùa với tiếng nhạc của cây sáo. 13Chúng sống những ngày thịnh vượng, rồi chúng nhanh chóng xuống âm phủ.
14Chúng nói với Đức Chúa Trời, ‘Hãy lìa khỏi chúng tôi, vì chúng tôi không muốn biết đường lối Ngài.
15Đấng Toàn năng là chi mà chúng tôi phải tôn thờ? Chúng tôi được lợi gì nếu cầu khẩn Ngài?’ 16Kìa, chẳng phải sự thịnh vượng của chúng ở trong tay chúng sao? Tôi chẳng liên quan gì với lời khuyên của kẻ ác.
17Có bao lần đèn của kẻ ác bị dập tắt, hay là tai họa của chúng giáng trên chúng? Có mấy khi Chúa giận dữ giáng sự sầu khổ trên chúng?
18Có bao giờ chúng như rơm rạ trước cơn gió hay như trấu bão lùa đi? 19Các ông nói, ‘Chúa để con cái của hắn trả thay cho tội lỗi của hắn.’ Hãy để hắn tự trả giá, để hắn biết tội lỗi mình.
20Mắt hắn phải thấy sự hủy diệt của hắn và hắn phải uống cơn thạnh nộ của Đấng Toàn năng.
21Hắn quan tâm gì đến gia đình hắn khi mà số các tháng của hắn bị cắt bớt? 22Ai có thể dạy Đức Chúa Trời về sự hiểu biết vì Ngài đoán xét người ở nơi cao?
23Có người chết khi còn mạnh khỏe, thanh thản và hoàn toàn bình lặng.
24Thân thể người đầy sữa, và tủy xương cốt người đầy nhựa sống và mạnh mẽ. 25Có người chết khi lòng cay đắng, đó là người chưa bao giờ trải nghiệm điều tốt lành nào cả.
26Cả hai đều nằm xuống trong bụi đất; giòi bọ bao phủ họ. 27Kìa, tôi biết tư tưởng của các ông, và cách các ông muốn hại tôi.
28Vì các ông nói, ‘Nhà của ông hoàng ở đâu? Lều của kẻ ác ở đâu?’ 29Các ông chưa bao giờ hỏi khách lữ hành sao? Các ông không biết lời chứng của họ,
30rằng kẻ gian ác được miễn trừ khỏi ngày tai họa, nó được thoát trong ngày thạnh nộ sao?31Ai sẽ tố cáo đường lối kẻ ác? Ai sẽ báo trả vì những việc nó làm?
32Khi hắn được đưa mồ mả; người ta vẫn sẽ canh giữ phần mộ đó.
33Những cục đất trong thung lũng sẽ êm dịu với nó; mọi người sẽ theo sau nó, trước mặt nó thì nhiều người vô kể. 34Vậy các ông sẽ an ủi tôi với những lời vô bổ, vì câu trả lời của các ông có sự sai trái?” 221Ê-li-pha người Tê-man trả lời,2“Người phàm có ích cho Đức Chúa Trời không? Người khôn ngoan có ích cho Ngài không?3Đấng Toàn năng có vui nếu ông công bình không? Ngài được lợi gì nếu ông làm cho đường lối ông trọn vẹn? 4Có phải vì ông tôn kính Ngài nên Ngài quở trách ông và đoán xét ông?
5Sự yếu đuối của ông chẳng lớn sao? Tội lỗi ông không có giới hạn sao? 6Vì ông đã lấy của cầm của anh em mình một cách vô cớ; ông đã lột trần người ta.
7Ông không cho người mệt nhoài có nước uống; ông đòi bánh khỏi tay người nghèo
8dù ông, một cường thạnh, sở hữu đất đai, dù ông, một người được tôn trọng, sống tại đó.9Ông đuổi góa phụ đi tay không; tay của người mồ côi cha bị gãy.
10Vậy, bẫy giăng quanh ông, nỗi kinh hoàng bất thần quấy rầy ông.
11Sự tối tăm bao trùm làm ông không thể thấy; nước nhấn chìm ông. 12Đức Chúa Trời không ngự ở nơi cao trên trời sao? Hãy nhìn xem bề cao của các vì sao, chúng thật cao biết mấy!
13Ông nói, ‘Đức Chúa Trời có thể biết gì? Ngài có thể xét xử qua bóng tối mịt mùng sao?
14Các đám mây mù che mắt Ngài nên Ngài không thấy chúng ta; Ngài bước trên vòm trời.’ 15Ông sẽ giữ lối cũ mà kẻ ác đã đi –
16những kẻ bị lôi đi trước giờ định, nền tảng của chúng trôi theo sông,17chúng thưa với Chúa, ‘Xin rời khỏi chúng con’; chúng nói, ‘Đấng Toàn năng có thể làm gì cho chúng tôi?’18Tuy nhiên Ngài ban cho nhà chúng đầy những vật tốt; mưu của kẻ ác xa với tôi lắm.
19Người công bình thấy sự hủy diệt của chúng và cảm thấy vui; người vô tội nhạo báng chúng.
20Họ nói, “Chắc chắn kẻ thù nghịch chúng ta sẽ chết; lửa thiêu nuốt gia tài của chúng.’ 21Bây giờ, hãy hòa thuận với Đức Chúa Trời và sống yên ổn với Ngài; như vậy, sự tốt lành sẽ lại đến với ông.
22Tôi xin ông hãy nghe lời dạy dỗ từ miệng Ngài; hãy giấu lời Ngài trong lòng ông. 23Nếu ông trở lại cùng Đấng Toàn năng, ông sẽ được phục hồi, nếu ông đem sự bất chính ra khỏi lều mình.
24Hãy để báu vật của ông xuống bụi đất, và vàng Ô-phia giữa các hòn đá ở khe,
25thì Đấng Toàn năng sẽ là kho báu của ông, là bạc quý của ông.26Bấy giờ ông sẽ vui mừng nơi Đấng Toàn năng; ông sẽ ngẩng mặt nhìn lên Đức Chúa Trời.
27Ông sẽ khẩn nguyện Ngài, Ngài sẽ nghe ông; ông sẽ làm trọn lời thề ước với Ngài.
28Ông cũng sẽ quyết định bất cứ điều gì, điều đó sẽ được ban cho ông; ánh sáng sẽ chiếu trên đường lối ông. 29Đức Chúa Trời hạ thấp người kiêu ngạo, Ngài cứu những người khiêm nhường.
30Ngài sẽ cứu người vô tội; ông sẽ được cứu bởi tay tinh sạch của ông.” 231Gióp trả lời,2“Ngay cả hôm nay lời than phiền của tôi cay đắng; sự đau khổ của tôi nặng hơn tiếng tôi rên rỉ.3Ôi, ước gì tôi biết phải tìm Ngài ở đâu! Ôi, ước gì tôi đến nơi ở của Ngài!
4Tôi sẽ trình duyên cớ của tôi trước mặt Ngài và tranh luận với Ngài.
5Tôi sẽ biết những lời Ngài trả lời tôi và hiểu lời Ngài nói với tôi. 6Ngài sẽ tranh luận với tôi bằng quyền năng lớn lao của Ngài sao? Không, Ngài sẽ để ý đến tôi.
7Người ngay thẳng có thể tranh luận với Ngài. Như vậy, tôi sẽ được thoát khỏi tay người đoán xét tôi đời đời. 8Kìa, tôi tới phía đông, nhưng Ngài không có ở đó, tôi đi về phía tây, nhưng chẳng thấy Ngài.
9Tôi tới phía bắc, là nơi Ngài đang làm việc, nhưng không gặp Ngài, và về phía nam, là nơi Ngài ẩn mình nhưng tôi cũng chẳng thấy Ngài. 10Tuy nhiên Ngài biết đường tôi đi; khi Ngài thử tôi, tôi sẽ ra như vàng.
11Chân tôi bám theo bước Ngài; tôi đi theo đường lối Ngài và chẳng đi sai lệch.
12Tôi không từ bỏ điều răn từ môi Ngài; tôi đã giấu lời Ngài trong lòng tôi. 13Nhưng Ngài đã quyết định, ai có thể lay chuyển Ngài? Điều Ngài muốn, Ngài sẽ làm.
14Vì Ngài thực hiện những gì Ngài định cho tôi; với nhiều điều tương tự. 15Do đó, tôi kinh sợ trước mặt Ngài; khi nghĩ về Ngài, tôi khiếp sợ Ngài.
16Vì Đức Chúa Trời khiến lòng tôi bủn rủn; Đấng Toàn năng làm tôi khiếp sợ.
17Tôi không bị bóng tối che khuất, bóng đêm dày đặc cũng không che phủ mặt tôi. 241Sao Đấng Toàn năng không định thời hạn đoán xét kẻ ác? Sao những người trung tín với Đức Chúa Trời không thấy ngày đoán xét ấy?2Có những kẻ ác dời mốc địa giới; có những kẻ ác cướp bầy súc vật và dẫn vào đồng cỏ của chúng.
3Chúng đuổi lừa của người mồ côi cha; chúng lấy bò đực của góa phụ làm của cầm.
4Chúng đuổi người thiếu thốn ra khỏi đường lối chính đáng; người nghèo trong xứ ẩn tránh chúng. 5Kìa, người nghèo nai lưng làm lụng như lừa hoang nơi hoang mạc, cẩn thận tìm thức ăn; có lẽ hoang mạc A-ra-ba sẽ cung cấp thức ăn cho họ và con cái họ.
6Người nghèo gặt ở đồng ruộng người khác vào ban đêm; họ mót nho từ vụ thu hoạch của kẻ ác.
7Họ nằm mình trần suốt đêm không quần áo; họ không có mền đắp khi trời lạnh. 8Họ bị ướt vì mưa trên núi; họ núp bên những tảng đá lớn vì họ không có chỗ trú.
9Có kẻ ác giật trẻ mồ côi khỏi bầu sữa của mẹ, và kẻ ác bắt con thơ của người nghèo làm tin.
10Nhưng người nghèo đi khắp nơi mình trần không quần áo; dù họ đói nhưng phải vác những bó lúa của người khác. 11Người nghèo ép dầu trong vựa của kẻ ác; họ đạp nho trong bồn của kẻ ác nhưng chính họ khổ vì khát.
12Trong thành, người ta rên rỉ; kẻ bị thương kêu la, nhưng Đức Chúa Trời chẳng ngó ngàng gì đến lời cầu nguyện của họ. 13Một số kẻ ác chống lại ánh sáng; chúng không biết lối đi, cũng không ở trong đường lối ấy.
14Kẻ ám sát thức dậy từ sáng; hắn giết người nghèo và người khốn cùng; ban đêm hắn như kẻ trộm. 15Ngoài ra, mắt của kẻ ngoại tình trông chờ chạng vạng; hắn nói, ‘Sẽ không ai thấy ta.’ Hắn cải trang khuôn mặt.
16Trong đêm tối, kẻ ác khoét vách vào nhà; nhưng ban ngày chúng ẩn nấp, chúng không quan tâm đến ánh sáng.
17Vì đối với chúng nó, buổi sáng cũng như đêm tối mịt; chúng quen thuộc với nỗi kinh hãi của bóng tối. 18Tuy nhiên, chúng nhanh chóng tan biến như bọt tan trên mặt nước; phần đất của chúng bị rủa sả; không ai làm việc trong vườn nho của chúng.
19Hạn hán và sức nóng làm tan nước tuyết; âm phủ cũng thiêu nuốt những kẻ phạm tội. 20Tử cung đã sanh nó sẽ quên nó; giòi bọ sẽ ăn thịt nó; nó sẽ chẳng còn được ai nhớ nữa; như vậy, sự gian ác sẽ đổ như cây cối.
21Kẻ ác cắn xé phụ nữ hiếm muộn; nó đối xử tệ với góa phụ. 22Tuy nhiên, Đức Chúa Trời dùng sức mạnh Ngài tiêu diệt kẻ cường thạnh; Ngài trỗi dậy và chẳng ban thêm sức mạnh cho chúng.
23Chúa cho chúng an toàn, và chúng vui về điều đó, nhưng mắt Ngài dõi theo con đường của chúng. 24Những kẻ này được tôn lên; chỉ trong chốc lát chúng sẽ tan biến; thật vậy, chúng sẽ bị hạ thấp; chúng sẽ bị gom lại như bao kẻ khác; chúng sẽ bị cắt như ngọn gié lúa.
25Nếu chẳng phải vậy, ai có thể chứng minh tôi là người dối trá; ai có thể khiến lời nói của tôi ra vô ích?” 251Binh-đát người Su-a trả lời,2“Quyền thế và sự sợ hãi thuộc về Ngài; Ngài thiết lập trật tự ở các nơi cao trên trời.3Ai đếm được số đạo quân của Ngài? Ai tránh được ánh sáng của Ngài? 4Vậy làm sao người phàm có thể được Đức Chúa Trời xưng công bình? Làm sao con người do người nữ sanh ra có thể trong sạch, được Ngài chấp nhận?
5Kìa, ngay cả mặt trăng cũng không đủ sáng; các ngôi sao cũng không trong sạch trước mặt Ngài.
6Huống hồ gì con người, là loài sâu bọ - con cái loài người, một loài sâu bọ!” 261Gióp trả lời,2“Các ông thật khéo giúp người cô thế! Các ông thật khéo giải cứu cánh tay không có sức mạnh!3Các ông thật khéo khuyên giải người thiếu sự khôn ngoan và công bố tri thức đúng đắn!
4Nhờ sự giúp đỡ của ai mà các ông nói những lời này? Thần khí nào đã ra từ các ông?” 5Binh-đát trả lời, “Những người đã chết, những vong hồn, đều run rẩy, những cư dân dưới nước.
6Âm phủ trơ trụi trước mặt Đức Chúa Trời; sự diệt vong không được che phủ trước mặt Ngài. 7Ngài trải phương bắc trên vùng trống và treo trái đất trên cõi không trung.
8Ngài ngăn nước trong những đám mây dày đặc, nhưng mây không bị xé toạc bởi nước. 9Ngài bao phủ mặt trăng và trải mây của Ngài trên nó.
10Ngài khắc một vòm tròn trên bề mặt nước như đường ranh giữa ánh sáng và bóng tối. 11Các trụ trên trời rúng động và kinh ngạc trước sự quở trách của Ngài.
12Bởi quyền năng Ngài, Ngài khiến biển yên lặng; bởi sự hiểu biết của Ngài, Ngài đánh vỡ Ra-háp. 13Bởi hơi thở Ngài, Ngài xóa những cơn bão khỏi bầu trời; các từng trời không còn bóng dáng của bão; tay Ngài đâm thủng con rắn đang bỏ chạy.
14Kìa, đây chỉ là cái nhìn thoáng qua về đường lối Ngài; tiếng thì thầm chúng ta nghe về Ngài thật nhỏ bé! Ai có thể hiểu tiếng sấm quyền năng Ngài? 271Gióp lại nói,2“Thật như Đức Chúa Trời hằng sống, Đấng đã tước công lý của tôi, Đấng Toàn năng, Ngài đã khiến cuộc đời tôi trở nên cay đắng,3vì hễ tôi còn sống chừng nào và hơi thở từ Đức Chúa Trời ở trong lỗ mũi tôi,4chắc chắn môi tôi sẽ không nói điều bất chính, lưỡi tôi cũng sẽ không nói lời giả dối.5Chẳng bao giờ tôi cho rằng các ông đúng; cho đến khi tôi chết, tôi sẽ không bao giờ phủ nhận sự liêm chính của tôi. 6Tôi nắm chặt sự công bình của tôi và sẽ không rời bỏ nó; các tư tưởng tôi sẽ không quở tôi chừng nào tôi còn sống.
7Nguyện kẻ thù tôi như người gian ác; ước gì kẻ chống nghịch tôi trở nên như kẻ bất chính. 8Vì người vô đạo có hy vọng gì khi bị Đức Chúa Trời cắt đứt, khi hắn bị Ngài cất mạng sống?
9Liệu Chúa sẽ nghe tiếng kêu la của hắn khi sự khó nhọc ập đến không?
10Hắn sẽ vui mừng trong Đấng Toàn năng và luôn kêu cầu Đức Chúa Trời không? 11Tôi sẽ chỉ dạy các ông về tay của Đức Chúa Trời; tôi sẽ không giấu các tư tưởng của Đấng Toàn năng.
12Kìa, chính tất cả các ông đã thấy điều này; vậy tại sao các ông nói những lời vô nghĩa này? 13Là vận mệnh của kẻ gian ác trước mặt Đức Chúa Trời, là di sản của kẻ đàn áp mà Đấng Toàn năng dành cho hắn:
14Nếu con cái hắn đông đảo, chúng sẽ được dành cho gươm giáo; con cháu hắn sẽ không bao giờ có đủ thức ăn.15Những người sống sót sẽ bị chôn vùi bởi bệnh dịch, các góa phụ của chúng sẽ không than khóc vì chúng.
16Dù kẻ ác tích lũy bạc như bụi đất, và chất đầy quần áo như đất sét,
17hắn có thể chất đầy quần áo, nhưng người công bình sẽ mặc, người vô tội sẽ chia bạc với nhau.18Hắn xây nhà như mạng nhện, như túp lều do người canh gác dựng lên.
19Hắn nằm xuống trên giường giàu sang, nhưng hắn sẽ chẳng luôn được hưởng; hắn mở mắt ra, và mọi thứ đều biến mất. 20Sự kinh hãi bắt kịp hắn như nước; bão cuốn hắn đi trong đêm.
21Gió đông thổi hắn bay mất, hắn biến mất; gió ấy quét sạch hắn khỏi chỗ hắn ở. 22Gió thổi xoáy vào hắn không ngớt; hắn cố chạy thoát khỏi sức mạnh của gió.
23Gió vỗ tay nhạo báng hắn; gió rít thổi hắn ra khỏi chỗ mình. 281Chắc chắn phải có mỏ bạc, là nơi người ta luyện vàng.2Sắt được lấy khỏi đất; đồng tan chảy khỏi đá. 3Người ta xua tan bóng tối và dò tìm đá trong sự tối tăm và mờ mịt đến tận cuối hang.
4Họ đào một cái hầm cách xa nơi dân chúng sinh sống, là nơi không ai đặt chân đến. Họ treo mình cách xa nơi người ta ở; đu đưa qua lại. 5Sanh ra miếng ăn, dưới lòng đất như bị lửa xáo trộn.
6Trong đá có ngọc bích, và trong bụi đất có vàng. 7Không chim săn mồi nào biết đường đến đó, mắt chim ưng cũng chẳng thấy được.
8Các mãnh thú không đi theo con đường đó, sư tử hung dữ cũng không đi ngang đó. 9Người ta tra tay trên đá lửa; họ lật đổ núi từ tận chân núi.
10Họ đục đá mở đường hầm; mắt họ thấy mọi vật quý.
11Họ ngăn dòng suối; họ đem mọi thứ ẩn giấu ra ánh sáng. 12Sự khôn ngoan sẽ được tìm ở đâu? Sự hiểu biết ở đâu?
13Loài người không biết giá trị của nó; nó cũng không được tìm thấy giữa xứ của người sống.
14Nước sâu dưới lòng đất nói, ‘Nó không có ở trong tôi’; biển cả nói, ‘Nó không có ở với tôi.’ 15Không thể đổi sự khôn ngoan để lấy vàng; cũng không thể cân bạc để định giá.
16Sự khôn ngoan không thể được định giá với vàng Ô-phia, với ngọc hồng mã não hay ngọc bích.
17Vàng và đồ pha lê không thể có giá trị tương đương với sự khôn ngoan; cũng không thể đổi sự khôn ngoan để lấy trang sức bằng vàng ròng. 18San hô hay ngọc thạch anh cũng chẳng đáng đề cập đến; thật vậy, sự khôn ngoan có giá trị hơn cả ngọc đỏ.
19Hoàng ngọc xứ Ê-thi-ô-pi không có giá trị ngang với sự khôn ngoan; sự khôn ngoan cũng không thể nào được định giá bằng vàng ròng. 20Vậy sự khôn ngoan đến từ đâu? Sự hiểu biết ở đâu?
21Sự khôn ngoan bị che khuất khỏi mắt của những loài sống và bị che khỏi mắt của chim trời.
22Sự hủy diệt và Tử thần nói, ‘Chính tai chúng ta có nghe tin đồn về điều đó.’ 23Chúa Trời hiểu con đường dẫn đến đó; Ngài biết chỗ đó.
24Vì Ngài nhìn khắp tận phương trời và thấy mọi thứ dưới trời.
25Từ xa xưa, Ngài đã ban sức mạnh cho gió và đo lường phân chia nước. 26Ngài ra lệnh cho gió và vạch đường cho sấm sét.
27Ngài thấy sự khôn ngoan và công bố; thật vậy, Ngài lập nên sự khôn ngoan và dò xét nó.
28Ngài phán với loài người, ‘Kìa, kính sợ Chúa – là khôn ngoan; tránh khỏi điều dữ là thông minh.” 291Gióp lại trả lời,2“Ồ, ước gì tôi ở trong những tháng ngày xa xưa khi Chúa chăm sóc tôi,3khi ngọn đèn Ngài soi trên đầu tôi, và khi tôi bước đi trong bóng đêm bằng ánh sáng Ngài.4Ôi, ước gì tôi ở trong những ngày chín muồi khi Đức Chúa Trời là bạn thân thiết che chở lều tôi,
5khi Đấng Toàn năng còn ở với tôi, và con cái tôi ở quanh tôi,6khi đường lối tôi bị sữa cuốn đi, và đá tuôn đổ trên tôi những dòng suối dầu!7Khi tôi ra khỏi cổng thành, khi tôi ngồi ở quảng trường của thành phố,
8các thanh niên thấy tôi và tránh qua một bên, người già đứng dậy và bênh vực tôi.9Các vương tử từng kìm chế không nói khi tôi đến; họ lấy tay che miệng mình.
10Người quý tộc im lặng, lưỡi họ dính chặt vào vòm miệng. 11Vì sau khi tai họ đã nghe tôi, họ sẽ chúc phước cho tôi; sau khi mắt họ đã thấy tôi, họ sẽ làm chứng cho tôi và chấp thuận tôi
12vì tôi từng cứu người nghèo khi họ kêu la, và tôi cũng cứu người mồ côi cha, khi họ không có ai để giúp đỡ.13Người sắp chết chúc phước cho tôi; tôi khiến cho người góa phụ vui mừng ca hát. 14Tôi mặc sự công bình, và nó che phủ tôi; công lý của tôi như chiếc áo choàng và khăn xếp.
15Tôi là mắt của người mù; tôi là đôi chân của người què.
16Tôi là cha của người thiếu thốn; tôi thậm chí sẽ xem xét cảnh ngộ của người mà tôi chẳng biết. 17Tôi bẻ hàm của kẻ bất chính; tôi lấy nạn nhân ra khỏi răng của nó.
18Sau đó tôi nói, ‘Tôi sẽ chết trong tổ của mình; tôi sẽ thêm lên các ngày như hạt cát.
19Rễ của tôi ăn sâu xuống tới nước, sương móc rơi trên các nhánh của ta suốt đêm. 20Sự tôn kính trong tôi luôn luôn tươi mới, cây cung sức mạnh trong tay tôi luôn mới.
21Người ta lắng nghe tôi, họ chờ tôi; họ im lặng nghe lời khuyên của tôi.
22Sau khi tôi đã nói xong, họ không nói gì nữa; lời nói của tôi như nước rơi trên họ. 23Họ luôn chờ đợi tôi như người ta trông chờ mưa; họ há miệng uống lời tôi, như người ta há miệng hứng nước mưa.
24Tôi mỉm cười khi họ không kỳ vọng; họ không từ chối ánh sáng của mặt tôi. 25Tôi chọn đường lối cho họ và chỉ huy họ; tôi sống như vua giữa quân đội, như người an ủi người than khóc ở đám tang. 301Bấy giờ những người trẻ hơn tôi chẳng có gì ngoại trừ lời nhạo báng tôi – những người trẻ mà cha của họ là người mà tôi hẳn sẽ từ chối không cho làm việc bên cạnh đàn chó chăn bầy của tôi.2Thật vậy, sức mạnh của tay cha họ, làm sao có thể giúp đỡ tôi – những người mà sức lực trong tuổi trưởng thành đã tàn lụi?
3Họ gầy còm vì nghèo đói; họ gặm nhắm trên đất khô trong bóng của hoang mạc và cảnh tan hoang. 4Họ nhổ cỏ lông lợn và lá của bụi cây; rễ của cây đậu chổi là thức ăn của họ.
5Họ bị đuổi khỏi những người la hét họ như thể la hét đuổi một tên trộm.
6Vì vậy họ phải sống trong các khe sông, trong các hang dưới đất và hang đá. 7Họ kêu inh tai giữa các bụi cây như con lừa; họ tập trung lại dưới bụi cây.
8Thật vậy, họ là con cháu của kẻ ngốc, của người vô dụng; họ bị đuổi ra khỏi xứ bằng roi. 9Nhưng bây giờ, vì con của họ, tôi trở thành đối tượng trong bài hát chế giễu của họ; thật vậy, tôi trở thành trò cười của họ.
10Họ ghét cay ghét đắng tôi và đứng tránh xa tôi; họ không ngại nhổ vào mặt tôi.
11Vì Chúa đã tháo dây cung của tôi và khiến tôi đau đớn, và do đó những người này không tự chủ trước mặt tôi. 12Bên phải tôi, một đám đông nổi lên; họ xua đuổi tôi và đắp lũy bao vây tôi.
13Họ hủy phá đường lối tôi; họ đẩy tai họa đến với tôi, họ không có ai để kiềm chế họ. 14Họ xông đến tôi như một đoàn quân tràn vào lỗ hổng lớn của tường thành; khi tận diệt, họ xâm chiếm tôi.
15Nỗi kinh hãi giáng trên tôi; danh dự tôi bị gió cuốn bay xa; sự thịnh vượng của tôi như mây tan biến. 16Bấy giờ mạng sống tôi đổ ra từ trong tôi; nhiều ngày đau khổ bám lấy tôi.
17Ban đêm, xương tôi bị đâm; những cơn đau không ngừng gặm nhắm tôi. 18Sức mạnh lớn lao của Chúa nắm lấy quần áo tôi; nó túm lấy tôi như cổ áo.
19Ngài đã ném tôi vào vũng bùn; tôi trở nên như tro bụi. 20Chúa Trời ơi, con kêu cầu Ngài, nhưng Ngài không trả lời con; con đứng dậy, Ngài chỉ nhìn con.
21Ngài đã thay đổi và trở nên tàn nhẫn với con; Ngài hành hạ con bằng quyền năng trong tay Ngài. 22Ngài nâng con lên cơn gió và khiến nó chở con đi khắp nơi; Ngài khiến con tan biến trong bão.
23Vì con biết rằng Ngài sẽ khiến con chết, là nơi gặp mặt của mọi người sống. 24Tuy nhiên, chẳng phải người ta giơ tay ra để xin được giúp đỡ khi vấp ngã sao? Chẳng có ai gặp khó khăn mà không kêu xin giúp đỡ sao?
25Chẳng phải tôi không than khóc cho người gặp phiền muộn sao? Chẳng phải tôi không đau buồn vì người nghèo túng sao?
26Khi tôi tìm điều lành thì điều dữ đến; khi tôi trông đợi ánh sáng thì bóng tối đến. 27Lòng tôi phiền muộn và không an nghỉ; những ngày tai họa đến trên tôi.
28Tôi đi tới đi lui với làn da nám đen chẳng phải vì mặt trời; tôi đứng lên giữa hội chúng và kêu cầu giúp đỡ.
29Tôi là anh em của chó rừng, là bạn của đà điểu. 30Da tôi đen và rớt khỏi tôi; xương cốt tôi bị thiêu vì sức nóng.
31Vì vậy, đàn hạc tôi được lên dây để khảy những bài tang chế, sáo tôi thổi tiếng rên rỉ. 311Tôi đã lập giao ước với mắt tôi; vậy thì làm sao tôi thèm muốn nhìn gái đồng trinh?2Chúa trên trời cao ban phần gì, gia sản từ Đấng Toàn năng trên cao là gì? 3Tôi từng nghĩ rằng tai họa là dành cho người bất chính, và thảm họa là dành cho người làm điều ác.
4Đức Chúa Trời không thấy đường lối tôi và đếm bước chân tôi sao? 5Nếu tôi đi với phường gian dối, nếu chân tôi vội vàng chạy đến mưu gian,
6(nguyện tôi được đặt trên cái cân chính xác để Chúa biết sự liêm chính của tôi)7nếu tôi đã bước chân ra khỏi con đường chính đáng, nếu lòng tôi theo sau mắt tôi, nếu tay tôi dính bất kỳ chất bẩn nào,8thì nguyện kẻ khác sẽ ăn những gì tôi gieo; thật vậy, nguyện mùa gặt bị nhổ khỏi ruộng tôi.9Nếu lòng tôi tham muốn một người nữ khác, nếu tôi nằm chờ vợ hàng xóm tôi ở cửa của người,
10thì nguyện vợ tôi sẽ xay thóc cho người khác, và để người khác ngủ với nàng.11Vì đó sẽ là một tội ác khủng khiếp; thật vậy, các quan tòa sẽ trừng trị tội ác đó.
12Vì đó là ngọn lửa thiêu đốt mọi thứ thuộc âm phủ và đốt cháy mùa gặt của tôi. 13Nếu tôi phớt lờ lời cầu xin công lý của tôi trai tớ gái tôi khi họ đến tranh luận cùng tôi,
14tôi sẽ làm gì khi Chúa trỗi dậy kết tội tôi? Khi Ngài đến đoán xét tôi, tôi sẽ trả lời Ngài thế nào?15Phải chăng Đấng đã dựng nên tôi trong lòng mẹ cũng không dựng nên họ sao? Chẳng phải Đấng đó đã nắn nên tất cả chúng ta trong lòng mẹ? 16Nếu tôi từ chối không đáp ứng mong ước của người nghèo, hoặc nếu tôi để cho mắt của góa phụ hao mòn vì khóc,
17hoặc nếu tôi ăn riêng phần của mình và không cho người mồ côi cha ăn –18trái lại, từ lúc cô nhi của tôi lớn lên, tôi nuôi họ như một người cha, tôi hướng dẫn mẹ của họ, là một góa phụ, từ lòng mẹ của tôi19nếu tôi thấy ai bỏ mạng vì không có quần áo, hoặc nếu tôi thấy người thiếu thốn không có quần áo;20nếu lòng của người không chúc phước cho tôi vì người không nhờ lông chiên của tôi mà được ấm,21nếu tôi giơ tay lên nghịch lại người mồ côi cha, vì tôi thấy mình được hỗ trợ tại cửa thành22nguyện vai tôi lìa khỏi xương vai, và cánh tay tôi lìa khỏi khớp.23Vì tai ương từ Chúa sẽ là nỗi kinh hãi với tôi; vì cớ sự oai nghi Ngài, tôi không thể làm được điều gì trong số này. 24Nếu tôi xem vàng là niềm hy vọng của tôi, và nếu tôi nói với vàng ròng, ‘Ngươi là thứ mà ta tin tưởng’;
25nếu tôi vui mừng vì tôi giàu có, vì tay tôi nắm nhiều của cải;26nếu tôi thấy mặt trời chiếu sáng, hoặc mặt trăng nhô lên rạng ngời;27và nếu lòng tôi thầm bị thu hút, đến nỗi miệng tôi hôn tay tôi một cách sùng bái –28thì đây là tội đáng bị quan tòa xét xử, vì tôi dám từ chối Chúa trên trời cao.29Nếu tôi vui mừng khi kẻ ghét tôi bị diệt hoặc hăm hở khi họ gặp tai họa -
30thật vậy, tôi không cho phép miệng tôi phạm tội bằng cách hại mạng sống người khác bằng lời rủa sả31nếu người trong lều tôi chưa bao giờ nói, ‘Ai có thể tìm người chưa từng ăn no nê đồ ăn của Gióp?’32Người ngoại quốc chưa bao giờ ở lại quảng trường thành phố; trái lại, tôi luôn mở cửa đón lữ khách33nếu như người khác, tôi giấu tội lỗi mình bằng cách giấu tội của tôi trong lòng34(vì tôi sợ đám đông, vì sự coi thường của gia đình tôi khiến tôi kinh hãi, đến nỗi tôi giữ im lặng và không ra khỏi nhà).35Ôi, ước gì có ai đó nghe tôi! Kìa, đây là chữ ký của tôi; hãy để Đấng Toàn năng trả lời tôi! Ước gì tôi có bản cáo trạng mà kẻ thù tôi đã viết!
36Chắc chắn tôi sẽ công khai mang nó trên vai; tôi sẽ đội nó như vương miện.
37Tôi sẽ trình lên Ngài mọi điều tôi làm; tôi sẽ bước đến chầu Ngài như một vương tử hiên ngang. 38Nếu đất của tôi kêu la nghịch lại tôi, và các luống cày của nó khóc với nhau,
39nếu tôi hưởng vụ mùa mà không trả tiền hoặc khiến chủ của nó mất mạng,40nguyện gai góc mọc lên thay vì lúa mì và cỏ dại thay vì lúa mạch.” Đây là các lời của Gióp. 321Vậy cả ba người này thôi trả lời Gióp vì ông tự thấy mình là công bình.2Sau đó, Ê-li-hu con Ba-ra-chên, người Bu-xi, dòng họ Ram, nổi giận; ông nổi giận Gióp vì Gióp tự cho mình là đúng hơn Đức Chúa Trời.3Ê-li-hu cũng nổi giận ba bạn của mình vì họ không tìm được câu trả lời nào để đáp lại Gióp, họ chỉ buộc tội Gióp.4Bấy giờ, Ê-li-hu đã chờ để nói với Gióp vì những người kia lớn tuổi hơn ông.5Tuy nhiên, khi Ê-li-hu thấy không ai trong số ba người này trả lời, ông nổi giận.6Vậy, Ê-li-hu con Ba-ra-chên, người Bu-xi, nói rằng, “Tôi còn trẻ, còn các anh thì già rồi. Đó là lý do tôi ngại và không dám nói cho các anh nghe quan điểm của tôi.7Tôi nói, “Người cao tuổi nên nói; các bậc cao niên nên dạy sự khôn ngoan. 8Nhưng có thần linh trong loài người; hơi thở của Đấng Toàn năng cho người có sự hiểu biết.
9Chẳng phải người cao trọng là khôn ngoan, hay người cao niên là người hiểu công lý.
10Vậy tôi nói với các anh, ‘Hãy nghe tôi; tôi cũng sẽ nói cho các anh biết về kiến thức của tôi.’ 11Kìa, tôi đã chờ các anh nói; tôi nghe những lời tranh luận của các anh khi các anh suy nghĩ về điều phải nói.
12Thật vậy, tôi tập trung nghe các anh, nhưng, kìa, không ai trong số các anh có thể thuyết phục Gióp hoặc trả lời ông ấy. 13Hãy cẩn thận đừng nói, ‘Chúng tôi đã tìm được sự khôn ngoan!’ Đức Chúa Trời sẽ phải thắng Gióp; người phàm không thể làm được.
14Vì Gióp không nói lời nào nghịch lại tôi, nên tôi sẽ không dùng lời của các anh để trả lời ông ấy. 15Cả ba người này đều sững sờ; họ không thể trả lời Gióp được nữa; họ không tìm được thêm lời nào để nói nữa.
16Chẳng lẽ tôi nên đợi vì họ không nói, vì họ đứng đó im lặng và không trả lời sao? 17Không, tôi cũng sẽ trả lời về phần tôi; tôi cũng sẽ cho họ biết tri thức của tôi.
18Vì tôi đầy ắp lời nói; thần linh trong tôi thúc ép tôi nói.
19Kìa, ngực tôi như rượu lên men không ngõ thoát hơi; như bầu rượu mới sẵn sàng vỡ tung. 20Tôi sẽ nói để tôi được nhẹ nhàng; tôi sẽ mở môi và trả lời.
21Tôi sẽ không thiên vị; tôi cũng sẽ không nịnh bợ bất kỳ người nào.
22Vì tôi không biết cách nịnh bợ; nếu tôi làm vậy, Đấng Tạo hóa sẽ diệt tôi ngay. 331Gióp ơi, vậy bây giờ, tôi xin ông hãy nghe lời tôi nói; xin lắng nghe mọi lời tôi nói.2Nay tôi đã mở miệng; lưỡi tôi đã nói trong miệng tôi.
3Lời nói của tôi sẽ nói điều ngay thẳng trong lòng tôi; điều môi tôi biết sẽ nói cách thành thật. 4Thần Linh của Đức Chúa Trời đã dựng nên tôi; hơi thở của Đấng Toàn năng đã ban cho tôi sự sống.
5Nếu có thể được, hãy trả lời tôi; hãy sắp đặt các lời của ông theo thứ tự trước mặt tôi và giữ vững lập trường. 6Kìa, tôi với ông đều như nhau trước mặt Đức Chúa Trời; tôi cũng được dựng nên bằng đất sét.
7Kìa, sự kinh hãi của tôi sẽ không làm ông sợ; áp lực của tôi sẽ không đè nặng ông. 8Chắc chắn tai tôi đã nghe ông nói; tôi nghe văng vẳng lời ông nói rằng,
9’Tôi trong sạch và không vi phạm gì; tôi vô tội, tôi nào có phạm tội gì đâu.10Kìa, Đức Chúa Trời tìm dịp đánh tôi; Ngài coi tôi như kẻ thù nghịch Ngài.
11Ngài cùm chân tôi; Ngài canh giữ đường lối tôi.’
12Này, tôi sẽ trả lời ông: ông không đúng khi nói vậy, vì Đức Chúa Trời lớn hơn loài người. 13Sao ông chống lại Ngài? Ngài không có nhiệm vụ phải giải thích hành động của Ngài.
14Vì Chúa nói một lần – rồi hai lần, dù loài người không để ý.
15Trong giấc mộng, trong sự hiện thấy ban đêm, khi loài người ngủ say, trong giấc ngủ trên giường – 16Chúa mở tai loài người, khiến họ hoảng sợ vì những lời cảnh cáo,17để kéo loài người ra khỏi những ý định đầy tội lỗi, và dẹp bỏ thói kiêu ngạo.18Chúa giữ mạng sống con người khỏi huyệt mả, khỏi sa vào sự chết. 19Loài người cũng bị trừng phạt bằng sự đau đớn trên giường, sự đau đớn không ngớt trong xương cốt,
20đến nỗi người sống mà gớm ghê thức ăn, linh hồn người gớm ghê đồ ăn ngon.21Xác thịt người bị tiêu hao đến nỗi không thể thấy được; chỉ còn da bọc xương.
22Thật vậy, linh hồn người đến gần miệng hố, mạng sống người đến gần kẻ muốn hủy diệt. 23Nhưng nếu có một thiên sứ điều đình cho người, tức là một người dàn xếp, đến từ một trong hàng ngàn các thiên sứ, để chỉ bảo người điều gì đúng,
24và nếu thiên sứ đó thương xót người và xin Đức Chúa Trời, ‘Xin Chúa cứu người này khỏi sa vào miệng hố; tôi đã tìm được giá chuộc người,’25thì khi đó da thịt người sẽ trở nên tươi đẹp hơn da thịt của đứa trẻ; người sẽ trở lại những ngày xuân xanh.26Người sẽ cầu nguyện với Chúa, và Chúa sẽ thương xót người, người sẽ vui mừng thấy mặt Ngài. Chúa sẽ ban cho người niềm hân hoan. 27Người đó sẽ hát trước mặt người ta và nói rằng, ‘Tôi đã phạm tội và xuyên tạc điều thiện, nhưng tôi không bị báo ứng xứng với tội lỗi tôi.
28Đức Chúa Trời đã giải cứu linh hồn tôi khỏi sa vào miệng hố; mạng sống tôi sẽ tiếp tục thấy sự sáng.’ 29Kìa, Đức Chúa Trời làm tất cả những việc này cho loài người, hai lần, thậm chí là ba lần,
30để giữ linh hồn người khỏi sa vào miệng hố, để người được tỏa sáng bằng ánh sáng của sự sống.31Gióp ơi, xin chú ý, và lắng nghe tôi; xin yên lặng để tôi nói.
32Nếu ông có điều gì muốn nói, hãy trả lời tôi; xin hãy nói, vì tôi muốn chứng minh là ông đúng.
33Nếu không, xin hãy nghe tôi; xin giữ yên lặng, rồi tôi sẽ dạy ông điều khôn ngoan.” 341Hơn nữa, Ê-li-hu nói tiếp:2“Hãy nghe lời tôi nói, hỡi các ông là những người khôn ngoan; xin nghe tôi, hỡi các ông là người có tri thức.3Vì tai nghe lời lẽ như miệng nếm thức ăn. 4Chúng ta hãy cùng chọn cho mình điều chính đáng: chúng ta hãy cùng nhau khám phá điều lành.
5Vì Gióp có nói, ‘Tôi là người công bình, nhưng Đức Chúa Trời đã truất quyền của tôi.
6Bất chấp những điều ngay thẳng của tôi, tôi bị xem là kẻ nói dối. Vết thương tôi vô phương cứu chữa, dù tôi không có tội.’ 7Ai là người như Gióp, uống hết sự nhạo báng như nước lã,
8ai nhập bọn với phường lưu manh, và ai đi chung với phường gian ác?9Vì ông ấy nói, ‘Thật vô ích khi người ta khoái lạc trong việc làm điều Đức Chúa Trời muốn.’ 10Vậy hãy nghe tôi, hỡi những người thông hiểu: không đời nào Đức Chúa Trời làm điều ác; không đời nào Đấng Toàn năng phạm tội.
11Vì Ngài báo ứng việc làm của loài người; Ngài khiến mỗi người nhận lấy sự báo đáp về đường lối của họ.
12Thật vậy, Đức Chúa Trời không làm điều ác, Đấng Toàn năng không xuyên tạc công lý. 13Ai trao cho Ngài trách nhiệm cai quản trái đất? Ai trao cả thế giới cho Ngài?
14Nếu Ngài chỉ có ý định về chính mình Ngài, và nếu Ngài lấy lại thần linh và sinh khí của Ngài,
15thì mọi loài xác thịt đều chết hết; nhân loại sẽ lại trở về cát bụi.16Nếu bây giờ các ông hiểu, hãy nghe; hãy nghe lời tôi nói.
17Có người nào ghét công lý mà cai trị được chăng? Các ông sẽ lên án Chúa, là Đấng công bình và toàn năng? 18Chúa, Đấng phán với vua, ‘Ngươi thật đê hèn,’ hoặc phán với giới quý tộc, ‘Các ngươi thật gian ác’?
19Chúa, là Đấng không thiên vị với các lãnh đạo và không trọng người giàu hơn người nghèo, vì hết thảy họ đều là công việc của tay Ngài.
20Trong chốc lát, họ sẽ chết; vào nửa đêm, họ sẽ bị rúng động và qua đời; kẻ cường quyền sẽ bị cất đi, nhưng chẳng phải bởi tay loài người. 21Vì con mắt Đức Chúa Trời dò xét đường lối người; Ngài thấy mọi bước chân của người.
22Chẳng có bóng tối, chẳng có sự tối tăm mù mịt nào mà kẻ làm ác có thể ẩn nấp.
23Vì Đức Chúa Trời không cần xem xét loài người thêm nữa; Ngài không cần bất kỳ ai đến trước mặt Ngài để được đoán xét. 24Ngài bẻ gãy kẻ cường quyền ra từng mảnh vì đường lối họ không cần được điều tra thêm; Ngài đặt người khác thế chỗ họ.
25Như vậy, Ngài biết việc làm của họ; Ngài quăng những người này trong đêm tối; họ bị hủy diệt. 26Trước mặt người khác, Ngài giết họ vì những việc làm gian ác tội lỗi của họ
27vì họ ngoảnh mặt không theo Ngài và từ chối nhận biết đường lối Ngài.28Như vậy, họ khiến tiếng kêu la của người nghèo thấu đến tai Ngài; Ngài nghe tiếng kêu la của người khốn cùng. 29Khi Ngài im lặng, ai có thể lên án Ngài? Nếu Ngài giấu mặt, ai có thể nhìn thấy Ngài. Ngài cai trị các nước và từng người như nhau,
30để người vô đạo không thể cai trị, để không có ai đặt bẫy người khác.31Giả sử có người nói với Chúa, ‘Chắc chắn con có tội, nhưng con sẽ không phạm tội nữa,
32xin Chúa dạy con điều con không thể thấy; con đã phạm tội, nhưng con sẽ không phạm việc ấy nữa.’33Các ông có nghĩ rằng Chúa sẽ trừng phạt tội lỗi của người đó, vì các ông không thích điều Ngài làm? Các ông phải chọn, chứ không phải tôi. Vậy hãy nói điều các ông biết. 34Những người hiểu biết sẽ nói với tôi – thật vậy, người khôn ngoan lắng nghe tôi sẽ nói,
35‘Gióp nói mà chẳng biết gì; lời nói của ông ấy thật thiếu khôn ngoan.’36Giá mà Gióp bị thử thách đến cùng vì lời nói của ông ấy như người gian ác.
37Vì ông ấy thêm sự chống đối vào tội lỗi mình; ông ấy vỗ tay nhạo báng giữa chúng ta; ông ấy nói những lời nghịch cùng Đức Chúa Trời.” 351Hơn nữa, Ê-li-hu nói tiếp,2“Ông nghĩ ông vô tội sao? Ông nghĩ rằng, ‘Tôi công bình hơn Đức Chúa Trời’ sao?3Vì ông nói, ‘Tôi được ích lợi gì khi tôi công bình? Tôi được ích lợi gì nếu tôi chẳng phạm tội?’ 4Tôi sẽ trả lời ông, cả ông và các bạn của ông.
5Hãy nhìn lên trời, và nhìn xem nó; hãy xem bầu trời, nó vốn cao hơn ông. 6Nếu ông phạm tội, thì việc ấy làm hại chi cho Đức Chúa Trời? Nếu sự vi phạm của ông chất thành đống, thì ông làm gì được Ngài?
7Nếu ông công bình, ông có thể cho Ngài điều gì? Ngài sẽ nhận gì từ tay ông?
8Sự gian ác của ông có thể làm tổn thương con người, vì ông là con người, và sự công bình của ông có thể đem đến ích lợi cho người khác. 9Vì cớ những sự áp bức, dân chúng kêu la; họ kêu cầu người quyền thế giúp đỡ.
10Nhưng không ai nói, ‘Đức Chúa Trời, Đấng Tạo hóa của tôi, Đấng ban những bài hát trong đêm,
11Đấng dạy dỗ chúng tôi nhiều hơn các loài thú trên đất, và Đấng khiến chúng tôi khôn ngoan hơn các loài chim trời đâu rồi?’12Họ kêu la, nhưng Đức Chúa Trời không trả lời vì cớ sự kiêu ngạo của người gian ác.
13Chúa chắc chắn sẽ không nghe tiếng kêu la của kẻ dại dột; Đấng Toàn năng sẽ không đoái đến.
14Ngài sẽ càng ít trả lời ông nếu ông nói rằng ông không thấy Ngài, rằng duyên cớ của ông ở trước mặt Ngài, và rằng ông đang đợi Ngài! 15Ngài sẽ càng ít trả lời ông nếu ông nói rằng Ngài không bao giờ giận dữ phạt bất cứ ai, và rằng Ngài không ngó ngàng gì đến sự kiêu ngạo của loài người.
16Vậy Gióp mở miệng mình chỉ để nói lời dại dột; ông ấy nói những lời thiếu hiểu biết. 361Ê-li-hu nói tiếp,2“Cho phép tôi nói thêm một chút, rồi tôi sẽ cho ông biết đôi điều vì tôi còn những lời muốn nói biện hộ thêm cho Đức Chúa Trời.3Tôi sẽ đạt được kiến thức từ nơi xa; tôi sẽ biết rằng sự công bình của tôi thuộc về Đấng Tạo hóa. 4Vì thật sự, lời nói của tôi sẽ không sai; một người trưởng thành trong sự hiểu biết đang ở bên ông.
5Kìa, Đức Chúa Trời là Đấng Toàn năng và không khinh dể ai; Ngài có quyền năng trong sức mạnh của sự hiểu biết. 6Ngài không bảo vệ mạng sống của kẻ ác nhưng trái lại, Ngài làm điều đúng đắn cho người đau khổ.
7Ngài không dời mắt khỏi người công bình nhưng Ngài đặt họ ngồi trên ngai như vua đời đời, và họ được nhấc lên. 8Tuy nhiên, nếu họ bị xiềng xích, và bị trói buộc trong dây đau khổ,
9rồi Ngài tỏ cho họ biết việc họ làm – tức là những sự vi phạm của họ và thể nào họ đã cư xử ngạo mạn.10Ngài cũng mở tai họ để họ nghe lời hướng dẫn của Ngài, và Ngài ra lệnh cho họ từ bỏ tội lỗi.
11Nếu họ nghe Ngài và thờ phượng Ngài, họ sẽ sống những ngày thịnh vượng, có những năm an lạc.
12Tuy nhiên, nếu họ không nghe, họ sẽ bị gươm giết chết; họ sẽ chết vì thiếu hiểu biết. 13Những kẻ vô đạo trong lòng ấp ủ cơn giận; họ không kêu cầu xin được giúp đỡ ngay cả khi Chúa trói họ.
14Họ chết khi còn trẻ; cuộc đời họ chấm dứt giữa bọn mại dâm ở đền miếu. 15Đức Chúa Trời giải cứu người khốn cùng bằng sự hoạn nạn của họ; Ngài mở tai họ bằng sự áp bức của họ.
16Thật vậy, Ngài muốn kéo ông ra khỏi tai họa bước vào một nơi rộng rãi, là nơi chẳng có gian khó và bàn của ông sẽ đầy cao lương mỹ vị. 17Nhưng ông đầy dẫy sự đoán xét kẻ ác; sự đoán xét và công lý đã bắt lấy ông.
18Chớ để sự giàu sang quyến rũ ông đến sự lừa dối; chớ để của hối lộ lớn khiến ông làm sai công lý. 19Của cải ông có thể đem lại ích lợi cho ông không, nếu ông không gặp tai họa, hoặc quyền lực của ông có thể giúp ông không?
20Đừng ao ước ban đêm để phạm tội đối với người khác, khi họ bị cô lập trong nhà mình.
21Hãy cẩn thận chớ chú vào tội lỗi vì ông đang được thử thách qua hoạn nạn để ông tránh xa khỏi tội lỗi. 22Kìa, Đức Chúa Trời được tôn cao trong quyền năng Ngài; ai là thầy giáo như Ngài?
23Ai từng dạy Ngài về đường lối Ngài? Ai có thể nói với Ngài, ‘Ngài đã phạm điều bất chính’?
24Hãy nhớ ngợi khen các việc của Ngài, mà loài người đã ca ngợi. 25Tất cả mọi người đều đã nhìn xem những việc ấy, nhưng họ chỉ nhìn thấy từ đàng xa.
26Kìa, Đức Chúa Trời thật lớn lao, nhưng chúng ta không hiểu rõ Ngài; số năm của Ngài thật chẳng đếm được. 27Vì Ngài hút các giọt nước lên thành hơi nước làm mưa,
28các đám mây đổ mưa xuống và rơi tầm tã trên loài người.29Thật vậy, có ai hiểu sự giăng bủa của mây và tiếng sấm từ lều Ngài? 30Kìa, Ngài bủa sấm chớp quanh Ngài; Ngài bao phủ biển cả bằng sự tối tăm.
31Như vậy Ngài nuôi các dân và ban thức ăn dư dật. 32Ngài giấu sấm sét trong tay Ngài cho đến khi Ngài ra lệnh chúng đánh vào mục tiêu.
33Mũi của chúng cho người ta biết cơn bão sắp đến; gia súc cũng biết bão tố sẽ đến. 371Thật vậy, lòng tôi run sợ vì sự này; nó bị dời ra khỏi chỗ nó.2Hãy nghe, ôi, hãy nghe tiếng huyên náo của tiếng nói Ngài, là tiếng phát ra từ miệng Ngài.
3Ngài phát ra tiếng vang dội dưới cả bầu trời, và Ngài phát ra chớp nhoáng đến tận các bờ cõi của trái đất. 4Sau đó có một tiếng gầm; Ngài nổi sấm bằng tiếng oai nghi của Ngài; Ngài không giữ lại tia chớp khi người ta nghe tiếng Ngài.
5Đức Chúa Trời nổi sấm một cách kỳ diệu bằng tiếng của Ngài; Ngài làm những việc mà chúng ta không thể hiểu thấu.
6Vì Ngài bảo tuyết, ‘Hãy rơi xuống đất’; Ngài cũng phán như vậy với mưa, ‘Mưa hãy rơi thật tầm tã.’ 7Ngài ngưng tay loài người khỏi công việc, để tất cả những người được Ngài dựng nên đều thấy việc Ngài làm.
8Muông thú ẩn náu và ở trong hang.
9Bão tố kéo đến từ nơi phương nam và giá buốt kéo đến từ gió ở phương bắc. 10Bởi hơi thở của Đức Chúa Trời thì có băng giá; sông nước mênh mông đóng băng như kim loại.
11Thật vậy, Ngài khiến mây trở nên nặng vì hơi ẩm; Ngài tỏa chớp nhoáng qua mây. 12Ngài cuốn mây vòng vòng theo chỉ đạo của Ngài, để chúng làm bất cứ điều gì Ngài sai khiến trên khắp mặt đất.
13Ngài khiến việc này xảy ra; khi thì để sửa phạt, khi thì tưới nhuần đất của Ngài, và khi thì tỏ ra sự thành tín theo giao ước. 14Gióp, hãy nghe đây; hãy dừng lại và nghĩ đến những việc lạ lùng của Đức Chúa Trời.
15Ông có biết Chúa sắp đặt ý Ngài trên các đám mây và khiến chớp nhoáng lóe ra trong chúng như thế nào không? 16Ông có hiểu mây trôi ra sao, những việc phi thường của Đức Chúa Trời, là Đấng có tri thức trọn vẹn không?
17Ông có hiểu làm sao mà quần áo ông nóng khi đất tĩnh mịch vì gió nam không? 18Ông có thể giương bầu trời ra như Ngài làm – như một tấm gương cứng cáp đúc bằng kim loại không?
19Hãy dạy chúng tôi điều chúng tôi nên nói với Ngài, vì chúng tôi không thể sắp đặt ý tranh luận vì tâm trí chúng tôi u mê.
20Lẽ nào nên nói với Ngài rằng tôi muốn thưa chuyện cùng Ngài? Có ai ước muốn bị nuốt chửng không? 21Bây giờ, không ai có thể nhìn mặt trời khi nó tỏa sáng trên bầu trời sau khi gió thổi thoảng qua và làm tan mây trên trời.
22Ánh chói lọi vàng tỏa ra từ phương bắc – nơi Đức Chúa Trời có vẻ uy nghi đáng sợ. 23Về Đấng Toàn năng, chúng ta không thể tìm được Ngài; Ngài có quyền năng lớn lao và công bình. Ngài không áp bức loài người.
24Vậy, loài người sợ Ngài. Ngài không ngó ngàng gì đến những kẻ khôn ngoan theo tâm trí mình. 381Khi ấy, Đức Giê-hô-va từ trong cơn bão cuồng phong gọi Gióp và phán,2“Ngươi là ai mà làm cho các kế hoạch của Ta trở nên mơ hồ bằng những lời thiếu tri thức?3Bây giờ hãy thắt lưng ngươi như một nam nhi, vì Ta sẽ hỏi ngươi, và ngươi phải trả lời Ta. 4Ngươi đã ở đâu khi Ta lập các nền móng của trái đất? Hãy nói đi, nếu ngươi biết.
5Ai đã định kích thước cho nó? Hãy nói đi, nếu ngươi biết. Ai đã giăng dây đo trên đất? 6Nền móng địa cầu được đặt trên gì? Ai đặt hòn đá góc của nó
7khi các sao mai cùng hát và các con trai của Đức Chúa Trời reo mừng?8Ai đóng cửa ngăn biển cả khi nó tuôn trào, như thể tuôn ra từ lòng đất –
9khi Ta làm y phục cho mây, và bọc cho bóng tối mù mịt?10Đó là khi Ta định ranh giới cho biển cả, khi Ta đặt các then và cửa,
11và khi Ta bảo nó, ‘Ngươi có thể đến đây, nhưng không đi xa hơn; đây là nơi Ta sẽ đặt giới hạn cho những con sóng kiêu căng của ngươi.’12Kể từ khi ngươi sinh ra, có bao giờ ngươi ra lệnh cho buổi sáng xuất hiện, và khiến bình minh biết chỗ của nó theo nguyên tắc của sự vật,
13để nó phủ khắp bốn bề trái đất, đến nỗi kẻ ác bị giũ sạch khỏi đất không?14Trái đất thay đổi hình dạng như đất sét thay đổi dưới cái ấn; vạn vật hiện ra rõ ràng như lằn xếp trên quần áo.
15‘Ánh sáng’ của kẻ ác bị tước khỏi chúng; tay giơ cao của chúng bị bẻ gãy. 16Ngươi đã đến các nguồn đại dương chưa? Ngươi đã đi trong những nơi sâu thẳm nhất chưa?
17Ngươi đã thấy các cổng sự chết chưa? Ngươi có thấy các cổng của bóng sự chết chưa?
18Ngươi có hiểu sự mênh mông của địa cầu không? Hãy nói đi, nếu ngươi biết tất cả. 19Con đường dẫn đến nơi ở của ánh sáng là ở đâu – nơi ở của bóng tối đâu?
20Ngươi có thể dẫn ánh sáng và bóng tối đến nơi hoạt động của chúng không? Ngươi có thể tìm đường về nhà cho chúng không?
21Rõ ràng là ngươi biết, vì khi đó ngươi đã được sinh ra rồi; số các ngày của ngươi thật nhiều thay! 22Ngươi có bao giờ bước vào các kho trữ tuyết chưa, hoặc có bao giờ ngươi thấy các kho trữ mưa đá chưa,
23là những thứ mà Ta đã để dành trong những kỳ hoạn nạn, cho những ngày chiến tranh và giặc giã?24Chớp nhoáng tỏa ra từ hướng nào hoặc gió đông được thổi lan ra đến đâu trên khắp đất? 25Ai đã làm nên các kênh dẫn nước mưa, hoặc ai đã vạch đường cho sấm chớp,
26hoặc khiến mưa rơi trên những nơi không có người ở, và trên hoang mạc, là nơi hoang vu,27để đáp ứng nhu cầu của những vùng khô cằn và hiu quạnh, khiến cỏ mọc um tùm?28Mưa có cha không? Ai đã sanh ra các giọt sương?
29Băng đá ra từ lòng ai? Ai sanh ra sương giá từ trời?
30Nước ẩn giấu và đông lại như đá; mặt vực sâu đóng băng. 31Ngươi có thể buộc dây trói chòm sao Thất tinh không, hoặc cởi trói cho sao Thiên lang không?
32Ngươi có thể hướng dẫn các chòm sao mọc vào đúng thời điểm của chúng không? Ngươi có thể hướng dẫn sao Bắc đẩu và con cái của chúng không?33Ngươi có biết các quy định của bầu trời không? Ngươi có thể lập quy định của bầu trời trên đất không? 34Ngươi có thể cất tiếng ra lệnh cho mây, để mưa rơi tầm tã trên ngươi không?
35Ngươi có thể truyền cho sấm chớp phát ra không, để chúng nói với ngươi, ‘Có chúng tôi đây’? 36Ai đã ban sự khôn ngoan cho mây hoặc sự thông hiểu cho sương móc?
37Ai có tài đếm mây? Ai có thể đổ các bầu nước trên trời
38khi bụi đất kết dính và những cục đất dính chặt với nhau?39Ngươi có thể săn mồi cho sư tử cái hoặc khiến sư tử con no nê thỏa dạ
40khi chúng co mình trong hang và nằm rình mồi không?41Ai ban mồi cho quạ khi quạ con kêu la lên Đức Chúa Trời và đi loạng choạng vì thiếu thức ăn? 391Ngươi biết khi nào sơn dương sinh nở? Ngươi có thể quan sát lúc nai cái sinh con không?2Ngươi có thể đếm số tháng chúng mang thai không? Ngươi biết gấu sinh con khi nào không? 3Chúng khom mình xuống và sinh con nhỏ, sau đó chúng hết cơn đau đẻ.
4Các con nhỏ của chúng lớn lên mạnh mẽ ở những cánh đồng hoang dã; chúng ra ngoài và chẳng trở về. 5Ai để lừa hoang tự do chạy nhảy? Ai tháo dây buộc con lừa nhanh nhẹ,
6Ta ban cho nó có nhà ở A-ra-ba, nhà của nó ở nơi đất mặn?7Nó cười nhạo tiếng ồn nơi thành phố; nó không nghe tiếng quát tháo của người đánh xe.
8Nó lang thang khắp các dãy núi là đồng cỏ của nó; tại đó nó tìm cỏ cây xanh tươi để ăn. 9Liệu con bò rừng sẽ vui vẻ phục vụ ngươi không? Nó sẽ đồng ý ở trong máng của ngươi chứ?
10Với sợi dây, ngươi có thể điều khiển con bò rừng để nó cày trên các luống cày không? Nó sẽ bừa các thung lũng cho ngươi không? 11Ngươi sẽ tin nó vì sức mạnh to lớn của nó không? Ngươi sẽ để nó làm công việc của ngươi chứ?
12Ngươi sẽ phụ thuộc vào nó để đem lúa về nhà, gom lúa vào sân đạp lúa của ngươi chứ? 13Đôi cánh đà điểu vỗ đầy tự hào, nhưng có phải chúng là đầu cánh và bộ lông đầy yêu thương không?
14Vì nó đẻ trứng dưới đất, và nó để trứng được ấp dưới đất;
15nó quên rằng chân có thể giẫm lên chúng hoặc một con thú nào đó có thể đạp lên chúng.16Nó cư xử thô bạo với con của nó như thể chúng chẳng phải là con nó; nó không sợ rằng việc sinh nở của nó có thể trở nên vô ích,
17vì Đức Chúa Trời đã cất sự khôn ngoan khỏi nó và không cho nó có sự hiểu biết nào cả.18Khi nó nhanh nhảu chạy nhảy, nó cười nhạo loài ngựa và kỵ mã. 19Ngươi có ban sức mạnh cho ngựa không? Ngươi có đặt cái bờm trên cổ nó không?
20Ngươi có bao giờ khiến nó nhảy như con châu chấu không? Vẻ oai vệ của tiếng hí nó thật đáng sợ. 21Nó mạnh mẽ giậm chân và hí hửng trong sức mạnh của nó; nó xông ra đương đầu các loại vũ khí.
22Nó chế nhạo sự sợ hãi và không khiếp đảm; nó không bỏ chạy trước lưỡi gươm.
23Bao tên kêu lách cách bên hông nó, cùng với giáo và lao lóng lánh. 24Nó giận dữ giẫm vó lên đất; khi kèn vang tiếng, nó không thể đứng yên một chỗ.
25Bất cứ khi nào có tiếng kèn, nó hí, ‘À há!’ Nó gửi mùi chiến trận từ đàng xa – tiếng quát ầm ầm của người chỉ huy và tiếng hò la xung trận. 26Có phải nhờ sự khôn ngoan của ngươi mà chim ưng bay bổng, sải cánh bay về phương nam? 27Có phải nhờ lệnh của ngươi mà đại bàng bay vút lên và làm tổ ở nơi cao?
28Nó sống trên các vách đá và làm nhà trên đỉnh vách đá, một thành trì kiên cố. 29Từ đó, nó săn mồi; mắt nó nhìn thấy chúng từ đàng xa.
30Con nhỏ của nó cũng uống huyết; nơi nào có người chết, nơi đó có nó.” 401Giê-hô-va phán tiếp với Gióp; Ngài phán,2“Có ai dám phê bình chỉnh sửa Đấng Toàn năng? Người nào tranh luận với Đức Chúa Trời, hãy để người trả lời.”3Gióp thưa với Đức Giê-hô-va,4“Kìa, con không ra chi; làm sao con có thể trả lời Ngài? Con lấy tay che miệng con.5Con đã nói một lần rồi, và con sẽ không trả lời nữa; thật vậy, đã hai lần rồi, nhưng con sẽ không nói thêm.” 6Sau đó, Đức Giê-hô-va trả lời Gióp qua một cơn bão dữ dội,7“Bây giờ hãy thắt lưng ngươi như nam nhi, vì Ta sẽ hỏi ngươi, rồi ngươi phải trả lời Ta.8Thật ngươi sẽ cho rằng Ta bất công sao? Ngươi sẽ lên án Ta để cho là mình đúng sao?
9Ngươi có tay như tay của Đức Chúa Trời không? Ngươi có phát ra tiếng sấm như Ngài không? 10Bây giờ, hãy mặc lấy vinh quang và phẩm cách của ngươi; hãy trang điểm bằng danh giá và vẻ uy nghi.
11Hãy rải cơn giận dữ quá mức của ngươi ra xung quanh; hãy xem những kẻ kiêu ngạo và hạ chúng xuống. 12Hãy nhìn những kẻ kiêu ngạo và hạ bệ chúng; hãy chà đạp kẻ ác nhân ngay tại chỗ.
13Hãy chôn chúng dưới đất với nhau; tống giam mặt chúng trong nơi kín giấu.
14Rồi Ta cũng sẽ công nhận rằng tay phải của ngươi có thể cứu ngươi. 15Bây giờ hãy xem con vật kếch xù, là loài mà Ta đã dựng nên như Ta đã dựng ngươi; nó ăn cỏ như bò đực.
16Hãy xem, sức mạnh nó nằm nơi thắt lưng; năng lực nó nằm trong các cơ bụng. 17Nó vẫy đuôi như cây tuyết tùng; các cơ đùi của nó được kết lại với nhau.
18Xương nó như ống đồng; chân nó như thanh sắt. 19Nó là tạo vật hàng đầu của Đức Chúa Trời. Chỉ có Đức Chúa Trời, Đấng dựng nên nó, có thể đánh bại nó.
20Vì núi đồi cho nó có đồ ăn; các loài thú ngoài đồng chơi đùa gần đó.
21Nó nằm dưới hoa sen ẩn mình trong đám sậy, trong đầm lầy. 22Bóng hoa sen bao phủ nó; cây liễu ven suối bao bọc nó.
23Kìa, nếu sông chảy tràn bờ, nó không run sợ; nó tự tin, dù Sông Giô-đanh chảy tràn qua mũi nó.
24Ai có thể bắt nó bằng cái móc, hoặc xỏ mũi nó? 411Ngươi có thể câu con thủy quái bằng lưỡi câu không? Hoặc dùng dây buộc chặt hàm nó?2Ngươi có thể xỏ dây vào mũi nó, hoặc dùng móc xoi qua hàm nó không?
3Nó sẽ khẩn thiết van xin ngươi không? Nó sẽ nói những lời ngọt ngào với ngươi không? 4Nó sẽ thỏa thuận với ngươi để ngươi bắt nó làm nô lệ đời đời không?
5Ngươi sẽ chơi với nó như ngươi chơi với chim không? Ngươi sẽ cột nó lại cho các tớ gái của ngươi vui đùa không?
6Nhóm dân chài sẽ thương lượng với ngươi để mua nó không? Họ sẽ xẻ thịt nó bán cho các lái buôn không? 7Ngươi có thể lấy lao đâm vào da sống của nó hoặc dùng lao phóng cá đâm vào đầu nó không?
8Hãy tra tay ngươi trên mình nó chỉ một lần thôi, rồi ngươi sẽ nhớ trận chiến đó và không dám làm như vậy nữa.
9Kìa, niềm hy vọng của những ai làm vậy chỉ là hão huyền; chẳng phải bất kỳ ai thấy nó đều sẽ ngã lăn ra đất sao? 10Không ai gan dạ đến nỗi dám khiêu khích con thủy quái; vậy thì ai có thể đứng trước mặt Ta?
11Ai cho Ta trước điều chi để Ta phải trả lại? Mọi vật dưới trời đều thuộc về Ta.
12Ta sẽ không giữ im lặng về các chân của con thủy quái, hoặc sức mạnh của nó, hoặc thân hình cân đối của nó. 13Ai có thể lột da nó? Ai có thể đâm thủng áo giáp kép của nó?
14Ai có thể mở banh miệng nó – răng đầy hàm thật khiếp sợ?
15Trên lưng nó là những dãy khiên, san sát nhau như dấu niêm phong chi chít. 16Mỗi cái đều khít với nhau đến nỗi gió không lọt qua được.
17Chúng ăn khớp với nhau; chúng gắn chặt nhau, đến nỗi không thể tách rời được.
18Chớp lóe ra từ tiếng khịt mũi của nó; mắt nó như mi mắt của rạng đông. 19Từ miệng nó phun ra những ngọn đuốc cháy bừng, tia lửa bắn ra.
20Khói bay ra từ mũi nó như nồi đun nóng trên ngọn lửa hực.
21Hơi thở của nó khiến than bùng cháy; lửa ra từ miệng nó. 22Trong cổ nó có sức mạnh, và sự kinh hãi nhảy múa trước mặt nó.
23Các lớp thịt của nó dính vào nhau; chúng rắn chắc; không thể nào tách rời được.
24Tim nó cứng như đá – thật vậy, cứng như thớt dưới của cối xay. 25Khi nó trỗi dậy, ngay cả các thần cũng hoảng sợ; vì sợ nó, họ lùi lại.
26Nếu gươm đâm nó, nó cũng chẳng hề hấn gì – ngay cả giáo, tên, hoặc bất cứ vũ khí sắc nhọn nào khác.
27Nó coi sắt như rơm rạ, và đồng như gỗ mục. 28Mũi tên không thể khiến nó bỏ chạy; đối với nó, đá như trấu.
29Nó xem dùi cui như rơm; nó cười nhạo tiếng ngọn lao phóng vun vút.
30Bụng nó như những miếng sành sắc bén; nó để lại dấu vết trên bùn lầy như thể dấu xe kéo trượt trên bàn đạp lúa. 31Nó lặn sâu khiến sủi bọt như bọt trong nồi nước sôi; nó khiến biển sôi sục như nồi thuốc mỡ.
32Nó để lại một đường sáng phía sau nó; người ta sẽ nghĩ biển sâu trắng xóa. 33Không có loài nào trên đất sánh với nó, nó là tạo vật không biết sợ.
34Nó xem thường mọi vật kiêu ngạo; nó là vua trên các sinh vật tự phụ. 421Gióp thưa với Đức Giê-hô-va,2“Con biết Ngài có thể làm được mọi sự, ý định của Ngài không thể bị ngăn trở.3Ngài hỏi con, ‘Kẻ thiếu tri thức này là ai mà dám làm lu mờ kế hoạch của Ta?’ Vậy, con đã nói những điều mà con không hiểu, những điều vượt tầm hiểu biết của con, là những điều con không biết. 4Ngài phán với con, ‘Bây giờ, hãy nghe, Ta sẽ nói; Ta sẽ hỏi ngươi, rồi ngươi sẽ trả lời Ta.’
5Tai con đã nghe Ngài, nhưng giờ đây mắt con thấy Ngài.
6Vì vậy, con ghê tởm chính mình; con ăn năn trong bụi đất và tro.” 7Sau khi Đức Giê-hô-va đã phán những lời này với Gióp, Ngài phán với Ê-li-pha người Tê-man, “Cơn thạnh nộ của Ta bùng cháy nghịch với ngươi và hai bạn ngươi vì các ngươi chẳng nói đúng về Ta như tôi tớ Ta là Gióp đã nói.8Vậy bây giờ, các ngươi hãy lấy bảy con bò đực và bảy con chiên đực, đi đến tôi tớ Ta là Gióp, và dâng làm của lễ thiêu vì chính các ngươi. Gióp, tôi tớ Ta, sẽ cầu nguyện cho các ngươi, và Ta sẽ nhậm lời cầu nguyện của người, hầu cho Ta không phạt các ngươi vì lời nói dại dột của các ngươi. Các ngươi không nói đúng sự thật về Ta, như Gióp, tôi tớ Ta đã nói.”9Vậy Ê-li-pha người Tê-man, Binh-đát người Su-a, và Sô-pha người Na-a-ma đi và làm y như Đức Giê-hô-va đã tryền, và Đức Giê-hô-va đoái đến Gióp.10Khi Gióp cầu thay cho các bạn mình, Đức Giê-hô-va phục hồi lại sự thịnh vượng của ông. Đức Giê-hô-va ban cho ông nhiều gấp đôi hơn so với trước đó.11Khi ấy, tất cả anh chị em của Gióp, những người từng quen biết với ông trước đây – họ đến thăm và cùng ăn tại nhà ông. Họ chia buồn và an ủi ông về mọi tai họa mà Đức Giê-hô-va đã giáng trên ông. Mỗi người cho Gióp một miếng bạc và một nhẫn vàng.12Trong những năm cuối đời của Gióp, Đức Giê-hô-va ban phước cho ông nhiều hơn lúc trước; ông có mười bốn ngàn con chiên, sáu ngàn lạc đà, một ngàn đôi bò đực, và một ngàn lừa cái.13Ông cũng có bảy con trai và ba con gái.14Ông đặt tên cho con gái đầu là Giê-mi-ma, con gái thứ nhì là Kê-xi-a, và con gái thứ ba là Kê-ren-ha-búc.15Trong khắp xứ, không có phụ nữ nào xinh đẹp như các con gái của Gióp. Họ được cha chia gia tài cùng với các anh mình.16Sau đó, Gióp sống đến một trăm bốn mươi năm; ông được thấy các con trai và cháu chắt mình, đến tận đời thứ tư.17Rồi Gióp qua đời, hưởng thọ và sống lâu. Thi thiên
11Phước cho ai không bước đi theo lời chỉ bảo của kẻ ác, không đứng trên đường cùng với tội nhân, không ngồi trong hội của bọn người chế nhạo.2Nhưng vui về luật pháp của Đức Giê-hô-va, ngày đêm suy gẫm luật pháp Ngài. 3Người đó sẽ như cây trồng cạnh suối nước, ra trái theo mùa, lá nó không khô héo, mọi việc người làm đều thịnh vượng. 4Kẻ ác thì không như vậy, nhưng thay vào đó giống như rơm rạ bị gió đùa đi.
5Cho nên kẻ ác sẽ không đứng nổi khi bị phán xét, tội nhân cũng không được ở trong hội người công chính. 6Vì Đức Giê-hô-va tán thành đường lối người công chính, nhưng đường lối kẻ ác sẽ bị diệt vong. 21Vì sao các nước nổi loạn, và các dân mưu tính vô ích?2Các vua trên đất liên minh lại và giới cầm quyền cùng nhau cấu kết chống lại Đức Giê-hô-va và Đấng Mê-si của Ngài, rằng:
3“Chúng ta hãy bứt đứt gông cùm họ đã tròng lên chúng ta, và vất bỏ xiềng xích họ đi.”4Đấng ngự trên trời sẽ cười nhạo chúng; Chúa sẽ chế giễu chúng.
5Rồi Ngài sẽ nổi giận mà phán với chúng, nổi thịnh nộ mà khiến chúng kinh hãi, rằng: 6“Chính Ta đã xức dầu lập vua Ta trên Si-ôn, núi thánh Ta.”7Tôi sẽ công bố nghị định của Đức Giê-hô-va. Ngài phán với Tôi: “Con là con Ta! Ngày nay Ta đã sinh ra Con. 8Hãy cầu xin Ta, rồi Ta sẽ ban các nước cho Con làm cơ nghiệp và các xứ tận cùng cõi đất làm tài sản.
9Con sẽ đánh vỡ chúng bằng vương trượng sắt; Con sẽ đập nát chúng như bình gốm.” 10Vậy nên, giới quân vương các ngươi, hãy coi chừng; giới cai trị trần gian các ngươi, hãy sửa chữa đi.
11Thờ phượng Đức Giê-hô-va cách kính sợ và vui mừng trong run sợ. 12Hãy thật lòng trung thành với Con, để Người khỏi nổi giận với các ngươi, và để các ngươi khỏi phải chết khi cơn giận Người bùng lên. Phước cho kẻ nào ẩn náu nơi Người. 31Đức Giê-hô-va ôi, các kẻ thù của con đông quá! Lắm kẻ đã trở mặt chống lại con.2Nhiều người nói về con, rằng: “Nơi Đức Chúa Trời chẳng có sự cứu giúp cho nó.” Sê-la 3Đức Giê-hô-va ôi, Ngài là thuẫn vây bọc con, là vinh quang của con, là Đấng khiến con ngước đầu lên.4Con cất tiếng kêu cầu Đức Giê-hô-va, và từ núi thánh Ngài, Ngài đáp lời con. Sê-la 5Con nằm xuống và ngủ; con thức giấc, vì Đức Giê-hô-va che chở con.6Con sẽ không sợ muôn người tứ phía nổi lên chống lại mình. 7Đức Giê-hô-va ôi, xin hãy chỗi dậy! Đức Chúa Trời ôi, xin Ngài cứu con! Vì Ngài sẽ vả má mọi kẻ thù nghịch con; Ngài sẽ bẻ răng kẻ ác.
8Sự cứu rỗi đến từ Đức Giê-hô-va. Nguyện các phước lành Ngài giáng trên dân Ngài. Sê-la. 41Hỡi Đức Chúa Trời của sự công bình con, khi con bị vây hãm, xin đem con vào nơi khoảng khoát. Xin thương xót con và nghe lời kêu cầu của con.2Còn các người, các người sẽ khiến thanh danh tôi bị ô nhục cho đến bao giờ? Các người sẽ còn yêu thích thứ chẳng ra gì và chạy theo điều dối trá trong bao lâu nữa? Sê-la
3Nhưng phải biết rằng Đức Giê-hô-va biệt riêng cho Ngài những người tin kính. Đức Giê-hô-va sẽ nghe khi tôi kêu cầu với Ngài.4Hãy run sợ, nhưng chớ phạm tội! Trên giường mình, hãy suy ngẫm trong lòng và lặng thinh. Sê-la
5Hãy dâng của lễ công bình và đặt lòng tin cậy nơi Đức Giê-hô-va.6Nhiều người bảo: “Ai sẽ tỏ cho chúng ta thấy điều gì tốt đẹp?” Hỡi Đức Giê-hô-va, xin tỏa rạng ánh tôn nhan Ngài trên chúng con.
7Ngài đã cho lòng con được vui sướng hơn kẻ khác, cho dầu họ có ngũ cốc và rượu mới tràn đầy.
8Con sẽ nằm xuống ngủ bình an, vì hỡi Đức Giê-hô-va, chỉ một mình Ngài khiến con được an ninh và bảo đảm. 51Hỡi Đức Giê-hô-va, xin hãy nghe lời con kêu cầu Ngài; xin hãy quan tâm đến lời thở than của con.2Hỡi Vua con và Đức Chúa Trời con, xin hãy nghe tiếng kêu của con, vì Ngài chính là Đấng con cầu khẩn.
3Hỡi Đức Giê-hô-va, vào buổi sáng Ngài nghe tiếng kêu khóc của con; lúc ban mai, con sẽ dâng trình lời khẩn nguyện mình lên cho Ngài và ngóng trông. 4Ngài không phải là một Đức Chúa Trời tán thành việc ác; kẻ ác sẽ không được Ngài tiếp đón.
5Kẻ kiêu ngạo sẽ không đứng nổi trước mặt Ngài; Ngài ghét mọi kẻ làm ác.
6Đức Giê-hô-va sẽ hủy diệt các kẻ nói dối; Ngài coi khinh kẻ hung bạo và kẻ lừa gạt. 7Nhưng về phần con, nhờ đức thành tín lớn lao của Ngài, con sẽ được vào nhà Ngài; với lòng thành kính, con sẽ hướng về đền thánh Ngài mà thờ lạy.
8Ôi Chúa, vì cớ các kẻ thù của con, xin hãy đưa dắt con trong sự công chính Ngài; xin hãy ban bằng đường lối Ngài trước mặt con. 9Vì trong miệng chúng chẳng có sự thật; con người bên trong chúng thật gian ác; họng chúng nó là cái huyệt mở toang; chúng dùng lưỡi mình mà dua nịnh.
10Hỡi Đức Chúa Trời, xin hãy tuyên phạt chúng; nguyện các mưu chước của chúng bị thất bại! Xin hãy đuổi chúng đi vì những vi phạm thật nhiều của chúng, vì chúng đã phản nghịch Ngài. 11Nguyện mọi kẻ nương náu nơi Ngài đều vui mừng; xin cho họ luôn lớn tiếng reo vui vì được Ngài bảo vệ; nguyện những ai yêu mến danh Ngài đều mừng rỡ trong Ngài.
12Vì, hỡi Đức Giê-hô-va, Ngài sẽ ban phước cho người công chính; Ngài sẽ lấy ơn làm thuẫn bao phủ họ. 61Đức Giê-hô-va ôi, đang cơn giận Ngài xin đừng quở trách con, cũng đừng sửa phạt con khi Ngài thịnh nộ.2Hỡi Đức Giê-hô-va, xin thương xót con, vì con yếu ớt; Đức Giê-hô-va ôi, xin hãy chữa lành con, vì xương cốt con run rẩy. 3Linh hồn con cũng rất bối rối. Nhưng Ngài, hỡi Đức Giê-hô-va – tình trạng này sẽ tiếp diễn trong bao lâu nữa?
4Hỡi Đức Giê-hô-va, xin hãy quay trở lại giải thoát con. Xin cứu con vì lòng thành tín của Ngài!
5Vì trong cõi chết, người ta không nhớ đến Chúa. Dưới âm ti, ai sẽ cảm tạ Ngài? 6Con kiệt sức vì than thở. Suốt cả đêm, giường con đẫm lệ; con làm trôi giường mình vì nước mắt.
7Con hoen mờ vì sầu thảm; nó yếu đi vì mọi kẻ thù con. 8Hãy tránh xa tôi đi, mọi kẻ làm ác các người; vì Đức Giê-hô-va đã nghe tiếng tôi kêu khóc.
9Đức Giê-hô-va đã nghe lời cầu khẩn của tôi; Đức Giê-hô-va đã nhậm lời nguyện cầu của tôi.
10Mọi kẻ thù của tôi sẽ hổ thẹn và bối rối. Chúng sẽ tháo lui và bị bẽ mặt. 71Hỡi Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của con, con nương náu nơi Ngài! Xin cứu con khỏi mọi kẻ săn đuổi con và giải cứu con.2Nếu không, họ sẽ vồ lấy con như sư tử, xé con thành từng mảnh mà chẳng ai khác có thể giải cứu. 3Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của con, con không bao giờ làm các việc mà kẻ thù gán ghép cho con; nơi tay con chẳng có điều gì bất công.
4Con chưa từng cư xử sai trái với bất kỳ ai ăn ở hòa hảo với mình, cũng chẳng vô tâm hãm hại bất cứ ai chống lại mình. 5Nếu con không nói đúng thì hãy để kẻ thù săn đuổi mạng sống con và bắt lấy; nguyện hắn giày đạp thân thể sống này dưới đất và cứ bỏ mặc con nằm trong tro bụi nhục nhã. Sê-la 6Đức Giê-hô-va ôi, xin hãy chỗi dậy giữa cơn giận Ngài; xin hãy đứng lên đối đầu với cơn thịnh nộ của các kẻ thù nghịch con; xin hãy thức dậy bênh vực con và thi hành các nghị định mà Ngài đã ban ra cho chúng.7Các nước sẽ hội hiệp lại chung quanh Ngài; xin hãy lại chiếm ngự vị thế chính đáng của Ngài đối với họ. 8Đức Giê-hô-va ôi, xin hãy xét xử các dân; hỡi Đức Giê-hô-va, Đấng Tối Cao, xin Ngài bênh vực con, vì con công chính và vô tội.
9Xin khiến cùng tận các việc ác của kẻ dữ, nhưng làm cho người công chính được vững lập, hỡi Đức Chúa Trời công bình, Đấng dò xét lòng và trí người ta. 10Thuẫn chở che con chính là Đức Chúa Trời, Đấng cứu người có lòng ngay thẳng.
11Đức Chúa Trời là quan án công minh, Đức Chúa Trời phẫn nộ mỗi ngày. 12Nếu người ta không ăn năn, thì Đức Chúa Trời sẽ mài gươm và giương cung sẵn sàng.
13Ngài sửa soạn khí giới chống lại họ; Ngài châm các mũi tên mình cháy phừng. 14Cứ nghĩ đến kẻ thai nghén điều ác, cưu mang việc hủy phá, sinh ra lời dối trá.
15Nó đào hầm và khoét thật lớn, nhưng rồi lại té xuống hố mình đã đào.
16Toan tính tàn hại nó sẽ đổ lại trên đầu nó, việc bạo lực nó sẽ giáng xuống trên chính nó. 17Con sẽ cảm tạ Đức Giê-hô-va vì đức công bình của Ngài; con sẽ hát ca ngợi Đức Giê-hô-va Chí Cao. 81Hỡi Đức Giê-hô-va là Đức Chúa Trời của chúng con, danh Ngài thật cao quý khắp cõi đất, ôi Chúa là Đấng bày tỏ vinh quang Ngài trên các từng trời.2Vì các kẻ thù mình, Chúa khiến lời ca ngợi phát ra từ miệng của em bé và trẻ sơ sinh, để làm im tiếng cả quân địch lẫn kẻ báo thù. 3Con nhìn lên các tầng trời của Chúa, vốn do ngón tay Ngài tạo ra, cùng mặt trăng và các vì sao mà Chúa đã đặt để,
4thì dòng giống loài người có quan trọng gì đâu mà Chúa lại để ý đến, nhân loại là chi mà Ngài phải lưu tâm?5Ấy thế mà Ngài đã tạo ra họ chỉ thấp hơn các sinh vật cõi trời chút ít và đội cho họ vinh quang cùng sự tôn trọng. 6Khiến họ cai quản các công trình của tay Ngài; Ngài đã đặt mọi vật dưới chân họ:
7nào chiên, bò đủ loại, thậm chí các loài thú đồng,8các loài chim trên trời, và cá dưới biển, mọi vật đi qua các dòng hải lưu.9Hỡi Đức Giê-hô-va, Chúa chúng tôi, danh Ngài thật cao quý trên khắp cõi đất! 91Con sẽ cảm tạ Đức Giê-hô-va với cả lòng mình; con sẽ nói về mọi việc kỳ diệu của Ngài.2Con sẽ sung sướng và vui mừng trong Ngài; hỡi Đấng Chí Cao, con sẽ hát ca ngợi danh Ngài! 3Khi các kẻ thù con trở lui, thì chúng sẽ vấp ngã và bị diệt vong trước mặt Ngài.
4Vì Ngài đã bênh vực chính nghĩa của con; Chúa ngự trên ngai, là vị quan tòa công minh! 5Chúa khiến các dân kinh hãi vì tiếng hô xung trận của Ngài; Chúa tiêu diệt kẻ ác; Ngài xóa sạch ký ức về chúng nó mãi mãi.
6Quân thù chỉ còn lại những tàn tích khi Ngài phá đổ các thành của chúng. 7Nhưng Đức Giê-hô-va còn đến đời đời; Ngài thiết lập ngai Ngài để thi hành công lý.
8Ngài xét xử thế gian cách công bằng. Ngài phán quyết công bình về các dân. 9Đức Giê-hô-va cũng sẽ là thành lũy cho kẻ bị áp bức, nơi ẩn náu lúc nguy nan.
10Những ai biết danh Ngài đều tin cậy Ngài, vì Ngài, hỡi Đức Giê-hô-va, Ngài chẳng ruồng bỏ kẻ nào tìm kiếm Ngài. 11Hãy ca hát chúc tụng Đức Giê-hô-va, Đấng cai trị ở Si-ôn; hãy rao cho các dân những việc Ngài đã làm.
12Vì Đức Chúa Trời không quên đòi nợ máu; Ngài nhớ đến tiếng kêu của kẻ khốn cùng. 13Đức Giê-hô-va ôi, xin đoái thương tôi; hãy xem tôi bị những kẻ ghét mình áp bức như thế nào, hỡi Đấng có thể giật tôi khỏi nanh vuốt của tử thần.
14Ồ, ước gì tôi có thể rao ra mọi lời chúc tụng Ngài. Tại cổng của các thiếu nữ Si-ôn, tôi sẽ vui mừng về sự cứu rỗi của Ngài. 15Các dân đã lún xuống hố mà họ đã đào; chân họ bị vướng vào bẫy lưới mà họ đã đặt.
16Đức Giê-hô-va đã khiến người ta biết đến Ngài; Chúa đã thi hành sự phán xét; kẻ ác bị chính các việc họ làm gài bẫy. Sê-la 17Kẻ ác sẽ bị đuổi về và đưa vào âm phủ, vốn là số phận dành cho mọi dân quên Đức Chúa Trời.18Vì kẻ thiếu thốn sẽ không bị bỏ quên mãi mãi, kẻ khốn cùng cũng sẽ không luôn bị vỡ mộng. 19Hỡi Đức Giê-hô-va, xin hãy chỗi dậy; xin đừng để con người thắng hơn chúng tôi; nguyện các dân bị phán xét trước mặt Ngài.
20Đức Giê-hô-va ôi, xin hãy khiến chúng hoảng kinh; nguyện các dân ý thức rằng mình chỉ là người phàm. Sê-la. 101Đức Giê-hô-va ôi, sao Ngài lại đứng cách xa? Vì sao Ngài ẩn mình đi trong những lúc nguy nan?2Vì thiếu hiểu biết nên kẻ ác săn đuổi người khốn cùng; nhưng xin Chúa khiến chúng vướng vào các mưu chước mà chúng đã toan tính.
3Vì kẻ ác khoe khoang về dục vọng trong lòng; hắn sùng bái kẻ tham lam, nhưng lại xúc phạm Đức Giê-hô-va. 4Kẻ ác có bộ mặt vênh váo; hắn chẳng tìm kiếm Đức Chúa Trời. Hắn chưa từng nghĩ đến Đức Chúa Trời vì hắn chẳng quan tâm gì đến Ngài.
5Hắn luôn được an ninh, nhưng các nghị định công bình của Ngài quá cao đối với hắn; hắn khinh thường mọi kẻ thù mình. 6Hắn nói trong lòng: “Mình sẽ không bao giờ lụn bại; trải suốt các đời mình sẽ chẳng gặp nghịch cảnh.”
7Miệng hắn đầy sự rủa sả và lời dối trá tàn độc; lưỡi hắn gây thương tích và hủy hoại. 8Hắn rình rập gần các ngôi làng; tại những nơi ẩn khuất, hắn ra tay giết người vô tội; mắt hắn tìm kiếm thêm nạn nhân cô thế.
9Hắn len lén chực chờ như sư tử nơi bụi rậm; hắn mai phục vồ lấy người khốn khổ. Kéo lưới vào, hắn bắt những kẻ khốn cùng.
10Con mồi của hắn bị đè bẹp và áp chế; họ mắc vào lưới bẫy của hắn. 11Hắn nói trong lòng: “Đức Chúa Trời đã quên rồi; Ngài đã che mặt lại; Ngài sẽ không màng để mắt đến.”
12Hỡi Đức Giê-hô-va, hãy chỗi dậy; hỡi Đức Chúa Trời, xin đưa tay Ngài lên mà đoán xét. Xin Chúa đừng quên người cùng khốn. 13Vì sao kẻ ác khước từ Đức Chúa Trời và nói trong lòng rằng: “Ngài sẽ chẳng buộc tội tôi”?
14Chúa đã để ý, vì Ngài vẫn luôn nhìn thấy kẻ gây ra điều khốn khổ và đau buồn. 15Xin Chúa hãy bẻ tay của kẻ độc ác, gian tà; xin hãy bắt hắn phải chịu tội về các việc ác của mình mà hắn tưởng rằng Ngài sẽ không phát hiện ra.
16Đức Giê-hô-va là Vua đến đời đời; các dân đều bị tống xuất khỏi lãnh thổ Ngài. 17Ôi Đức Giê-hô-va, Ngài đã nghe biết các nhu cầu của kẻ cùng khốn; Ngài khiến họ thêm vững lòng, Ngài nghe lời cầu nguyện của họ;
18Ngài bênh vực kẻ mồ côi và người chịu áp bức, để chẳng con người nào dưới đất sẽ lại gieo rắc kinh hoàng. 111Tôi ẩn náu nơi Đức Giê-hô-va; sao các người lại bảo tôi: “Hãy trốn lên núi giống như chim đi”?2Vì, kìa, kẻ ác giương cung. Chúng đã tra tên vào dây để rồi trong bóng tối bắn vào người có lòng ngay thẳng. 3Vì nếu các nền bị đổ nát, thì người công chính còn làm gì được?
4Đức Giê-hô-va ở trong đền thánh Ngài; mắt Ngài theo dõi, mắt Ngài dò xét con cái loài người. 5Đức Giê-hô-va dò xét cả người công chính lẫn kẻ ác, và Ngài ghét những kẻ ưa thích bạo lực.
6Ngài trút đổ than hồng và diêm sinh xuống kẻ ác; gió bỏng sẽ là phần trong chén Ngài dành cho họ!
7Vì Đức Giê-hô-va là công bình, và Ngài ưa thích sự công chính; người ngay thẳng sẽ được thấy mặt Ngài. 121Hỡi Đức Giê-hô-va, xin hãy cứu giúp, vì người kính sợ Chúa không còn; kẻ trung tín đã biến mất.2Ai nấy đều nói những lời sáo rỗng với kẻ khác; mọi người đều hai lòng và có môi dua nịnh.
3Đức Giê-hô-va ôi, xin hãy cắt hết các môi dua nịnh đó, cùng mọi lưỡi huyênh hoang, khoác lác.
4Họ là những kẻ nói: “Chúng ta sẽ thắng nhờ miệng lưỡi mình. Khi môi chúng ta nói ra, ai có thể kiểm soát chúng ta?” 5“Đức Giê-hô-va phán: “Vì tình trạng bạo hành với người nghèo, vì những lời ca thán của kẻ thiếu thốn, Ta sẽ chỗi dậy. Ta sẽ ban cho họ sự an toàn mà họ trông mong.” 6Lời Đức Giê-hô-va là lời tinh sạch, như bạc được luyện sạch trong lò bằng gốm, tinh luyện đến bảy lần.
7Ngài chính là Đức Giê-hô-va! Ngài gìn giữ kẻ tin kính. Ngài bảo tồn họ giữa thế hệ gian tà này đến đời đời.
8Khi điều ác được đề cao giữa vòng các con loài người thì kẻ ác đi rảo tứ phía. 131Hỡi Đức Giê-hô-va, Ngài sẽ mãi quên con đến bao giờ? Ngài sẽ ẩn mặt với con cho đến khi nào?2Con còn phải âu lo và buồn thảm suốt ngày trong lòng bao lâu nữa đây? Kẻ thù của con sẽ còn thắng thế cho đến khi nào? 3Ôi Đức Giê-hô-va Đức Chúa Trời con, xin Ngài hãy nhìn xem con và đáp lời con. Xin Chúa mở mắt con, nếu không con sẽ chìm vào giấc ngủ ngàn thu.
4Xin đừng để kẻ thù con nghĩ: “Mình đã đánh bại nó rồi,” để hắn khỏi huyênh hoang rằng: “Ta đã thắng hơn đối thủ”; vì nếu vậy các kẻ thù con sẽ mừng rỡ khi con bị hạ gục. 5Nhưng con đã tin cậy lòng thành tín Chúa; lòng con vui mừng về sự cứu rỗi của Ngài.
6Con sẽ ca ngợi Đức Giê-hô-va vì Ngài đã hậu đãi con. 141Kẻ xuẩn ngốc tự nhủ trong lòng: “Chẳng có Đức Chúa Trời đâu.” Chúng đồi bại và phạm các việc đáng kinh tởm; chẳng có người nào làm điều thiện lành.2Đức Giê-hô-va từ trời nhìn xuống các con loài người để xem có ai hiểu biết, có ai tìm kiếm Ngài chăng.
3Tất cả đều sai lạc; mọi người đều ô uế; chẳng có ai làm điều thiện lành, dầu chỉ một người cũng không. 4Những kẻ phạm tội, những kẻ ăn nuốt dân của con như thể ăn bánh, nhưng lại chẳng cầu khẩn Đức Giê-hô-va, bộ chúng không biết gì sao? 5Chúng run sợ, vì Đức Chúa Trời ở cùng hội người công chính!
6Các người muốn hạ nhục kẻ nghèo cho dầu Đức Giê-hô-va là nơi nương náu của người. 7Ồ, ước gì sự cứu rỗi Y-sơ-ra-ên đến từ Si-ôn! Khi Đức Giê-hô-va đưa dân lưu đày của Ngài trở về, thì Gia-cốp sẽ vui mừng, Y-sơ-ra-ên sẽ sung sướng! 151Hỡi Đức Giê-hô-va, ai được ở trong đền Chúa? Ai được sống trên núi thánh của Ngài?2Đó là người sống cách vẹn toàn, làm điều chính đáng, và nói thật từ lòng mình. 3Người không dùng lưỡi mình nói hành, chẳng gây tổn hại cho ai, cũng không lăng nhục kẻ khác. 4Mắt người khinh bỉ kẻ chẳng ra gì, nhưng lại tôn trọng kẻ kính sợ Đức Giê-hô-va. Người thề hứa và sẵn sàng chịu thiệt mà không nuốt lời.
5Người không cho vay tiền tính lãi. Người không nhận của hối lộ để cáo gian kẻ vô tội. Người nào thực hành những điều này sẽ không bao giờ bị rúng động. 161Đức Chúa Trời ôi, xin hãy bảo vệ con, vì con nương náu nơi Ngài.2Con thưa với Đức Giê-hô-va: “Ngài là Chúa của con; ngoài Ngài chẳng có gì tốt cho con.
3Về phần những thánh nhân trên đất, họ là những con người cao quý; trọn niềm vui thích của con ở nơi họ. 4Nỗi phiền muộn của những kẻ tìm kiếm các thần khác sẽ nhiều thêm. Con sẽ không dâng lễ quán bằng huyết cho các thần chúng nó, hay xưng tụng danh của chúng trên môi mình. 5Đức Giê-hô-va ôi, Ngài là phần con đã chọn, và là chén của con. Số mạng con Ngài nắm giữ.
6Dây mực đã đánh dấu phần dành cho con trong những nơi phước hạnh; cơ nghiệp tốt lành chắc chắn thuộc về con. 7Con sẽ chúc tụng Đức Giê-hô-va, Đấng khuyên bảo con; thậm chí vào ban đêm tâm trí con cũng chỉ dạy con.
8Con luôn để Đức Giê-hô-va trước mặt mình, nên sẽ không gì lay chuyển con ra khỏi bàn tay phải của Ngài. 9Vậy nên lòng con vui sướng; tâm con tôn cao Ngài; con hẳn sẽ được sống bình an.
10Vì Chúa sẽ không bỏ linh hồn con dưới âm phủ. Ngài sẽ không để kẻ trung tín với Ngài nhìn thấy mộ huyệt. 11Ngài dạy cho con đường sự sống; trước mặt Ngài có niềm vui tràn đầy; trong tay phải Ngài có sự khoái lạc đời đời.” 171Đức Giê-hô-va ôi, xin hãy bênh vực lẽ công bằng cho con; xin hãy lưu ý lời con kêu cứu! Xin Chúa nghe lời cầu nguyện con, xuất phát từ miệng lưỡi không gian dối.2Nguyện con được minh oan trước mặt Ngài; xin mắt Chúa xem xét đâu là lẽ chánh! 3Nếu Chúa tra xét lòng con, nếu Ngài đến với con lúc ban đêm, thì Ngài sẽ thanh tẩy con và chẳng thấy mưu ác nào; miệng con sẽ không phạm tội. 4Về phần các việc làm của loài người, ấy là nhờ lời của miệng Ngài mà con giữ mình khỏi đường lối của kẻ vô luật pháp.
5Các bước con bám chặt theo đường lối Chúa; chân con không trượt ngã. 6Lạy Đức Chúa Trời, con kêu cầu Ngài, vì Ngài đáp lời con; xin hãy nghiêng tai qua con và lắng nghe khi con nói.
7Lạy Đấng dùng tay phải mình cứu khỏi quân thù những ai nương náu nơi Ngài, xin Chúa tỏ lòng thành tín Ngài một cách diệu kỳ. 8Xin hãy bảo vệ con như con ngươi của mắt Ngài; xin giấu con dưới bóng cánh Ngài,
9khuất mặt kẻ ác hãm hại con, khỏi kẻ thù vây bọc con.10Chúng chẳng xót thương ai; miệng chúng nói lời kiêu căng. 11Chúng vây lấy các bước con. Chúng tìm phương đánh ngã con.
12Chúng giống sư tử háu săn mồi, như sư tử tơ rình rập nơi nẻo khuất. 13Hỡi Đức Giê-hô-va, xin hãy trỗi dậy! Xin Chúa giáng trả chúng nó! Xin hãy khiến chúng phải ngã nhào! Xin Ngài dùng gươm giải cứu mạng sống con khỏi kẻ ác.
14Ôi Đức Giê-hô-va, xin hãy dùng tay Ngài giải cứu con khỏi người trần gian, vốn chỉ hưng vượng trong đời này mà thôi! Ngài sẽ dùng sự giàu có mà làm no dạ những kẻ Ngài quý trọng; họ sẽ được nhiều con cái và của cải họ sẽ để lại cho các con mình. 15Riêng con, con sẽ nhìn thấy mặt Ngài trong sự công chính; khi thức giấc, con sẽ thỏa nguyện vì được thấy Ngài. 181Hỡi Đức Giê-hô-va, sức lực của con, con yêu mến Ngài.2Đức Giê-hô-va là vầng đá tôi, thành lũy của tôi, Đấng đem tôi đến nơi an toàn; Ngài là Đức Chúa Trời tôi, vầng đá của tôi; tôi nương náu nơi Ngài. Chúa là thuẫn che tôi, là sừng cứu rỗi của tôi, và là đồn lũy tôi.
3Tôi kêu cầu Đức Giê-hô-va đáng ca ngợi, và tôi sẽ được cứu khỏi các kẻ thù mình. 4Dây sự chết quấn lấy tôi, những kẻ chẳng ra gì như các dòng nước ập lên tôi.
5Dây âm phủ giăng bủa quanh tôi; bẫy sự chết bắt lấy tôi. 6Trong cơn hiểm nguy, tôi kêu cầu Đức Giê-hô-va; tôi kêu cứu Đức Chúa Trời mình. Từ nơi đền Ngài, Chúa nghe tiếng tôi; tiếng kêu cầu tôi thấu đến trước mặt Ngài; nó thấu đến tai Ngài. 7Lúc ấy, đất rung chuyển và rúng động; nền các núi cũng rúng động, rung chuyển vì Đức Chúa Trời nổi giận.
8Khói bay lên từ lỗ mũi Ngài, lửa hừng phát ra từ miệng Ngài, khiến than phát cháy. 9Ngài vén các từng trời và ngự xuống, dưới chân Ngài là bóng tối dày đặc.
10Ngài cưỡi Chê-ru-bim và bay; Ngài lượn trên cánh gió. 11Ngài biến bóng tối, là mây đen trên trời, thành chiếc lều bao quanh Ngài.
12Từ chớp nhoáng phát ra trước mặt Ngài, mưa đá và than lửa đỏ đổ xuống. 13Đức Giê-hô-va phát sấm sét trên các từng trời! Đấng Chí Cao quát tháo và giáng mưa đá cùng chớp nhoáng.
14Ngài bắn tên và làm tan tác các kẻ thù mình; nhiều tia chớp khiến chúng phải tán loạn. 15Lúc đó, hỡi Đức Giê-hô-va, bởi tiếng hô xung trận của Ngài, do hơi thở từ lỗ mũi Ngài, đáy biển xuất hiện; nền móng thế giới phơi bày ra. 16Từ trên cao, Chúa đưa tay xuống; Ngài nắm lấy tôi! Ngài kéo tôi ra khỏi chỗ nước dâng tràn.
17Ngài cứu tôi khỏi kẻ thù mạnh sức, khỏi những kẻ ghét tôi, vì chúng quá hùng mạnh đối với tôi. 18Chúng xông đánh tôi trong ngày gian truân, nhưng Đức Giê-hô-va nâng đỡ tôi!
19Chúa cho tôi được thảnh thơi ở nơi rộng rãi; Ngài cứu tôi vì Ngài hài lòng về tôi. 20Đức Giê-hô-va đã ban thưởng cho tôi vì tôi công chính; Ngài phục hồi tôi vì tay tôi thanh sạch.
21Vì tôi đã gìn giữ các đường lối của Đức Giê-hô-va và không làm ác mà quay lưng lại với Đức Chúa Trời mình. 22Vì tất cả các nghị định của Chúa đều ở trước mặt tôi; còn các luật lệ Ngài tôi không xây bỏ.
23Tôi cũng vô tội trước mặt Ngài và tự giữ mình khỏi phạm tội.
24Vì vậy, Đức Giê-hô-va đã phục hồi tôi vì sự công chính của tôi, vì tay tôi thanh sạch trước mắt Ngài. 25Người tín trung, Chúa cũng tỏ ra tín trung; với người trọn vẹn, Chúa cũng tỏ ra trọn vẹn.
26Với người thanh sạch, Chúa cũng tỏ mình thanh sạch; nhưng Ngài khôn ngoan đối với kẻ trái nghịch. 27Vì Chúa cứu người khốn cùng, nhưng đánh hạ kẻ có mắt kiêu ngạo, vênh váo.
28Vì Chúa ban ánh sáng cho đèn con; Đức Giê-hô-va Đức Chúa Trời con thắp sáng chốn tối tăm của con.
29Vì nhờ Chúa, con có thể băng qua chướng ngại; nhờ Đức Chúa Trời của con, con có thể vượt qua thành lũy. 30Về phần Đức Chúa Trời: đường lối Ngài là trọn vẹn. Lời của Đức Giê-hô-va là thanh sạch! Ngài là thuẫn che mọi người nương náu nơi Ngài.
31Vì ngoài Đức Giê-hô-va ra, còn ai là Đức Chúa Trời? Ngoài Đức Chúa Trời chúng tôi, thì ai là vầng đá?
32Đức Chúa Trời, Đấng đặt để người vẹn toàn trong đường lối Ngài, chính Ngài nai nịt tôi bằng sức mạnh. 33Ngài khiến chân tôi nhanh nhẹn như con nai và đặt tôi trên các núi đồi.
34Ngài luyện bàn tay tôi chiến đấu, luyện cánh tay tôi giương cung đồng. 35Chúa đã ban cho con thuẫn cứu rỗi của Ngài. Tay phải Ngài nâng đỡ con, và ơn Ngài khiến cho con nên quyền uy.
36Chúa sửa soạn chỗ rộng rãi bên dưới cho bàn chân con, để chân con khỏi trượt ngã. 37Con đuổi theo quân thù và bắt kịp chúng; mãi đến khi chúng bị diệt sạch con mới quay trở về.
38Con đập tan chúng, khiến chúng không thể trỗi dậy; chúng ngã rạp dưới chân con.
39Vì Chúa lấy năng lực nai nịt cho con xung trận; Ngài khiến những kẻ nổi lên chống lại con phải quy phục con. 40Ngài khiến kẻ thù phải đưa ót chúng ra cho con; con diệt sạch những kẻ thù ghét con.
41Chúng cầu cứu, nhưng chẳng ai đến cứu; chúng kêu Đức Giê-hô-va, nhưng Ngài không đáp lời.
42Con nghiền nát chúng như bụi trước gió; con ném chúng ra như bùn đất ngoài đường. 43Chúa giải cứu con khỏi các tranh chấp của người ta. Ngài khiến con làm đầu các dân. Những người con không biết sẽ phục dịch con.
44Vừa nghe đến con họ liền vâng lệnh; người ngoại quốc buộc phải quy phục con.
45Người ngoại quốc run sợ đi ra khỏi đồn lũy mình. 46Đức Giê-hô-va vẫn sống; nguyện vầng đá của con được ca ngợi. Nguyện Đức Chúa Trời của sự cứu rỗi con được tôn cao.
47Đây chính là Đức Chúa Trời báo oán cho con, Đấng khiến các dân quy phục con. 48Con được giải thoát khỏi các kẻ thù mình! Thật, Ngài đã đưa con lên cao hơn những kẻ nổi dậy chống lại con! Chính Chúa giải cứu con khỏi những người hung bạo.
49Vậy nên con sẽ cảm tạ Chúa, tức Đức Giê-hô-va, giữa các dân; con sẽ hát chúc tụng danh Ngài! 50Đức Chúa Trời khiến vua Ngài được đại thắng, và Ngài tỏ lòng thành tín cho kẻ được xức dầu của Ngài, tức cho Đa-vít, và cho dòng dõi người, đến muôn đời. 191Các tầng trời loan truyền vinh quang của Đức Chúa Trời, bầu trời tỏ cho biết công trình của Ngài.2Ngày này qua ngày khác, chúng cứ lên tiếng; đêm này đến đêm nọ, chúng mặc khải tri thức.
3Chẳng có tiếng nói hay lời phát ra; chẳng ai nghe được tiếng chúng. 4Nhưng lời chúng vang ra khắp cõi đất, điều chúng nói lên vọng đến tận cùng thế giới.
5Mặt trời giống như tân lang rời khỏi loan phòng, giống như người lực sĩ hân hoan tham dự cuộc đua.
6Mặt trời mọc lên từ chân trời này rồi băng qua bầu trời để đến chân trời kia; chẳng gì tránh được sức nóng của nó. 7Luật pháp của Đức Giê-hô-va là toàn hảo, hồi sinh linh hồn lại; lời chứng của Đức Giê-hô-va đáng tin cậy, biến người chân chất nên khôn ngoan.
8Các hướng dẫn của Đức Giê-hô-va đều chánh đáng, làm cho lòng vui mừng; điều răn của Đức Giê-hô-va là thuần khiết, khiến mắt được sáng. 9Sự kính sợ Đức Giê-hô-va là thanh sạch, hằng còn mãi mãi; các nghị định của Đức Giê-hô-va là chân thật, đều công bình cả!
10Chúng quý giá hơn vàng, thậm chí quý hơn vàng ròng; chúng ngọt hơn mật, hơn cả mật từ tàng ong nhỏ xuống. 11Bởi chúng mà tôi tớ Ngài được cảnh báo; người nào vâng theo đều được lợi ích lớn.
12Ai biết hết được mọi sai phạm của mình? Xin Chúa thanh tẩy tôi khỏi các thiếu sót kín giấu. 13Cũng xin Chúa giữ cho tôi tớ Ngài khỏi các tội kiêu căng; nguyện các tội ấy không cai trị tôi. Lúc đó tôi sẽ trọn lành, và tôi sẽ không mắc phải nhiều thứ tội.
14Hỡi Đức Giê-hô-va, là vầng đá và Đấng cứu chuộc tôi, nguyện lời nói của miệng tôi, ý tưởng của lòng tôi được đẹp ý Ngài. 201Nguyện Đức Giê-hô-va giúp đỡ người trong ngày hoạn nạn; nguyện danh Đức Chúa Trời của Gia-cốp bảo vệ người2và từ nơi thánh ban sự cứu giúp để nâng đỡ người từ Si-ôn.3Nguyện Ngài nhớ lại mọi lễ vật người dâng và nhậm lấy lễ thiêu của người. Sê-la
4Nguyện Ngài ban cho người điều lòng mình ao ước và làm thành mọi chương trình của người.5Lúc đó chúng tôi sẽ hoan hỉ về chiến thắng của người, và nhân danh Đức Chúa Trời chúng ta, chúng tôi sẽ giương cao ngọn cờ. Nguyện Đức Giê-hô-va ban cho người mọi điều người cầu xin.
6Giờ đây, tôi biết rằng Đức Giê-hô-va sẽ giải cứu người được xức dầu của Ngài; từ trời thánh, Ngài sẽ đáp lời người bằng sức mạnh của tay phải Ngài, vốn có quyền giải cứu người. 7Người này cậy xe, kẻ khác cậy ngựa, nhưng chúng tôi kêu cầu Đức Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi.
8Họ sẽ bị đánh hạ và sụp đổ, còn chúng tôi sẽ vươn lên và đứng thẳng! 9Hỡi Đức Giê-hô-va, xin hãy giải cứu vua Ngài; xin Chúa giúp chúng tôi khi chúng tôi kêu cầu. 211Hỡi Đức Giê-hô-va, nhờ sức của Ngài mà vua vui mừng! Nhờ ơn cứu rỗi Ngài cung ứng mà người vô cùng hân hoan.2Ngài đã ban cho người điều lòng người ao ước, và không từ chối lời môi miệng người cầu xin. 3Vì Chúa ban cho người ơn phước dồi dào; Ngài đội lên đầu người mão triều bằng vàng ròng.
4Người xin Ngài sự sống, thì Ngài ban cho; Ngài cho ngày người dài đến vô tận, mãi mãi. 5Nhờ chiến thắng Chúa ban, người được vinh quang lớn; Ngài phú cho người sự sang trọng, oai nghi.
6Vì Chúa ban cho người ơn phước dài lâu; Ngài khiến người hân hoan với niềm vui sướng về sự hiện diện của Ngài. 7Vì vua tin cậy Đức Giê-hô-va; nhờ lòng thành tín của Đấng Chí Cao mà người sẽ không bị dời chuyển.
8Tay Chúa sẽ tóm hết mọi kẻ thù Ngài; tay phải Ngài sẽ bắt được những kẻ ghét Ngài. 9Khi Chúa nổi giận, Ngài sẽ đốt cháy chúng như trong lò lửa hực. Đức Giê-hô-va sẽ thiêu đốt chúng giữa cơn thạnh nộ Ngài, và lửa sẽ nuốt chửng chúng nó.
10Chúa sẽ diệt sạch dòng dõi chúng khỏi mặt đất, và con cháu chúng nó khỏi giữa loài người. 11Vì chúng toan tính việc ác chống lại Ngài; chúng lập mưu, nhưng mưu định chẳng thành!
12Vì Chúa sẽ khiến chúng phải quay lui; Ngài sẽ giương cung nhắm vào mặt chúng. 13Hỡi Đức Giê-hô-va, nguyện Ngài được tôn cao nhờ sức lực Ngài; chúng con sẽ hát ca ngợi quyền năng Ngài. 221Đức Chúa Trời của con, Đức Chúa Trời của con ôi, sao Ngài lại bỏ con? Sao Ngài lại ở cách xa, không chịu cứu con, không nghe lời thống khổ của con?2Hỡi Đức Chúa Trời của con, con kêu van lúc ban ngày, song Ngài chẳng đáp lời, nên ban đêm con vẫn không nín lặng! 3Nhưng Ngài là thánh; Ngài ngự trị giữa sự ca ngợi của Y-sơ-ra-ên.
4Các tổ phụ chúng con đã tin cậy Ngài; họ tin cậy Ngài, và Ngài đã giải cứu họ.
5Họ kêu cầu Ngài, và được cứu. Họ tin cậy Ngài và chẳng bị thất vọng. 6Nhưng con chỉ là con sâu, chẳng phải con người, bị loài người ghét bỏ, bị kẻ khác khinh khi.
7Mọi người nhìn thấy con đều nhạo cười; họ chế giễu con; họ lắc đầu nhìn con.
8Họ bảo: “Nó tin cậy Đức Giê-hô-va; cứ để Đức Giê-hô-va giải cứu hắn. Hãy để Ngài cứu hắn, vì Ngài vui thích hắn.” 9Vì Chúa đã đem con ra khỏi lòng mẹ; Ngài khiến con biết tin cậy Ngài khi con dựa trên ngực người.
10Từ trong tử cung, con đã được giao cho Chúa; Ngài là Đức Chúa Trời của con từ khi con còn ở trong lòng mẹ. 11Xin đừng ở xa con, vì nguy nan đã cận kề; chẳng có ai giúp đỡ con.
12Có nhiều bò đực bao quanh con; các bò đực mạnh sức của Ba-san vây lấy con.
13Chúng há to mồm tấn công con chẳng khác nào sư tử gầm thét cắn xé mồi. 14Con bị đổ ra như người ta đổ nước, mọi xương cốt con đều sái khớp. Tim con giống như sáp: nó tan chảy trong mình con.
15Sức lực con khô lại như mảnh gốm; lưỡi con dính vào vòm họng. Chúa đã đặt con trong tro bụi sự chết. 16Vì lũ chó đã bủa vây con; một đám ác nhân đã bao quanh con; chúng đâm thủng tay chân con.
17Con đếm được mọi xương cốt mình. Chúng nhìn chằm chằm vào con. 18Chúng chia nhau đồ con mặc; chúng rút thăm lấy trang phục con.
19Đức Giê-hô-va ôi, xin đừng ở xa con; Chúa là sức lực con, xin mau mau cứu giúp con! 20Xin giải cứu linh hồn con khỏi thanh gươm, giải cứu mạng sống duy nhất của con khỏi móng vuốt loài chó.
21Xin Chúa cứu con khỏi mồm sư tử; hãy giải cứu con khỏi sừng bò rừng. 22Con sẽ công bố danh Chúa cho anh em con; giữa hội dân Chúa con sẽ ca ngợi Ngài.
23Hỡi những ai kính sợ Đức Giê-hô-va, hãy ca ngợi Ngài! Hỡi tất cả con cháu của Gia-cốp, hãy tôn kính Ngài. Nào, toàn thể dòng dõi Y-sơ-ra-ên, hãy ngưỡng vọng Ngài! 24Vì Ngài không khinh khi hay ghê tởm nỗi đau của người khốn cùng; Đức Giê-hô-va không ẩn mặt với người; khi kẻ khốn cùng kêu cầu Ngài thì Ngài nghe.
25Vì cớ Chúa, con sẽ ca ngợi giữa hội lớn; con sẽ thực hiện các lời hứa nguyện mình trước những kẻ kính sợ Chúa. 26Kẻ khốn cùng sẽ ăn và no nê; người tìm kiếm Đức Giê-hô-va sẽ chúc tụng Ngài. Nguyện lòng các người cứ sống mãi.
27Mọi dân trên đất sẽ nhớ lại và quay về với Đức Giê-hô-va; tất cả dòng tộc trong các dân sẽ cúi mình xuống trước Ngài. 28Vì nước thuộc về Đức Giê-hô-va; Ngài cai trị các dân.
29Mọi kẻ thới thạnh trên đất sẽ ăn uống và thờ phượng; mọi kẻ đang trở về với cát bụi, tức những kẻ không thể bảo tồn mạng sống mình, sẽ cúi mình xuống trước Ngài. 30Một thế hệ sau này sẽ phục vụ Ngài; họ sẽ kể cho thế hệ tiếp nối về Chúa.
31Họ sẽ đến và nói về đức công bình của Ngài; họ sẽ thuật cho dân tộc sắp sinh ra những việc Ngài đã làm! 231Đức Giê-hô-va là Đấng chăn dắt con; con sẽ không thiếu gì cả.2Ngài khiến con nằm nghỉ trong đồng cỏ xanh; Ngài dẫn con đi cạnh dòng nước yên tịnh 3Ngài phục hồi sự sống của con; Ngài đưa dắt con theo đường lối chính đáng, vì danh của Ngài.4Cho dù con có đi qua thung lũng phủ bóng đen kịt, con sẽ không sợ bị hại vì có Chúa ở cùng; cây gậy và cây trượng của Chúa yên ủi con. 5Chúa sửa soạn bữa ăn cho con trước mặt kẻ thù con; Ngài xức dầu trên đầu con; chén con đầy tràn. 6Trọn những ngày của cuộc đời con, chắc chắn ơn lành và sự thành tín sẽ theo con; và con sẽ sống trong nhà của Đức Giê-hô-va cho đến lâu dài! 241Đất và mọi vật trên đất, địa cầu cùng mọi người sống trên đó, đều thuộc về Đức Giê-hô-va.2Ngài đã đặt nền nó trên các biển và khiến nó đứng vững trên các dòng sông. 3Ai sẽ lên núi của Đức Giê-hô-va? Ai sẽ đứng trong nơi thánh Ngài?
4Kẻ có đôi bàn tay trong sạch và tấm lòng thánh khiết; kẻ không đề cao sự giả dối và không thề thốt để đánh lừa người khác. 5Kẻ ấy sẽ được hưởng phước của Đức Giê-hô-va, được sự công bình từ Đức Chúa Trời của sự cứu rỗi mình.
6Con cháu của những kẻ tìm kiếm Chúa, tức những kẻ tìm kiếm tôn nhan Đức Chúa Trời của Gia-cốp, sẽ được như vậy. Sê-la 7Hỡi các cổng, hãy ngẩng đầu lên; hỡi các cửa đời đời, hãy cất cao lên, để Vua vinh quang ngự vào!8Vua vinh quang này là ai vậy? Đó chính là Đức Giê-hô-va, mạnh mẽ và quyền năng; là Đức Giê-hô-va hùng mạnh trong chiến trận. 9Hỡi các cổng, hãy ngẩng đầu lên; hỡi các cửa đời đời, hãy cất cao lên, để Vua vinh quang ngự vào!
10Vua vinh quang này là ai vậy? Đức Giê-hô-va các đạo binh, chính Ngài là Vua vinh quang. Sê-la. 251Hỡi Đức Giê-hô-va, con dâng cuộc đời mình lên cho Ngài.2Lạy Đức Chúa Trời con, con tin cậy Ngài. Xin đừng để con bị sỉ nhục; xin đừng để các kẻ thù nghịch con vui mừng đắc thắng về con!
3Nguyện bất kỳ ai hy vọng nơi Ngài đều chẳng bị hổ thẹn; kẻ hành động thiếu trung thực mới đáng hổ thẹn! 4Đức Giê-hô-va ôi, xin hãy tỏ cho con biết các đường lối Ngài; xin chỉ dạy con các nẻo Ngài.
5Xin hãy dẫn con vào chân lý Ngài và dạy dỗ con, vì Ngài chính là Đức Chúa Trời của sự cứu rỗi con; con hy vọng nơi Ngài trọn cả ngày. 6Hỡi Đức Giê-hô-va, xin hãy nhớ lại các hành động thương xót và thành tín của Ngài; vì chúng vẫn hằng có.
7Xin Chúa đừng nhớ đến các tội con phạm thời trai trẻ, cùng sự bội nghịch của con; hỡi Đức Giê-hô-va, xin hãy vì lòng nhân từ Ngài và bởi đức thành tín mà nhớ lại con, 8Giê-hô-và là thiện và chánh trực; vì vậy, Ngài chỉ dạy con đường cho tội nhân.9Ngài dùng sự công chính mà dẫn dắt kẻ khiêm tốn, và Ngài dạy người khiêm nhường đường lối Ngài 10Mọi đường lối của Đức Giê-hô-va đều xuất phát từ sự thành tín và chân thật đối với kẻ gìn giữ giao ước và các mạng lệnh của Ngài.11Đức Giê-hô-va ôi, vì danh Ngài, xin Chúa tha thứ tội lỗi con, vì nó lớn lắm. 12Ai là kẻ kính sợ Đức Giê-hô-va? Chúa sẽ chỉ dạy người con đường mình phải chọn.
13Người sẽ được sống trong ơn lành; con cháu người sẽ được thừa hưởng đất. 14Đức Giê-hô-va kết bạn với người tôn kính Ngài, và Ngài tỏ cho họ biết giao ước Ngài.
15Mắt con luôn trông đợi Đức Giê-hô-va, vì Ngài sẽ gỡ chân tôi khỏi bẫy lưới.
16Xin Chúa hãy đoái xem con và thương xót con; vì con đơn độc và khốn khổ. 17Các nỗi âu lo của lòng con đã tăng thêm; xin Chúa kéo con ra khỏi tình trạng khốn cùng!
18Nguyện Chúa thấy sự hoạn nạn và các nỗi nhọc nhằn của con; xin hãy tha tội cho con.
19Nguyện Chúa thấy các kẻ thù nghịch con, vì chúng đông; chúng thù ghét con cách ác nghiệt. 20Xin hãy bảo vệ mạng sống con và giải cứu con; con sẽ không bị sỉ nhục, vì con nương náu nơi Chúa!
21Nguyện sự thanh liêm và chính trực gìn giữ con, vì con hy vọng ở Ngài. 22Đức Chúa Trời ôi, xin hãy giải cứu Y-sơ-ra-ên khỏi mọi gian truân! 261Đức Giê-hô-va ôi, xin hãy phân xử cho con, vì con bước đi cách thanh liêm; con đã tin cậy Đức Giê-hô-va không lay chuyển.2Đức Giê-hô-va ôi, xin hãy xem xét con, và thử con; xin hãy tra xét sự thanh sạch của lòng dạ con!
3Vì trước mặt con là lòng thành tín Chúa, và con bước đi trong chân lý Ngài. 4Con không kết bạn với kẻ lừa dối, cũng không đồng loã với kẻ bất lương.
5Con ghét hội của kẻ làm ác, và con không chung sống với bọn xấu xa. 6Hỡi Đức Giê-hô-va, con rửa tay trong sự vô tội, và con đi vòng quanh bàn thờ Ngài,
7để hát lớn bài ca chúc tụng và thuật lại mọi công việc kỳ diệu của Ngài.8Đức Giê-hô-va ôi, con yêu mến ngôi nhà Chúa ngự, nơi vinh quang Ngài tỏa rạng. 9Xin Chúa đừng đùa con đi chung với tội nhân, hoặc mạng sống con chung với những kẻ khát máu,
10vốn dùng tay mình thực hiện mưu kế, dùng tay phải mình nhận của hối lộ.11Về phần mình, con sẽ bước đi cách thanh liêm; xin hãy giải cứu con và thương xót con.
12Chân con đứng trên chỗ bằng phẳng; con sẽ ca ngợi Đức Giê-hô-va trong các hội. 271Đức Giê-hô-va là ánh sáng và sự cứu rỗi của con; con sẽ sợ ai? Đức Giê-hô-va là nơi nương náu của mạng sống con; con sẽ kinh hãi ai?2Khi kẻ làm ác kéo lại gần con để ăn nuốt thịt con, thì kẻ địch và kẻ thù con đều vấp ngã.
3Dầu một đạo quân đóng đối đầu với con thì lòng con vẫn sẽ không sợ gì; cho dù chiến tranh nổi lên chống lại con thì con cũng sẽ cứ vững tin. 4Con đã cầu xin Đức Giê-hô-va một điều, và sẽ tìm kiếm điều ấy, đó là được sống trong nhà của Đức Giê-hô-va trọn những ngày của đời sống con, để thấy vẻ đẹp của Đức Giê-hô-va và suy ngẫm trong đền Ngài. 5Vì trong ngày khó khăn, Ngài sẽ che chở con trong lều Ngài; Ngài sẽ giấu con trong nơi ẩn nấp của trại Ngài. Ngài sẽ đỡ con lên trên một vầng đá!
6Khi ấy, đầu con sẽ ngước cao hơn các kẻ thù vây quanh con, và con sẽ dâng của lễ vui mừng trong trại Ngài! Con sẽ hát và sáng tác ca ngợi Đức Giê-hô-va! 7Đức Giê-hô-va ôi, xin hãy nghe tiếng con khi con kêu van! Xin Chúa thương xót con và đáp lời con!
8Lòng con nói về Chúa rằng: “Hãy tìm kiếm mặt Ngài!” Hỡi Đức Giê-hô-va, con tìm kiềm mặt Chúa đây! 9Xin đừng ẩn mặt với con; xin chớ đánh con khi Ngài nổi giận!
10Cho dù cha mẹ con có từ bỏ con, thì Đức Giê-hô-va vẫn sẽ tiếp nhận con. 11Hỡi Đức Giê-hô-va, xin dạy cho con đường lối Ngài! Vì kẻ thù của con, xin dẫn con trên con đường bằng phẳng.
12Xin đừng bỏ mặc con cho ước muốn của kẻ thù, vì đã có những nhân chứng gian nổi lên chống lại con, và chúng sặc mùi hung bạo. 13Con đã ra sao rồi nếu không tin rằng sẽ thấy ơn lành của Đức Giê-hô-va nơi đất kẻ sống?
14Hãy trông đợi Đức Giê-hô-va; hãy mạnh mẽ và can đảm trong lòng! Hãy trông đợi Đức Giê-hô-va! 281Đức Giê-hô-va ôi, con kêu cầu Ngài; hỡi Vầng Đá của con, xin đừng phớt lờ con. Nếu Chúa không đáp lại con, thì con sẽ đứng vào hàng những kẻ đi xuống mồ mả.2Xin hãy nghe tiếng kêu nài của con khi con cầu cứu Ngài, khi con đưa tay lên hướng về nơi chí thánh của Ngài! 3Xin đừng kéo con đi cùng với kẻ ác, là kẻ phạm tội, kẻ miệng nói hòa hảo với người khác nhưng trong lòng toan tính điều dữ.
4Xin Chúa trả cho chúng tương xứng với việc chúng gây ra, và báo cho chúng tùy theo sự gian ác chúng; xin báo trả chúng về công việc tay chúng làm; hãy đáp lại chúng bằng điều chúng đáng nhận.
5Vì chúng không hiểu biết các đường lối của Đức Giê-hô-va và công việc của tay Ngài, nên Ngài sẽ phá đổ chúng mà chẳng bao giờ dựng lại. 6Đáng ca ngợi Đức Giê-hô-va vì Ngài đã nghe tiếng cầu khẩn của con!
7Đức Giê-hô-va là sức mạnh và thuẫn che chở con; lòng con tin cậy Ngài, và được cứu giúp! Vậy nên lòng con rất hân hoan, và con sẽ hát ca ngợi Ngài.
8Đức Giê-hô-va là sức lực của dân Ngài, Ngài là nơi trú ẩn an toàn cho người được xức dầu của Ngài. 9Xin hãy cứu dân Ngài, và ban phước cho cơ nghiệp Ngài. Xin hãy chăn dắt họ và bồng bế họ mãi mãi. 291Hỡi các con trai của Đấng mạnh mẽ, hãy xưng nhận Đức Giê-hô-va vinh hiển và quyền năng!2Hãy dâng cho Đức Giê-hô-va sự tôn kính xứng đáng cho danh Ngài; hãy thờ phượng Đức Giê-hô-va bằng trang phục phù hợp với đức thánh khiết của Ngài. 3Tiếng của Đức Giê-hô-va vang trên sông biển; Đức Chúa Trời vinh hiển nổi sấm, Đức Giê-hô-va phát sấm rền trên nhiều vùng biển.
4Tiếng của Đức Giê-hô-va thật mạnh mẽ; tiếng của Đức Giê-hô-va thật oai nghi.
5Tiếng của Đức Giê-hô-va bẻ gãy cây bá hương; Đức Giê-hô-va bẻ nát vụn cây bá hương xứ Li-ban. 6Ngài khiến xứ Li-ban nhảy như con bê, khiến Si-ri-ôn nhảy như bò tót tơ.
7Tiếng của Đức Giê-hô-va lóe ra các ngọn lửa.
8Tiếng của Đức Giê-hô-va làm rung chuyển hoang mạc; Đức Giê-hô-va làm rung chuyển hoang mạc Ca-đe. 9Tiếng của Đức Giê-hô-va khiến nai cái chuyển dạ; tiếng ấy khiến cây rừng trụi lá; nhưng trong đền Ngài, mọi người đều hô lên: “Vinh quang!”
10Đức Giê-hô-va ngự trị trên cơn lũ; Đức Giê-hô-va ngự trị đến đời đời. 11Đức Giê-hô-va ban sức mạnh cho dân Ngài; Đức Giê-hô-va ban phước bình an cho dân Ngài. 301Hỡi Đức Giê-hô-va, con sẽ tôn cao Ngài, vì Ngài đã nâng con lên và không để cho các kẻ thù nghịch con vui mừng về con.2Đức Giê-hô-va Đức Chúa Trời của con, con đã kêu cầu Ngài cứu giúp và Ngài đã chữa lành con.
3Đức Giê-hô-va ôi, Chúa đã đem linh hồn con khỏi âm phủ; Ngài đã giữ để con được sống mà khỏi xuống mồ. 4Hỡi những người trung tín của Chúa, hãy hát ca ngợi Đức Giê-hô-va! Hãy cảm tạ Ngài khi nhớ đến sự thánh khiết của Ngài.
5Vì cơn giận của Ngài chỉ trong một lúc; nhưng ơn của Ngài thì trọn cả đời. Sự than khóc đến trọ trong đêm, nhưng sáng đến thì có sự vui mừng. 6Với lòng tin chắc, tôi đã nói: “Tôi sẽ chẳng bao giờ rúng động.”
7Đức Giê-hô-va ôi, bởi ơn Ngài, Ngài đã củng cố con như hòn núi vững chắc; nhưng khi Ngài ẩn mặt đi, thì con vẫn bối rối.
8Đức Giê-hô-va ôi, con kêu cầu Ngài và tìm kiếm ơn của Chúa mình! 9Nếu con phải xuống mồ thì sự chết của con có ích gì chăng? Cát bụi sẽ ca ngợi Chúa sao? Nó sẽ rao ra sự thành tín của Ngài ư?
10Lạy Đức Giê-hô-va, xin hãy nghe và thương xót con! Đức Giê-hô-va ôi, xin Ngài cứu giúp con. 11Chúa đã biến sự khóc lóc của con thành sự nhảy múa; Ngài đã cởi bỏ áo tang con và mặc cho con sự vui mừng.
12Nên giờ đây tấm lòng vinh hạnh của con sẽ hát ca ngợi Ngài và sẽ không nín lặng; hỡi Đức Giê-hô-va là Đức Chúa Trời con, con sẽ cảm tạ Ngài đời đời! 311Đức Giê-hô-va ôi, con nương náu mình nơi Ngài; xin chớ để con bị sỉ nhục. Hãy giải cứu con bằng sự công bình của Ngài.2Xin hãy nghe con; xin mau mau giải cứu con; hãy làm vầng đá cho con nương náu, làm đồn lũy cứu mạng con. 3Vì Chúa là vầng đá và đồn lũy của con; cho nên, vì danh Ngài, xin hãy dẫn dắt con.
4Xin Chúa kéo con ra khỏi lưới mà chúng đã gài để bắt con, vì Ngài là nơi ẩn náu của con. 5Hỡi Đức Giê-hô-va Đức Chúa Trời thành tín, con giao thác tâm linh con vào tay Ngài; Ngài sẽ cứu chuộc con.
6Con ghét những kẻ phục vụ các thần tượng chẳng ra gì, nhưng con tin cậy Đức Giê-hô-va.
7Con sẽ vui mừng, hân hoan về lòng thành tín của Chúa, vì Ngài đã thấy nỗi khốn cùng của con; Ngài biết sự nguy khốn của linh hồn con. 8Ngài đã không giao con cho kẻ thù nghịch con. Ngài đã đặt chân con ở nơi rộng rãi, thoáng đãng.
9Đức Giê-hô-va ôi, xin thương xót con, vì con nguy khốn; mắt con mòn mỏi vì nỗi sầu khổ trong linh hồn và thể xác. 10Cuộc đời con rã rời vì buồn rầu, năm tháng con mỏi mệt vì thở than. Sức lực con tiêu hao vì tội lỗi mình, còn xương cốt con thì hao mòn.
11Do các kẻ thù nghịch con nên người ta khinh bỉ con; kẻ lân cận con kinh hãi trước tình trạng của con, và những ai biết con đều khiếp sợ. Những kẻ nhìn thấy con ngoài phố đều chạy tránh con. 12Con bị bỏ quên như người đã chết chẳng còn ai nghĩ đến. Con chẳng khác gì một chiếc bình vỡ.
13Vì con đã nghe tiếng xầm xì của nhiều người, hung tin từ mọi phía, khi chúng cùng lập mưu hại con. Chúng toan cất lấy mạng sống con. 14Nhưng, Đức Giê-hô-va ôi, con tin cậy Ngài; con nói: “Ngài là Đức Chúa Trời của con.”
15Số phận con ở trong tay Ngài. Xin giải cứu con khỏi tay các kẻ thù nghịch con và khỏi những kẻ săn đuổi con.
16Xin Chúa khiến mặt Ngài soi sáng trên tôi tớ Ngài; xin hãy cứu con bởi lòng thành tín của Chúa. 17Đức Giê-hô-va ôi, xin đừng để con phải chịu nhục; vì con kêu cầu cùng Chúa! Nguyện kẻ ác bị sỉ nhục! Cầu cho chúng phải nín lặng dưới âm phủ.
18Nguyện lưỡi dối trá nói hành người công chính với thái độ thách thức, kiêu căng, khinh miệt, phải câm nín lại. 19Lớn lao thay sự nhân từ mà Chúa đã để dành cho người tôn kính Ngài và thể hiện cho kẻ nương náu nơi Ngài trước mặt toàn thể loài người,
20Chúa giấu họ trong nơi nương náu trước mặt Chúa, khuất khỏi các mưu chước của loài người. Ngài giấu họ trong nơi trú ẩn cách xa miệng lưỡi hung bạo.21Đáng ca ngợi Đức Giê-hô-va, vì Ngài đã tỏ cho con sự thành tín diệu kỳ khi con ở trong một thành bị vây hãm.
22Dầu con có vội vã nói: “Con đã bị tách khỏi tầm nhìn của Chúa,” nhưng Ngài vẫn nghe lời cầu cứu của con khi con kêu xin Ngài. 23Đức Giê-hô-va ôi, xin hãy yêu mến mọi kẻ trung thành theo Ngài. Đức Giê-hô-va bảo vệ người trung tín, nhưng Ngài báo trả đích đáng kẻ kiêu ngạo.
24Hỡi những ai nhờ cậy Đức Giê-hô-va cứu giúp mình, hãy mạnh mẽ và tin chắc. 321Phước cho người được tha sự vi phạm mình, được khỏa lấp tội lỗi mình.2Phước cho người không bị Đức Giê-hô-va kể là có tội và trong tâm linh không có sự dối trá. 3Khi con cứ nín lặng, thì xương cốt con bị hao mòn và con rên rỉ suốt cả ngày.
4Vì ngày đêm tay Chúa đè nặng trên con. Sức lực con héo hon như giữa cơn hạn mùa hè. Sê-la 5Rồi con nhận tội với Chúa, và con không che giấu tội mình nữa. Con nói: “Mình sẽ thú nhận các vi phạm với Đức Giê-hô-va,” và Ngài đã tha thứ tội lỗi con. Sê-la6Vì vậy, mọi người kính sợ Chúa phải cầu nguyện với Chúa trong lúc gian truân. Rồi khi nước lũ dâng tràn, nó sẽ không đụng đến những người ấy.7Chúa là nơi ẩn náu của con; Ngài sẽ bảo vệ con khỏi hoạn nạn. Ngài sẽ bao phủ con bằng những bài ca khải hoàn. Sê-la
8Ta sẽ chỉ dẫn con và dạy cho con biết con đường phải đi. Mắt ta sẽ chăm chú vào con mà chỉ dạy con.9Đừng như con ngựa hay con la, là loài vô tri; phải có dây cương và hàm thiếc mới điều khiển được chúng và khiến chúng đi đến nơi con muốn.
10Kẻ ác có nhiều nỗi buồn rầu, nhưng sự thành tín của Đức Giê-hô-va sẽ bao quanh người tin cậy Ngài. 11Hỡi người công chính, hãy vui sướng nơi Đức Giê-hô-va, và mừng lên; hỡi người có lòng ngay thẳng, hãy reo vui. 331Hỡi người công chính, hãy vui mừng nơi Đức Giê-hô-va; ca ngợi Chúa là việc làm thích đáng của người ngay thẳng.2Hãy dùng đàn hạc mà tạ ơn Đức Giê-hô-va; hãy dùng đàn thập huyền hát ca ngợi Ngài.
3Hãy hát cho Ngài một bài ca mới; hãy gãy cho thật hay và hát xướng cách vui mừng. 4Vì lời Đức Giê-hô-va là ngay thẳng, mọi việc Ngài làm đều công bình.
5Chúa yêu thích sự công chính và lẽ phải. Trái đất đầy dẫy sự thành tín của Ngài.
6Bởi lời của Đức Giê-hô-va mà các tầng trời được tạo thành, còn mọi vì sao đều nhờ hơi thở của miệng Ngài mà có. 7Chúa gom nước biển lại như đống; Ngài trữ các đại dương vào trong kho.
8Toàn cõi đất hãy kính sợ Đức Giê-hô-va; mọi cư dân trên thế gian phải tôn kính Ngài.
9Vì Ngài phán thì việc được thực hiện; Ngài ra lệnh thì vật đứng vững. 10Đức Giê-hô-va đảo lộn liên minh giữa các nước; Ngài gạt bỏ chương trình của các dân.
11Chương trình của Đức Giê-hô-va, tức ý định của lòng Ngài dành cho mọi thế hệ, đứng vững đến đời đời,
12Phước cho dân tộc nào có Đức Giê-hô-va làm Đức Chúa Trời mình, tức dân Ngài đã chọn làm cơ nghiệp của riêng mình.13Đức Giê-hô-va từ trời nhìn xuống; Ngài thấy hết mọi người.
14Từ nơi ngự của Ngài, Chúa nhìn xuống mọi người sống trên đất.
15Đấng uốn nắn lòng dạ mọi người nhìn thấy mọi việc họ làm. 16Chẳng có vua nào nhờ binh đông mà được cứu; người dũng sĩ cũng không được cứu nhờ mạnh sức.
17Nhờ ngựa để được thắng là ảo tưởng; cho dù mạnh mẽ, nhưng nó chẳng cứu được ai. 18Kìa, mắt Đức Giê-hô-va nhìn xem kẻ kính sợ Ngài, tức người biết cậy sự thành tín của Chúa
19cứu mạng mình khỏi chết và giữ cho mình được sống trong lúc đói kém.20Chúng tôi trông đợi Đức Giê-hô-va; Ngài là nguồn cứu giúp và thuẫn bảo vệ chúng tôi.
21Lòng chúng tôi vui mừng nơi Ngài, vì chúng tôi tin cậy danh thánh Ngài. 22Hỡi Đức Giê-hô-va, nguyện sự thành tín Ngài ở với chúng con khi chúng con đặt hy vọng nơi Ngài. 341Tôi sẽ ca ngợi Đức Giê-hô-va không thôi; miệng tôi sẽ luôn ca ngợi Ngài.2Tôi sẽ ca ngợi Đức Giê-hô-va; nguyện những kẻ khốn cùng nghe và mừng rỡ.
3Hãy cùng tôi ca ngợi Đức Giê-hô-va; chúng ta hãy cùng tôn cao danh Ngài. 4Tôi tìm cầu Đức Giê-hô-va, và Ngài đáp lời tôi; Ngài cho tôi thắng hơn mọi nỗi sợ hãi.
5Những ai trông đợi Chúa đều rạng rỡ, và họ không bị hổ mặt.
6Kẻ khốn cùng này có kêu cầu, và Đức Giê-hô-va đã nghe nó, cứu nó khỏi mọi nỗi gian truân. 7Thiên sứ của Đức Giê-hô-va đóng trại chung quanh kẻ kính sợ Ngài, và Ngài giải cứu họ.
8Hãy nếm và thấy được Đức Giê-hô-va là tốt lành; phước cho người nương náu nơi Ngài.
9Hãy kính sợ Đức Giê-hô-va, hỡi các người là thánh dân; người kính sợ Ngài chẳng thiếu gì cả. 10Sư tử tơ có lúc thiếu ăn phải chịu đói; nhưng ai tìm kiếm Đức Giê-hô-va sẽ chẳng thiếu điều gì tốt đẹp.
11Hỡi các con, hãy đến nghe ta; ta sẽ dạy các con biết kính sợ Đức Giê-hô-va. 12Người nào khao khát sống và muốn trường thọ hưởng phước trong đời?
13Thì hãy kiêng nói lời dữ, và giữ môi miệng khỏi nói lời dối.
14Hãy từ bỏ điều tà ác và làm điều thiện lành; hãy tìm kiếm và đề cao sự thuận hòa. 15Mắt của Đức Giê-hô-va nhìn xem người công chính, và tai Ngài để ý nghe tiếng kêu van của họ.
16Đức Giê-hô-va chống lại kẻ làm ác để xóa sạch ký ức về chúng khỏi đất.
17Người công bình kêu cầu, Đức Giê-hô-va nghe và giải cứu họ khỏi mọi nỗi gian truân. 18Đức Giê-hô-va ở gần kẻ có lòng tan vỡ, và Ngài cứu kẻ có tâm linh bị vùi dập.
19Các nan đề của người công chính nhiều thật, nhưng Đức Giê-hô-va cho người thắng hơn tất cả.
20Ngài bảo vệ mọi xương cốt người; sẽ chẳng cái nào bị gãy. 21Điều ác sẽ giết chết kẻ ác; ai ghét người công chính sẽ bị định tội.
22Giê-hô-va cứu chuộc linh hồn các đầy tớ Ngài; sẽ chẳng có người nào nương náu nơi Ngài bị lên án. 351Hỡi Đức Giê-hô-va, xin hãy chống lại kẻ chống lại con; hãy chiến cự cùng kẻ chiến cự với con.2Xin Chúa cầm lấy thuẫn và khiên; xin Ngài chỗi dậy cứu giúp con.
3Xin hãy dùng giáo và rìu chiến mà địch lại kẻ săn đuổi con; xin hãy nói với linh hồn con: “Ta là sự cứu rỗi con.” 4Nguyện kẻ tìm giết mạng sống con phải xấu hổ và sỉ nhục. Nguyện kẻ định ý hại con phải trở lui và bối rối.
5Nguyện chúng giống như vỏ trấu trước gió, khi thiên sứ của Đức Giê-hô-va xua chúng đi.
6Nguyện con đường chúng nó thành ra tối tăm, trơn trượt, khi thiên sứ của Đức Chúa Trời săn đuổi chúng. 7Chúng giăng bẫy lưới bắt con vô cớ; chẳng hiểu vì sao chúng lại đào hầm hại con.
8Hãy cho sự hủy diệt bất ngờ ập lên chúng. Hãy khiến chúng mắc vào lưới mà mình đã giăng. Hãy để chúng té vào đó và bị tiêu diệt. 9Nhưng con sẽ vui mừng nơi Đức Giê-hô-va và hớn hở về sự cứu rỗi Ngài.
10Con sẽ thưa, với cả sức lực mình, rằng: “Hỡi Đức Giê-hô-va, có ai giống như Ngài? Có ai giải cứu người khốn cùng khỏi kẻ mạnh thế, giải cứu người nghèo thiếu khỏi kẻ cướp bóc họ?” 11Bọn chứng nhân bất chính nổi lên; chúng cáo gian con.
12Chúng lấy oán trả ơn cho con. Con thật buồn bã. 13Nhưng khi chúng đau yếu thì con đã mặc bao gai; con gục mặt kiêng ăn vì chúng.
14Con đi lại sầu thảm như thể khóc than cho anh em mình; con cúi người cư tang như kẻ khóc mẹ. 15Đến khi con vấp ngã thì chúng vui mừng và quy tụ lại; chúng nhóm hội chống lại con, khiến con sửng sốt. Chúng cấu xé con không ngừng nghỉ.
16Chúng nhạo cười con không chút nể nang; chúng nghiến răng hăm dọa con. 17Ôi Chúa, Ngài sẽ còn bàng quan đến bao giờ? Xin giải cứu linh hồn con khỏi những công kích tàn hại của chúng nó, xin giải cứu mạng sống con khỏi bầy sư tử.
18Rồi con sẽ cảm tạ Ngài trong hội lớn; con sẽ ca ngợi Ngài giữa nhiều người. 19Chớ để những kẻ thù của con vui mừng vì cớ con; chớ để chúng thực hiện các mưu chước ác độc của mình.
20Vì chúng không nói hòa bình, mà lại đặt điều công kích người trong xứ chúng con đang sống thuận hòa. 21Miệng lớn láo chống lại con; chúng bảo: “Ha, ha, mắt bọn tao đã thấy rồi.”
22Đức Giê-hô-va ôi, Ngài đã thấy việc ấy, xin Ngài đừng lặng thinh; hỡi Chúa, xin đừng ở cách xa con.
23Xin hãy tỉnh giấc và thức dậy mà bênh vực con; Đức Chúa Trời của con, Chúa của con ôi, xin Ngài bênh vực chính nghĩa của con. 24Hỡi Đức Giê-hô-va Đức Chúa Trời của con, xin minh oan cho con vì sự công bình của Ngài; chớ để chúng vui mừng về con.
25Xin đừng để chúng nhủ thầm: “A ha, mình đã đạt được điều mình muốn.” Chớ để chúng nói: “Bọn mình đã nuốt chửng nó.”
26Xin khiến chúng phải xấu hổ, và đánh bại kẻ muốn hãm hại con. Nguyện kẻ chế nhạo con phải xấu hổ và sỉ nhục. 27Những ai muốn con được minh oan, nguyện họ reo lên vui mừng và sung sướng; nguyện họ cứ mãi nói: “Đáng ngợi khen Đức Giê-hô-va, Đấng lấy làm vui ban phước cho tôi tớ Ngài.”
28Rồi suốt ngày con sẽ thuật lại sự công bình Chúa và ca ngợi Ngài. 361Tội lỗi lên tiếng như kẻ thẩm quyền trong lòng kẻ ác; chẳng có sự kính sợ Đức Chúa Trời trong mắt hắn.2Vì hắn tự yên ủi rằng tội hắn sẽ chẳng bại lộ và chẳng bị ai ghét. 3Lời của hắn đều nhuốm tội và lọc lừa; hắn chẳng muốn khôn ngoan, lương thiện.
4Lúc nằm trên giường hắn toan tính cách phạm tội; hắn khởi đi trên con đường tà ác; hắn chẳng khước từ điều dữ. 5Đức Giê-hô-va ôi, đức thành tín Ngài lên đến các tầng trời; lòng trung nghĩa Ngài vươn cao đến tận mây.
6Sự công chính Ngài như ngọn núi chót vót; sự công bình Ngài như biển thẳm sâu. 7Hỡi Đức Chúa Trời, lòng thành tín Chúa quý báu thay! Loài người nương náu dưới bóng cánh Ngài!
8Họ sẽ được no đầy nhờ lương thực dư dật trong nhà Chúa; Chúa sẽ cho họ uống nước sông phước lạc quý báu của Ngài.
9Vì nguồn sự sống ở nơi Chúa; trong sự sáng Ngài chúng tôi thấy ánh sáng. 10Xin Chúa cứ tỏ lòng thành tín trọn vẹn cho kẻ biết Ngài, và bênh vực kẻ có lòng ngay thẳng.
11Xin đừng để bàn chân của kẻ kiêu ngạo lại gần con. Chớ để bàn tay kẻ ác xua đuổi con.
12Ở đó, kẻ làm ác sa ngã; chúng bị hạ gục và không đứng dậy được. 371Đừng bực dọc vì kẻ làm ác; đừng ganh tị với kẻ hành động bất chính.2Vì họ sẽ sớm khô đi như cỏ và tàn héo như rau cỏ xanh. 3Hãy tin cậy Đức Giê-hô-va và làm điều phải; hãy an cư trong xứ và sống trung tín.
4Hãy vui thích nơi Đức Giê-hô-va, rồi Ngài sẽ ban cho con các ước muốn của lòng mình. 5Hãy trao thác các đường lối mình cho Đức Giê-hô-va; hãy tin cậy Ngài, rồi Ngài sẽ thay mặt con mà hành động.
6Ngài sẽ khiến công lý của con tỏ lộ như ánh sáng ban ngày và sự vô tội của con sẽ như trời lúc giữa trưa. 7Hãy ở yên trước mặt Đức Giê-hô-va và kiên nhẫn trông đợi Ngài. Chớ lo lắng nếu có người thành công trong các lối ác của họ, hoặc ai đó thực hiện trót lọt các mưu chước mình. 8Đừng nổi giận và thất vọng. Chớ lo lắng; làm vậy chỉ tạo rắc rối.
9Kẻ làm ác sẽ bị diệt vong, còn người trông đợi Đức Giê-hô-va sẽ thừa hưởng xứ.
10Ít lâu nữa, kẻ ác sẽ biến mất; con sẽ nhìn vào chỗ hắn, và hắn không còn nữa. 11Nhưng người công chính sẽ thừa hưởng xứ và sẽ vui sướng vì được phát đạt, thịnh vượng.
12Kẻ ác lập mưu hại người công chính, nghiến răng hăm dọa người.
13Chúa cười nhạo hắn, vì Ngài thấy ngày hắn sắp đến. 14Kẻ ác rút gươm và giương cung mình để hạ người cùng khốn và người thiếu thốn, để sát hại người ngay thẳng.
15Gươm chúng sẽ trở đâm vào tim chúng, còn cung chúng sẽ bị gãy. 16Người công chính tuy có ít nhưng vẫn hơn sự dư giả của nhiều kẻ ác.
17Vì cánh tay của kẻ ác sẽ bị gãy, nhưng Đức Giê-hô-va nâng đỡ người công chính. 18Đức Giê-hô-va hằng bảo vệ người thiện hảo, và di sản họ sẽ còn mãi mãi.
19Họ sẽ không hổ thẹn trong thời khó khăn. Khi đói kém xảy đến, họ sẽ vẫn no đủ. 20Nhưng kẻ ác sẽ diệt vong. Kẻ thù của Đức Giê-hô-va chẳng khác nào vinh quang của cây cỏ; chúng sẽ bị thiêu hủy và tan theo làn khói.
21Kẻ ác mượn mà không trả lại, còn người công chính rộng rãi ban tặng. 22Người được Đức Giê-hô-va ban phước sẽ thừa hưởng đất; kẻ bị Ngài rủa sả sẽ bị diệt mất.
23Chính nhờ Đức Giê-hô-va mà các bước của người có đường lối đẹp ý Ngài được vững chắc.
24Dầu có sẩy chân thì người cũng không té ngã, vì Đức Giê-hô-va đỡ nâng người trong tay Ngài. 25Trước tôi trẻ và nay đã già; tôi chưa từng thấy người công chính bị ruồng bỏ hay con cháu người phải ăn xin.
26Suốt ngày người rộng rãi cho vay mượn, còn con cháu người trở nên nguồn phước.
27Hãy bỏ điều tà ác và làm điều phải; rồi con sẽ được an ninh mãi mãi. 28Vì Đức Giê-hô-va ưa thích công lý và không ruồng bỏ người trung tín theo Ngài. Họ được gìn giữ đến đời đời, nhưng con cháu kẻ ác sẽ bị diệt vong.
29Người công chính sẽ thừa hưởng xứ và sống tại đó mãi mãi.
30Miệng của người công chính nói lời khôn ngoan và củng cố công lý. 31Luật pháp của Đức Chúa Trời người ở trong lòng người; chân người sẽ không trượt ngã.
32Kẻ ác theo dõi người công chính và tìm cách hãm hại người.
33Đức Giê-hô-va sẽ không bỏ mặc người vào tay kẻ ác hay kết án người khi người chịu xét xử. 34Hãy trông đợi Đức Giê-hô-va và giữ theo đường lối Ngài, rồi Ngài sẽ cất con lên thừa hưởng xứ. Con sẽ nhìn và thấy kẻ ác bị diệt vong. 35Ta đã nhìn thấy kẻ hung ác vươn lên như một cây xanh tốt mọc trên đất bản địa.
36Nhưng khi ta lại đi qua đó thì hắn không còn. Ta thử tìm hắn nhưng không gặp. 37Hãy quan sát người chính trực, và nhìn xem người ngay thẳng; có tương lai tốt đẹp dành cho người sống hòa thuận.
38Kẻ có tội sẽ bị tận diệt; tương lai của kẻ ác sẽ tiêu vong. 39Sự cứu rỗi người công chính đến từ Đức Giê-hô-va; Ngài bảo vệ họ khi có biến.
40Đức Giê-hô-va giúp đỡ họ và giải cứu họ. Ngài giải thoát họ khỏi kẻ ác và cứu họ vì họ nương náu nơi Ngài. 381Đức Giê-hô-va ôi, xin đừng quở trách con đang cơn thạnh nộ Ngài; chớ hình phạt con khi Ngài nổi giận.2Vì các mũi tên Ngài xuyên thủng con, và tay Ngài đè ép lên con. 3Toàn thân con đau yếu vì cơn thạnh nộ của Ngài; các xương cốt con không còn khỏe mạnh vì tội lỗi mình.
4Vì các tội lỗi con phủ lấp con; chúng nặng quá sức con chịu đựng. 5Các vết thương của con bị tấy độc và bốc mùi vì những tội lỗi xuẩn ngốc của con.
6Hằng ngày con phải cúi mình chịu nhục; suốt cả ngày con đi lại than khóc. 7Vì con quá đỗi xấu hổ, và toàn thân con ngã bệnh.
8Con bị tê dại và nghiền nát; con thở than vì nỗi đau trong lòng. 9Chúa ôi, Ngài thấu hiểu những khát vọng sâu kín của lòng con; lời than thở con không giấu được Chúa.
10Tim con đập mạnh, sức con suy tàn, mắt con mờ yếu. 11Người thân và bầu bạn đều lánh mặt con vì tình trạng của con; kẻ lân cận thì đứng cách xa.
12Những kẻ tìm kế hãm hại con suốt ngày nói lời tàn độc và buông lời dối trá. 13Nhưng con, con chẳng khác gì người điếc chẳng nghe thấy gì; con như người câm chẳng nói năng chi.
14Con giống như người không nghe biết, cũng chẳng đáp lại. 15Hẳn là con trông đợi Ngài, hỡi Đức Giê-hô-va; vì Ngài sẽ đáp lời con, hỡi Chúa là Đức Chúa Trời con.
16Con nói vậy để kẻ thù con không hả hê về con. Nếu con trượt té thì chúng sẽ tàn hại con. 17Vì con sắp bị sẩy chân, và đau đớn luôn.
18Con xưng nhận tội con; con lưu tâm về tội lỗi mình. 19Nhưng kẻ thù của con thật đông; người ghét con vô cớ thật là nhiều.
20Chúng lấy oán báo ơn cho con; chúng cáo tội con dầu con theo đuổi điều thiện lành. 21Đức Giê-hô-va ôi, xin chớ ruồng bỏ con; Đức Chúa Trời của con ôi, xin đừng đứng cách xa con.
22Hỡi Chúa là sự cứu rỗi của con, xin hãy đến ngay mà cứu giúp con. 391Con đã quyết: “Mình sẽ cẩn trọng trong lời nói để lưỡi khỏi phạm tội. Mình sẽ khớp miệng lại khi ở trước mặt kẻ tà ác.”2Con nín lặng; con kiêng cữ nói năng, cho dù nói lời lành, nhưng con càng đau đớn thêm.
3Tâm con nóng bỏng; khi con nghĩ đến những điều ấy, nó giống như lửa cháy trong con. Vậy là con phải thưa: 4“Ôi Đức Giê-hô-va, xin cho con biết cuộc đời mình là bao lâu và các ngày của con dài đến đâu. Xin tỏ cho con thấy mình mong manh thế nào.5Kìa, Chúa đã khiến các ngày con chỉ như gang tấc, và cuộc đời con chẳng là gì trước mặt Chúa. Rõ ràng, mọi người chỉ như hơi thở. Sê-la 6Rõ ràng, mọi người đi lại như cái bóng. Ai nấy đều chạy đôn chạy đáo lo tích lũy của cải dầu chẳng biết ai sẽ hưởng được.7Giờ thì, Chúa ôi, con trông đợi gì đây? Ngài là hy vọng duy nhất của con. 8Xin giúp con thắng hơn mọi tội mình; xin đừng khiến con bị hổ thẹn cùng kẻ ngu dại.
9Con nín thinh, không mở miệng, vì điều Chúa đã làm. 10Xin hãy thôi khiến con thương tích; con bị choáng ngợp vì tay Ngài giáng mạnh.
11Khi Chúa sửa phạt người ta vì phạm tội, thì Ngài làm tiêu hao sức lực họ dần dần như con nhậy; rõ ràng mọi người chỉ là hơi nước. Sê-la 12Hỡi Đức Giê-hô-va, xin hãy lắng nghe con; xin hãy nghe tiếng khóc than của con! Xin đừng bịt tai với con, vì con như khách lạ đối với Chúa, một kẻ ở nhờ như tất cả các tổ phụ con.13Xin hãy thôi trừng mắt nhìn con, để con lại được tươi cười trước khi con chết.” 401Con kiên nhẫn trông đợi Đức Giê-hô-va; Ngài lắng tai nghe tiếng kêu cầu của con.2Ngài cũng đem con khỏi cái hầm đáng kinh, khỏi chốn sình lầy; Ngài đặt chân con trên vầng đá và làm vững vàng bước con đi. 3Ngài để nơi miệng con một bài hát mới, ca ngợi Đức Chúa Trời chúng con. Nhiều người sẽ thấy và tôn kính Ngài, để lòng tin cậy Đức Giê-hô-va.
4Phước cho người nào lấy Đức Giê-hô-va làm Đấng mình tin cậy và không ngưỡng mộ kẻ kiêu ngạo hoặc kẻ xây bỏ Ngài để theo sự dối trá. 5Hỡi Đức Giê-hô-va là Đức Chúa Trời con, các việc kỳ diệu mà Ngài đã làm thật nhiều lắm, và các ý tưởng Ngài nghĩ về chúng con thì không đếm được; nếu con muốn đếm và nói đến chúng thì chúng nhiều quá, không kể hết.
6Chúa không vui về sinh tế hay của lễ, nhưng Ngài đã mở tai con; Ngài không đòi của lễ thiêu hay lễ chuộc tội. 7Vậy là con nói: “Này, con đến đây; trong cuốn sách có chép về con.
8Hỡi Đức Chúa Trời con, con vui thích làm theo ý Chúa; luật lệ Ngài ở trong lòng con.”
9Con đã công bố tin mừng về sự công bình của Ngài giữa hội lớn; ôi Đức Giê-hô-va, Ngài biết môi miệng con chẳng từ chối làm việc này. 10Con không giấu sự thành tín Ngài và sự chân thật Ngài trước hội lớn.
11Đức Giê-hô-va ôi, xin đừng rút lại lòng thương xót đối với con; xin cứ để lòng thành tín và sự chân thật của Ngài gìn giữ con. 12Vô số nan đề bủa vây con; tội lỗi con đã theo kịp con, khiến con chẳng còn thấy gì nữa; chúng nhiều hơn cả tóc trên đầu con, khiến tinh thần con suy sụp.
13Đức Giê-hô-va ôi, xin Ngài làm ơn giải cứu con; Đức Giê-hô-va ôi, xin hãy mau giúp đỡ con. 14Xin khiến những kẻ săn đuổi để cướp đoạt mạng sống con phải xấu hổ và thất vọng ê chề. Những kẻ ưa thích làm thương tổn con, nguyện chúng phải quay trở lui và bị sỉ nhục
15Những kẻ nói với con: “A ha, a ha,” nguyện chúng phải sửng sốt vì mắc cỡ.16Còn những người tìm kiếm Ngài, nguyện họ vui mừng, sung sướng nơi Ngài; nguyện mọi người yêu mến sự cứu rỗi của Ngài cứ luôn nói: “Đáng chúc tán Đức Giê-hô-va.”
17Con nghèo khổ, thiếu thốn; nhưng Chúa quan tâm đến con. Ngài là Đấng giúp đỡ con và Ngài đến giải cứu con; xin đừng chậm trễ, Đức Chúa Trời của con ôi. 411Phước cho người quan tâm đến kẻ yếu thế; trong ngày hoạn nạn, Đức Giê-hô-va sẽ giải cứu người.2Giê hô-va sẽ bảo toàn sinh mạng người và giữ cho người được sống, và người sẽ được phước trên đất; Đức Giê-hô-va sẽ không phó người cho ý muốn của kẻ cừu địch người.
3Đức Giê-hô-va sẽ nâng đỡ người trên giường đau đớn; Chúa sẽ biến giường bệnh người thành giường chữa lành. 4Con thưa: “Đức Giê-hô-va ôi, xin thương xót con! Xin chữa lành con vì con đã phạm tội với Ngài.”
5Các kẻ thù nghịch trù ẻo con, rằng: “Chừng nào nó mới chết và tên tuổi nó bị xóa sạch?”
6Nếu kẻ thù con đến gặp con, hắn nói những lời chẳng ra gì; lòng hắn chất chứa cho mình tai nạn giống như con; khi hắn ra về, hắn thuật lại cho người khác. 7Tất cả những ai ghét con đều xầm xì nói xấu con; nói hành con, chúng hy vọng làm tổn thương con.
8Chúng bảo: “Nó mắc phải căn bệnh quái ác; ngã xuống như vậy nó sẽ chẳng trở dậy được đâu.”
9Thậm chí người bạn thân của con mà con tin cậy, người ăn bánh của con, đã trở gót đạp con. 10Nhưng, Đức Giê-hô-va ôi, Chúa thương xót con và đỡ con dậy để con báo trả chúng nó.
11Vì kẻ thù nghịch không thắng hơn con, nhờ đó con biết rằng Chúa vui thích về con.
12Về phần con, bởi con chánh trực nên Chúa nâng đỡ con và sẽ gìn giữ con trước mặt Ngài mãi mãi. 13Nguyện Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên được ca ngợi đời đời, mãi mãi. A-men, A-men. 421Đức Chúa Trời ôi, con nai thèm khát suối nước thể nào thì con cũng khao khát Ngài thể ấy.2Con khao khát Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Trời hằng sống; khi nào con mới được đến ra mắt Đức Chúa Trời? 3Ngày và đêm, nước mắt trở thành đồ ăn của con, trong khi kẻ cừu địch con cứ hỏi con: “Đức Chúa Trời mày đâu?”
4Khi dốc đổ nỗi lòng mình, con hồi tưởng lại thể nào con đã từng đi cùng đoàn người dự lễ và dẫn họ đến nhà Đức Chúa Trời trong tiếng reo vui, chúc tụng. 5Này linh hồn ta, sao ngươi lại chán nản và bồn chồn trong ta? Hãy hy vọng nơi Đức Chúa Trời, vì ta sẽ còn ca ngợi Ngài về ơn cứu giúp bởi sự hiện diện của Ngài.
6Đức Chúa Trời của con ôi, linh hồn con sờn ngã trong con; vì vậy, từ vùng đất Giô-đanh, từ ba đỉnh núi Hẹt-môn, từ ngọn đồi Mít-sê-a, con nhớ đến Chúa. 7Vực gọi vực theo tiếng của thác nước Chúa; mọi sóng gió ba đào của Ngài đã phủ lút con.
8Nhưng ban ngày Đức Giê-hô-va sẽ ban truyền sự thành tín Ngài; còn ban đêm bài hát của Ngài sẽ ở với con, tức lời cầu nguyện với Đức Chúa Trời của sự sống con. 9Con sẽ thưa với Đức Chúa Trời, là vầng đá của con, rằng: “Vì sao Ngài quên con? Vì sao con phải than khóc vì bị kẻ thù áp bức?”
10Trong khi các cừu địch con luôn hỏi: “Đức Chúa Trời mày đâu?” thì chúng quở mắng con như thể gươm đâm xoi xương cốt con. 11Hỡi linh hồn ta, sao ngươi chán nản? Sao ngươi lại bồn chồn trong ta? Hãy hy vọng nơi Đức Chúa Trời, vì ta sẽ còn chúc tụng Ngài, là Đấng cứu giúp ta và Đức Chúa Trời ta. 431Đức Chúa Trời ôi, xin hãy phân xử cho con và bênh vực chính nghĩa của con trước một dân vô đạo.2Vì Chúa là Đức Chúa Trời của sức mạnh con; vì sao Ngài lại từ bỏ con? Sao con phải than khóc vì bị kẻ thù mình áp bức? 3Xin Chúa tỏa rạng ánh sáng cùng chân lý Ngài; nguyện chúng dẫn dắt con; nguyện chúng đưa con đến núi thánh và đến đền Ngài.
4Rồi con sẽ đến bàn thờ của Đức Chúa Trời, đến cùng Đức Chúa Trời là niềm vui vô biên của con; hỡi Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời của con, con sẽ dùng đàn hạc mà ca ngợi Ngài. 5Hỡi linh hồn ta, vì sao ngươi chán nản? Vì sao ngươi bồn chồn trong ta? Hãy hy vọng nơi Đức Chúa Trời, vì ta sẽ còn chúc tụng Ngài, Đấng cứu giúp ta và Đức Chúa Trời ta. 441Đức Chúa Trời ôi, tai chúng con có nghe cha ông mình kể lại việc Ngài đã làm trong thời của họ, vào những ngày xa xưa.2Chúa đã dùng chính tay Ngài đuổi các dân đi, nhưng Ngài lại trồng dân tộc của chúng con; Ngài đã hành hại các dân, nhưng lại khiến dân tộc chúng con tràn ra trong xứ. 3Vì họ được sở hữu xứ không nhờ thanh gươm mình, cũng chẳng được cứu nhờ cánh tay mình; nhưng nhờ chính tay phải của Chúa, nhờ cánh tay Ngài, và nhờ ánh sáng mặt Ngài, vì Ngài ưu ái họ.
4Đức Chúa Trời ôi, Ngài là Vua của con; xin hãy ban chiến thắng cho Gia-cốp. 5Nhờ Ngài chúng con sẽ đè bẹp kẻ thù mình; nhờ danh Ngài, chúng con sẽ giày đạp những kẻ nổi lên nghịch lại chúng con.
6Vì con sẽ không cậy cung mình, cũng chẳng cậy gươm để được cứu. 7Nhưng Chúa đã cứu chúng con khỏi kẻ thù mình, và khiến những kẻ ghét chúng con phải hổ thẹn.
8Chúng con đã từng hãnh diện về Đức Chúa Trời, và chúng con sẽ cảm tạ danh Chúa đến đời đời. Sê-la 9Nhưng giờ đây Chúa đã bỏ chúng con, khiến chúng con bị sỉ nhục, và Ngài không còn ra trận với quân đội chúng con.10Chúa khiến chúng con phải tháo lui trước quân thù, và những kẻ ghét chúng con đoạt lấy chiến lợi phẩm cho mình.
11Chúa khiến chúng con giống như chiên bị định để giết thịt và đã rải chúng con ra giữa các dân. 12Chúa bán rẻ đi dân Ngài; làm vậy Ngài chẳng lợi lộc gì.
13Ngài khiến chúng con bị hàng xóm, láng giềng mắng mỏ, bị những người chung quanh phỉ báng, cười chê.
14Ngài làm cho chúng con thành ra cớ miệt thị giữa các nước, các dân nhìn chúng tôi đều lắc đầu. 15Cả ngày con phải đối diện với sỉ nhục, và sự hổ mặt đã bao phủ con
16vì phải nghe tiếng của kẻ mắng mỏ, miệt thị, vì cớ kẻ cừu địch và kẻ báo thù.17Mọi điều này đã xảy đến cho chúng con; nhưng chúng con không quên Chúa hay làm điều sai quấy với giao ước Ngài. 18Lòng chúng con không lui đi; các bước chúng con không xa lìa đường lối Chúa.
19Thế nhưng Chúa lại khiến chúng con tan tác trong chỗ chó rừng và bao phủ chúng con bằng bóng sự chết.
20Nếu chúng con quên danh của Đức Chúa Trời chúng con, hay giang tay hướng về một thần xa lạ,
21thì Đức Chúa Trời không truy xét sao? Vì Ngài biết các bí mật của lòng.22Quả là vì Chúa mà chúng con bị giết chết cả ngày; chúng con bị xem là chiên để giết thịt. 23Chúa ôi, sao Ngài ngủ? Hãy chỗi dậy, đừng từ bỏ chúng con mãi mãi.
24Vì sao Ngài lại giấu mặt và quên đi sự khốn khổ, áp bức mà chúng con phải chịu? 25Vì chúng con đã tan ra thành tro bụi, thân thể chúng con dính chặt vào đất
26Xin hãy chỗi dậy giúp đỡ chúng con và vì lòng thành tín Ngài mà cứu chuộc chúng con. 451Lòng tôi cảm hứng về một chủ đề hay; tôi sẽ xướng lên những lời mình viết về vua; lưỡi tôi là cây bút của văn sĩ đã sẵn sàng.2Vua đẹp hơn các con cái loài người; ân sủng tràn ra trên môi người; vậy nên chúng tôi biết rằng Đức Chúa Trời đã ban phước cho vua đời đời. 3Hỡi vua quyền thế, hãy nịt gươm vào hông, trong vinh quang và oai vệ.
4Với quyền uy, hãy vì sự chân thật, nhu mì và công chính mà xông lên cách khải hoàn; tay phải vua sẽ dạy cho vua những việc đáng sợ. 5Các mũi tên vua bén nhọn; các dân ngã rạp dưới chân vua; các mũi tên người đâm vào tim các cừu địch người.
6Lạy Đức Chúa Trời, ngôi Ngài trường tồn mãi mãi; vương quyền công bình chính là vương quyền nước Ngài.
7Vua yêu mến sự công chính và ghét sự gian ác; vậy nên, Đức Chúa Trời, tức Đức Chúa Trời của vua, đã xức cho vua dầu vui mừng nhiều hơn các đồng bạn. 8Toàn thể trang phục vua toát lên mùi trầm hương, lô hội cùng nhục quế; từ các đền ngà những nhạc khí bằng dây khiến vua vui vẻ.
9Các công chúa thuộc trong giới phụ nữ đáng tôn trọng của vua; bên tay phải người là hoàng hậu mặc triều phục bằng vàng ô-phia. 10Này, con gái, hãy suy xét và lắng tai nghe; hãy quên đi thân tộc và nhà cha con.
11Như vậy, vua sẽ mến mộ nhan sắc con; người là chúa của con; hãy tôn kính người. 12Con gái thành Ty-rơ sẽ đem tặng phẩm đến; giới giàu có trong dân gian sẽ cầu ơn con.
13Con gái vương giả trong cung thật lộng lẫy; trang phục nàng được đính kết vàng. 14Ra mắt vua, nàng mặc áo thêu thùa; các trinh nữ, là bạn tháp tùng, sẽ được diện kiến vua.
15Họ sẽ vui mừng, hoan hỉ mà vào cung. 16Nối nghiệp các tổ phụ sẽ là con cái vua, được vua phong làm vương tử trên khắp đất.
17Tôi sẽ khiến cho danh tiếng vua được nhớ đến trải suốt các thế hệ; rồi các dân sẽ cảm tạ vua đời đời, mãi mãi. 461Đức Chúa Trời là nơi nương náu và sức mạnh của chúng tôi, sẵn sàng cứu giúp lúc gian nguy.2Vì vậy, chúng tôi sẽ chẳng sợ, dù đất có biến đổi, dù đồi núi có bị rung chuyển rồi đổ xuống lòng biển,
3dù nước dưới biển có ầm ầm sôi bọt, dù các núi có lung lay khi trồi lên. Sê-la4Có một con sông mà các dòng nước nó làm vui vẻ thành của Đức Chúa Trời, là nơi thánh, chỗ ngự của Đấng Chí Cao.5Đức Chúa Trời ở giữa thành ấy; thành sẽ không bị chuyển dời; Đức Chúa Trời sẽ giúp đỡ thành, và Ngài sẽ làm vậy lúc hừng sáng. 6Các dân nổi giận, các nước bị lay động; Ngài lên tiếng phán thì đất tan chảy.
7Đức Giê-hô-va của các đạo binh ở cùng chúng tôi; Đức Chúa Trời của Gia-cốp là nơi nương náu của chúng tôi. Sê-la 8Hãy đến xem việc Đức Giê-hô-va đã làm, sự hủy diệt Ngài gây ra trên đất.9Ngài dẹp yên chiến tranh cho đến tận cuối đất; Ngài bẻ gãy cung và chặt giáo thành khúc; Ngài đốt cháy thuẫn, khiên. 10Hãy yên lặng và biết rằng Ta là Đức Chúa Trời; Ta sẽ được tôn cao giữa các dân; Ta sẽ được tôn cao trên đất.
11Đức Giê-hô-va của các đạo binh ở cùng chúng tôi; Đức Chúa Trời của Gia-cốp là nơi ẩn náu của chúng tôi. Sê-la. 471Hỡi muôn dân, hãy vỗ tay; hãy reo mừng chiến thắng cho Đức Chúa Trời.2Vì Đức Giê-hô-va chí cao thật đáng sợ; Ngài là Vua Lớn trên toàn cõi đất. 3Ngài khiến các dân quy phục chúng tôi, khiến các nước phục nơi chân chúng tôi,
4Ngài chọn cơ nghiệp cho chúng tôi, là vinh quang của Gia-cốp mà Ngài yêu mến. Sê-la5Đức Chúa Trời ngự lên trong tiếng reo vang, Đức Giê-hô-va ngự lên giữa tiếng kèn thổi.6Hãy hát ca ngợi Đức Chúa Trời, hãy ca hát chúc tụng; hãy hát ca ngợi Vua chúng tôi, hãy hát lên.
7Vì Đức Chúa Trời là Vua trên khắp cõi đất; hãy ca ngợi Ngài một cách hiểu biết. 8Đức Chúa Trời cai trị các nước; Đức Chúa Trời ngự trên ngai thánh Ngài.
9Giới quyền quý trong các dân đã nhóm lại cùng dân của Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham; vì các thuẫn che chở trái đất thuộc về Đức Chúa Trời; Ngài rất đáng được chúc tôn. 481Đức Giê-hô-va thật vĩ đại, rất đáng được tán dương.2Niềm vui của cả đất, ấy chính núi Si-ôn, đẹp đẽ, uy nghi, tọa lạc về hướng bắc, tức thành của Vua lớn.
3Đức Chúa Trời đã tỏ mình ra là nơi nương náu tại các đền của thành 4Vì, kìa, các vua đã nhóm lại; họ cùng đi qua.5Họ trông thấy, họ kinh ngạc; họ hoảng sợ, và vội vã bỏ đi.
6Tại đó họ run rẫy khiếp kinh, đau đớn như sản phụ sắp sinh con. 7Bằng ngọn gió đông, Ngài đánh vỡ các tàu Ta-rê-si.
8Điều chúng tôi đã nghe, thì chúng tôi cũng đã thấy trong thành Đức Giê-hô-va của các đạo binh, trong thành của Đức Chúa Trời chúng tôi; Đức Chúa Trời sẽ khiến thành vững lập đời đời. Sê-la 9Hỡi Đức Chúa Trời, chúng con đã hồi tưởng lại sự thành tín của Chúa tại giữa đền thờ Ngài10Đức Chúa Trời ôi, danh Chúa thể nào thì sự ca ngợi Chúa cũng thể ấy cho đến tận cùng trái đất; tay phải Ngài đầy dẫy sự công chính.11Bởi các nghị định công chính của Chúa, nguyện núi Si-ôn vui mừng, nguyện các con gái Giu-đa hoan hỉ. 12Hãy đi quanh núi Si-ôn, hãy dạo quanh thành; hãy đếm các ngọn tháp nó,
13hãy để tâm quan sát tường thành, ngắm xem các đền đài nó, rồi thuật lại cho thế hệ sẽ đến.14Vì Đức Chúa Trời này là Đức Chúa Trời của chúng tôi đời đời, mãi mãi; Ngài sẽ dẫn dắt chúng tôi cho đến khi chết. 491Hỡi muôn dân, hãy nghe lời này; hỡi hết thảy dân cư trên thế giới, hãy lắng tai nghe,2Cả giới bình dân lẫn người cao trọng, người giàu có lẫn kẻ nghèo thiếu.3Miệng tôi sẽ nói lời khôn ngoan và điều tôi suy gẫm trong lòng sẽ là sự hiểu biết.
4Tôi sẽ nghiêng tai nghe lời ẩn dụ; tôi sẽ dùng đàn hạc mở đầu chuyện ngụ ngôn mình.
5Vì sao tôi phải sợ ngày tai họa, khi tội lỗi vây bọc tôi bén gót? 6Những kẻ cậy của cải và khoe khoang về lượng tài sản mình —
7Hẳn chẳng ai chuộc được anh em mình hoặc đóng giá chuộc họ cho Đức Chúa Trời.8Vì giá chuộc mạng sống người ta đắt quá và chẳng ai trả được điều mình còn thiếu. 9Không ai có thể sống mãi để thân xác mình chẳng bị hư hoại đi.
10Vì người ta sẽ hư nát. Người khôn chết; kẻ dại và lũ lục súc đều cùng bị diệt vong, để lại tài sản cho người khác. 11Suy nghĩ trong lòng người ta là dòng dõi mình sẽ cứ tiếp diễn mãi, và nơi mình sống sẽ tồn tại đến muôn đời; họ lấy tên riêng đặt cho đất ruộng mình. 12Nhưng con người ta, dầu có tiền của, không cứ sống mãi; họ giống như loài thú phải diệt vong.
13Lối quan niệm này của họ là ngu dại; thế nhưng những người sống sau họ vẫn tán đồng kiểu nói ấy. Sê-la 14Họ bị định phải xuống âm phủ như đàn chiên; sự chết sẽ chăn dắt họ; người chính trực sẽ cầm quyền trên họ vào buổi sáng; âm phủ sẽ thiêu rụi thân xác họ và chẳng có chỗ cho họ sống.15Nhưng Đức Chúa Trời sẽ chuộc mạng sống tôi khỏi quyền lực âm phủ; Ngài sẽ tiếp rước tôi. Sê-la 16Đừng sợ hãi khi ai đó giàu lên, khi quyền lực của nhà họ gia tăng;17vì lúc chết đi, họ sẽ chẳng đem gì theo; quyền lực của họ sẽ suy giảm theo họ.18Lúc sinh thời họ chúc phước cho linh hồn mình— và người ta ca ngợi ngươi khi ngươi biết sống cho mình—
19họ sẽ đi theo thế hệ của cha ông mình và họ sẽ chẳng bao giờ thấy lại ánh sáng.20Kẻ giàu có nhưng không hiểu biết chẳng khác gì loài thú phải diệt vong. 501Đấng quyền năng, Đức Chúa Trời, tức Đức Giê-hô-va, đã lên tiếng kêu gọi cả trái đất từ phương mặt trời mọc cho đến phương mặt trời lặn.2Vẻ đẹp toàn hảo, Đức Chúa Trời đã chiếu ra từ Si-ôn. 3Đức Chúa Trời chúng tôi đến, Ngài không nín lặng; trước mặt Ngài, một ngọn lửa thiêu đốt, còn chung quanh Ngài là bão tố phong ba.
4Ngài gọi các tầng trời trên cao lẫn đất bên dưới, để Ngài xét xử dân Ngài:
5“Hãy nhóm hội lại với Ta, hỡi kẻ trung tín, những người đã dùng sinh tế lập giao ước với Ta.”6Các tầng trời sẽ công bố sự công chính Ngài, vì chính Đức Chúa Trời là Đấng xử án. Sê-la 7“Hỡi dân Ta, hãy nghe, rồi Ta sẽ nói; Ta là Đức Chúa Trời, tức Đức Chúa Trời các ngươi.8Ta sẽ không trách phạt các ngươi vì sinh tế của các ngươi; những của lễ thiêu các ngươi luôn ở trước mặt Ta. 9Ta sẽ chẳng bắt bò đực khỏi nhà các ngươi, hay dê đực khỏi chuồng trại các ngươi.
10Vì tất cả thú rừng đều thuộc về Ta, cùng với súc vật trên ngàn ngọn đồi.
11Ta biết hết chim trên núi, và thú hoang ngoài đồng là của Ta. 12Nếu Ta đói, Ta cũng không cho các ngươi biết, vì thế gian, cùng mọi vật trong đó, là của Ta.
13Ta ăn thịt bò đực, hay uống máu dê sao? 14Hãy dâng của lễ cảm tạ cho Đức Chúa Trời, và hoàn nguyện với Đấng Chí Cao.
15Trong ngày hoạn nạn hãy kêu cầu Ta; Ta sẽ giải cứu các ngươi, rồi các ngươi sẽ tôn vinh Ta.” 16Nhưng với kẻ ác, Đức Chúa Trời phán: “Sao các ngươi lại công bố các luật lệ Ta, dùng miệng mình nói về giao ước Ta,
17trong khi lại ghét sự chỉ dạy và vất bỏ lời Ta?18Khi thấy kẻ trộm, các ngươi đồng tình với nó; các ngươi đồng lõa với kẻ ngoại tình.
19Miệng các ngươi nói lời ác, lưỡi các ngươi đặt điều dối gian.
20Các ngươi ngồi đó nói xấu anh em mình; các ngươi phao vu con trai của mẹ mình. 21Các ngươi đã làm những việc ấy mà Ta vẫn lặng thinh, nên các ngươi tưởng Ta giống các ngươi. Nhưng ta sẽ quở phạt các ngươi và phô bày mọi việc các ngươi đã làm ngay trước mặt các ngươi.
22Giờ thì hãy suy xét điều này, hỡi kẻ quên Đức Chúa Trời; nếu không, Ta sẽ xé nát các ngươi ra, và sẽ chẳng có người đến cứu giúp các ngươi: 23Ai dâng của lễ cảm tạ là tôn vinh Ta, và kẻ nào hoạch định đường lối mình theo lẽ chánh thì Ta sẽ cho thấy sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời.” 511Hỡi Đức Chúa Trời, xin hãy thương xót con vì lòng thành tín Ngài; vì Chúa đã rất nhiều lần tỏ ra khoan dung, nên xin Ngài bôi xóa các sự vi phạm của con.2Xin hãy rửa con sạch hết điều xấu xa, và thanh tẩy con khỏi tội lỗi mình. 3Vì con biết các sự vi phạm của con, và tội lỗi con vẫn luôn ở trước mặt con.
4Con đã đắc tội với Chúa, chỉ với Chúa thôi, và đã làm điều ác trước mặt Ngài; lời Chúa nói là rất phải; sự phán xét của Ngài là đúng. 5Kìa, con được sinh ra trong tội lỗi; ngay khi mẹ con mang thai con thì con đã ở trong tội.
6Này, Chúa muốn sự chân thật bên trong; Chúa sẽ khiến con biết khôn ngoan trong lòng mình. 7Xin hãy dùng cây bài hương tẩy uế con, rồi con sẽ được sạch; xin Chúa rửa con, thì con sẽ trắng hơn tuyết.
8Xin hãy cho con nghe sự hoan hỉ và vui sướng, để các xương cốt mà Chúa đã bẻ được vui mừng.
9Xin Chúa hãy ẩn mặt khỏi các tội con và bôi xóa hết mọi việc làm xấu xa của con. 10Lạy Chúa, xin hãy tạo nên trong con một tấm lòng thanh sạch, và làm mới lại trong con một tâm linh ngay thẳng.
11Xin đừng xua đuổi con khỏi trước mặt Chúa, và đừng cất Thánh Linh Ngài khỏi con. 12Xin Chúa phục hồi lại cho con niềm vui của sự cứu rỗi Ngài, và dùng tinh thần sẵn sàng mà nâng đỡ con.
13Rồi con sẽ dạy các đường lối Ngài cho kẻ vi phạm, và kẻ có tội sẽ quay về với Chúa. 14Hỡi Đức Chúa Trời của sự cứu rỗi con, xin tha con khỏi tội làm đổ máu, rồi con sẽ lớn tiếng vui mừng về sự công chính của Chúa.
15Hỡi Chúa, xin hãy mở miệng con, rồi môi con sẽ ca ngợi Ngài.
16Vì Chúa chẳng ưa thích sinh tế, nếu vậy thì con đã dâng rồi; Ngài chẳng vui về của lễ thiêu. 17Của lễ mà Đức Chúa Trời muốn là một tâm linh tan vỡ. Đức Chúa Trời ôi, Ngài sẽ không xem thường một tấm lòng tan vỡ biết hối lỗi.
18Xin Chúa hãy theo ý tốt Ngài mà làm lành cho Si-ôn; xin hãy dựng lại các tường thành Giê-ru-sa-lem.
19Rồi Chúa sẽ ưa thích các sinh tế công chính, các của lễ thiêu và của lễ toàn thiêu; khi ấy, người dân chúng con sẽ dâng bò đực trên bàn thờ Ngài. 521Kẻ mạnh bạo kia, vì sao ngươi lại hãnh diện khi gây chuyện? Sự thành tín của Đức Chúa Trời thể hiện mỗi ngày.2Nói lời dối trá, lưỡi ngươi toan tính sự tàn hại chẳng khác gì dao cạo bén. 3Ngươi ưa chuộng điều ác hơn điều thiện, thích nói dối hơn là nói lời công chính. 4Cái lưỡi dối trá kia, ngươi ưa thích mọi lời cắn nuốt người khác.
5Đức Chúa Trời cũng sẽ hủy diệt ngươi đời đời; Ngài sẽ kéo ngươi lên, vặt ngươi ra khỏi trại mình và nhổ ngươi khỏi đất của người sống. 6Người công chính cũng sẽ thấy mà sợ hãi; họ sẽ cười, và nói:
7“Chà, đây là kẻ không lấy Đức Chúa Trời làm sức lực mình, mà lại cậy vào của cải và khiến mình vững mạnh trong sự gian ác.”8Nhưng về phần mình, tôi giống như cây ô-liu xanh tươi trong nhà Đức Chúa Trời; tôi sẽ tin cậy sự thành tín của Đức Chúa Trời đến đời đời, mãi mãi.
9Hỡi Đức Chúa Trời, con sẽ tạ ơn Ngài đến muôn đời vì những việc Ngài đã làm. Con sẽ hy vọng nơi danh Chúa trước mặt những người trung tín của Ngài, vì danh Ngài thật tốt đẹp. 531Kẻ ngu nói trong lòng rằng: “Không có Đức Chúa Trời đâu.” Chúng đồi bại và phạm tội đáng kinh tởm; chẳng có kẻ nào làm lành.2Đức Chúa Trời từ trời nhìn xuống con cái loài người để xem có ai hiểu biết, tìm kiếm Ngài chăng.
3Tất cả họ đều đã trở lui, tất cả đều ra ô uế; chẳng có ai làm lành, một người cũng không. 4Những kẻ phạm tội đó, những kẻ ăn nuốt dân ta như ăn bánh và chẳng cầu khẩn Đức Chúa Trời, chúng chẳng biết gì sao?
5Chúng hoảng sợ, dầu chẳng có lý do gì phải kinh hoảng; vì Đức Chúa Trời sẽ vung vãi xương cốt của kẻ nào đóng trại gây chiến với các ngươi; các kẻ đó sẽ bị xấu hổ vì Đức Chúa Trời đã khước từ chúng. 6Ồ, ước gì sự cứu rỗi Y-sơ-ra-ên sẽ đến từ Si-ôn! Khi Đức Chúa Trời đưa con dân bị tù đày của Ngài trở về, thì Gia-cốp sẽ hân hoan và Y-sơ-ra-ên sẽ vui sướng! 541Hỡi Đức Chúa Trời, bởi danh Chúa, xin hãy cứu con, và xét xử con bằng quyền năng Ngài.2Đức Chúa Trời ôi, xin hãy nghe lời cầu nguyện con; xin lắng tai nghe các lời của miệng con.
3Vì những kẻ xa lạ đã nổi lên chống lại con, và những kẻ bạo tàn đã tìm hại mạng sống con; chúng không đặt Đức Chúa Trời trước mặt mình. Sê-la 4Kìa, Đức Chúa Trời là Đấng cứu giúp tôi; Chúa là Đấng nâng đỡ tôi.5Ngài sẽ báo trả điều dữ cho các kẻ cừu địch tôi; Bởi lòng thành tín Chúa, xin hãy tiêu diệt chúng! 6Con sẽ dâng lên Chúa một của lễ tự nguyện. Hỡi Đức Giê-hô-va, con sẽ cảm tạ danh Ngài, vì danh Chúa thật tốt đẹp.
7Vì Chúa đã giải cứu con khỏi mọi gian truân, nên mắt con đã nhìn các kẻ thù mình cách hả hê. 551Đức Chúa Trời ôi, xin hãy lắng tai nghe lời cầu nguyện của con; xin đừng ẩn mặt khi con kêu cầu.2Xin Chúa hãy lưu ý đến con và đáp lời con; con không yên nghỉ được trong các nỗi khốn cùng của mình
3vì tiếng của các kẻ cừu địch con, vì sự áp bức của kẻ ác; vì chúng gây rắc rối cho con và bức hại con khi chúng nổi giận.4Lòng con đau nhói trong con, và các nỗi kinh hoàng của sự chết đã giáng xuống trên con.
5Con phải run sợ khi sự kinh hãi áp hãm con. 6Con đã nói: “Ồi, ước gì mình có cánh giống chim bồ câu! Lúc ấy mình sẽ bay đi và được yên nghỉ.
7Thật, lúc ấy mình sẽ đi thật xa; mình sẽ ở lại trong hoang mạc. Sê-la 8Mình sẽ vội chạy đến nơi ẩn náu để tránh bão táp, phong ba.”9Chúa ôi, xin hãy hủy diệt chúng đi, và làm rối loạn ngôn ngữ của chúng, vì con đã thấy bạo hành và xung đột trong thành. 10Ngày và đêm chúng đi lại trên các vách thành; tội lỗi và điều ác ở giữa thành.
11Sự gian ác ở trong thành; sự áp chế và gian dối chưa rời khỏi các đường phố. 12Chẳng phải kẻ thù mắng mỏ con, vì nếu vậy con vẫn chịu được; cũng không phải kẻ ghét con nổi lên chống lại con, vì nếu vậy con đã ẩn mình đi.
13Nhưng chính người, kẻ ngang hàng với con, kẻ đồng hành cùng con, người bạn thân thiết của con.
14Chúng con đã từng gắn bó với nhau; chúng con đã từng đi dạo trong nhà của Đức Chúa Trời với đám đông dân chúng. 15Hãy để sự chết thình lình giáng trên chúng; nguyện chúng cứ sống như vậy mà xuống âm ti, vì sự gian ác ở tại nơi chúng ở, ngay giữa vòng chúng nó. 16Về phần con, con sẽ kêu cầu Đức Chúa Trời, và Đức Giê-hô-va sẽ cứu con.
17Sáng, trưa, chiều tối, con kêu nài, than thở; Chúa sẽ nghe tiếng con.
18Ngài sẽ giải cứu mạng sống con bình an khỏi chiến trận nhắm vào con; vì những kẻ chiến đấu chống lại con thật là nhiều. 19Đức Chúa Trời, Đấng đã có từ thời xa xưa, sẽ nghe và đáp trả chúng. Sê-la Những con người đó chẳng thay đổi; chúng không kính sợ Đức Chúa Trời. 20Bạn con đã giá tay nghịch lại những người sống hòa bình với mình; nó không tôn trọng giao ước mình đã lập.
21Miệng nó trơn như mỡ, nhưng lòng nó hằn học; lời nó êm dịu hơn dầu, nhưng lại là thanh gươm tuốt trần. 22Hãy trao các gánh nặng mình cho Đức Giê-hô-va, rồi Ngài sẽ nâng đỡ ngươi; Ngài chẳng bao giờ để cho người công chính bị chao đảo.
23Nhưng Chúa, hỡi Đức Chúa Trời, Ngài sẽ đưa kẻ ác xuống hầm hủy diệt; những kẻ khát máu và lừa dối sẽ không sống được phân nửa đời người, còn con sẽ tin cậy Ngài. 561Đức Chúa Trời ôi, xin hãy thương xót con, vì có người muốn nuốt chửng con; suốt ngày hắn tranh đấu và áp chế con.2Suốt cả ngày, các cừu địch con cứ muốn nuốt chửng con; vì có nhiều kẻ ngạo mạn chống nghịch con. 3Khi con sợ hãi thì con sẽ đặt lòng tin cậy nơi Ngài.
4Con nhờ cậy Đức Chúa Trời, lời Chúa con ca ngợi; con sẽ không sợ hãi; người phàm làm gì được con? 5Trọn cả ngày chúng xuyên tạc lời con; mọi ý tưởng của chúng đều nhằm làm hại con.
6Chúng tụ tập lại, rình rập, và theo dõi các bước con, y như là chúng chờ dịp làm hại mạng sống con. 7Xin đừng để chúng thoát tội. Hỡi Đức Chúa Trời, xin hãy đánh đổ các dân trong cơn giận Ngài.
8Chúa đếm các bước đi lưu lạc của con, và đựng nước mắt con trong chai Ngài; chẳng phải chúng đều có trong sổ sách của Ngài đó sao? 9Rồi các kẻ cừu địch con sẽ thối lui vào ngày con kêu cầu Chúa; con biết là Đức Chúa Trời bênh vực mình.
10Nơi Đức Chúa Trời, lời Ngài con ca ngợi – nơi Đức Giê-hô-va, lời Ngài con ca ngợi –
11Chính nơi Đức Chúa Trời mà con đặt lòng tin cậy; con sẽ không sợ hãi; người phàm làm gì được con?12Con vẫn biết mình phải thực hiện các điều mình hứa nguyện với Ngài; con sẽ dâng những của lễ tạ ơn Chúa.
13Vì Ngài đã giải cứu con khỏi chết; Ngài đã giữ cho chân con khỏi té ngã, để con có thể bước đi trước mặt Đức Chúa Trời trong ánh sáng của kẻ sống. 571Đức Chúa Trời ôi, xin thương xót con, hãy thương xót con, vì con nương náu nơi Chúa cho đến khi các nỗi khốn khổ này qua đi. Con cứ ở dưới cánh Ngài để được che chở cho đến khi cơn hủy diệt này kết thúc.2Con sẽ kêu cầu với Đức Chúa Trời Chí Cao, tức với Đức Chúa Trời thực hiện mọi điều cho con.
3Từ trời Ngài sẽ ban ơn cứu giúp con, khi kẻ muốn nuốt chửng con kia chỉ trích con; Sê-la Đức Chúa Trời sẽ tỏ cho con sự thành tín và chân thật của Ngài. 4Con sống cuộc đời giữa bầy sư tử; con đang ở giữa những kẽ sẵn sàng ăn nuốt mình. Con đang sống giữa những kẻ có răng như giáo và tên, có lưỡi như thanh gươm sắc bén.
5Hỡi Đức Chúa Trời, nguyện Ngài được tôn cao hơn các tầng trời; nguyện vinh quang Ngài trổi hơn toàn trái đất. 6Chúng giăng lưới gài chân con; con thật khốn khổ. Chúng đào hố trước mặt con. Chính chúng lại té vào trong đó! Sê-la 7Lòng con vững chắc, hỡi Đức Chúa Trời, lòng con vững chắc. Con sẽ hát, vâng, con sẽ hát ca ngợi Ngài.8Hỡi tấm lòng chính trực của ta, hãy thức tỉnh; hỡi cây sáo và đàn hạc, hãy dậy đi; ta sẽ đánh thức hừng đông. 9Hỡi Chúa, con sẽ dâng lời cảm tạ Ngài giữa các dân; con sẽ hát ca ngợi Ngài giữa các nước.
10Vì lòng thành tín Chúa vĩ đại đến tận các tầng trời, và lòng chân thật Ngài lên đến các tầng mây.
11Hỡi Đức Chúa Trời, nguyện Chúa được tôn cao hơn các tầng trời; nguyện vinh quang Ngài trỗi hơn toàn trái đất. 581Giới quyền thế các người nói lời công chính sao? Các người xét xử ngay thẳng sao?2Không đâu, các người phạm sự gian ác trong lòng; các người dùng tay gieo sự bạo hành khắp cả xứ. 3Kẻ ác bị lạc đường ngay từ trong lòng mẹ; ngay từ khi sinh ra, chúng đã lầm lạc, nói lời dối trá.
4Nọc độc chúng giống như nọc độc rắn; chúng giống như loài rắn hổ điếc bít tai nó lại
5chẳng chịu nghe tiếng của thầy dụ rắn, cho dù họ tài giỏi đến đâu.6Đức Chúa Trời ôi, xin hãy bẻ răng trong miệng chúng; Đức Giê-hô-va ôi, xin hãy nhổ răng nanh của lũ sư tử tơ.
7Nguyện chúng tan ra như nước chảy; khi chúng bắn tên, nguyện đó như các mũi tên vô mục tiêu.
8Nguyện chúng giống như con ốc sên chảy ra và tiêu đi, như con sinh non của người phụ nữ chẳng bao giờ thấy ánh mặt trời. 9Trước khi nồi các người thấy nóng từ gai cháy, thì Ngài dùng gió lốc đùa chúng đi, gai xanh cũng như gai đang cháy.
10Người công chính sẽ vui mừng khi nhìn thấy sự báo trả của Đức Chúa Trời; người sẽ rửa chân trong máu của kẻ ác,
11để rồi người ta nói: “Thật, có phần thưởng cho người công chính; thật, có một Đức Chúa Trời phán xét trái đất.” 591Đức Chúa Trời của con ôi, xin hãy giải cứu con khỏi kẻ thù mình; xin hãy đặt con lên cao cách xa những kẻ nổi lên chống lại con.2Xin hãy giữ con bình an trước kẻ làm chuyện tội lỗi, và cứu con khỏi những kẻ khát máu. 3Vì, kìa, chúng rình hại mạng sống con Đức Giê-hô-va ôi, những kẻ làm ác mạnh bạo kia nhóm hiệp lại chống nghịch con, nhưng không phải vì sự vi phạm hay tội lỗi con.
4Chúng sửa soạn xông vào con mặc dầu con chẳng có lỗi lầm gì; xin Chúa hãy thức dậy cứu giúp con, và xem thấy. 5Hỡi Chúa, Giê-hô-va Đức Chúa Trời các đạo binh, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, xin hãy thức dậy và hình phạt mọi dân tộc; xin Chúa đừng thương xót kẻ vi phạm gian ác nào. Sê-la 6Chúng quay trở lại lúc chiều tối, chúng tru như loài chó và đi rảo quanh thành.7Kìa, từ nơi miệng chúng phun ra; thanh gươm ở trên lưỡi chúng, vì chúng bảo: “Có ai nghe thấy chúng ta?” 8Nhưng Chúa, là Đức Giê-hô-va, cười chúng nó; Ngài chế nhạo mọi dân tộc.
9Hỡi Đức Chúa Trời, là sức lực của con, con sẽ chú tâm vào Ngài; Ngài là ngọn tháp cao của con. 10Đức Chúa Trời ta sẽ lấy lòng thành tín đối xử với ta; Đức Chúa Trời sẽ làm thành ước muốn của ta đối với các cừu địch mình.
11Xin đừng giết chúng nó, e dân con sẽ quên chăng. Hỡi Đức Chúa Trời là thuẫn che chở con, xin hãy dùng quyền năng Ngài khiến chúng tan tác và đánh hạ chúng. 12Vì các tội của miệng chúng và những lời từ môi chúng, vì những lời nguyền rủa và dối trá chúng nói ra, nguyện chúng bị mắc bẫy trong sự kiêu căng mình.
13Xin hãy tiêu diệt chúng khi Ngài nổi giận, để chúng không còn nữa; hãy cho chúng biết rằng Đức Chúa Trời cai trị trong Gia-cốp cho đến tận cùng trái đất. Sê-la 14Vào lúc chiều tối, cứ để chúng quay lại; cứ để chúng tru như loài chó và đi rảo quanh thành.15Chúng sẽ lang thang đây đó kiếm ăn và chờ suốt đêm nếu không được no nê. 16Nhưng con sẽ hát về sức lực Chúa; vì Chúa là đồn lũy và nơi ẩn náu của con trong ngày hoạn nạn.
17Con sẽ hát ca ngợi cho Chúa, là sức lực của con; vì Đức Chúa Trời là ngọn tháp cao của con, Đức Chúa Trời thành tín giữ lời giao ước. 601Cho các nhạc trường; đặt ở Su-san Ê-đút. Thơ của Đa-vít cho sự dạy dỗ. Khi vua chiến đấu với A-ram Na-ha-ra-im và với A-ram Xô-ba, và Giô-áp trở lại giết mười hai ngàn người Ê-đôm trong thung lũng Muối. Đức Chúa Trời ôi, Ngài đã bỏ chúng con; Chúa đã khiến chúng con tan tác; Ngài đã nổi giận; xin hãy phục hồi chúng con.2Chúa đã khiến đất rung chuyển; Ngài đã xé toạc nó ra; xin Chúa hãy hàn gắn lại những chỗ nứt nẻ của nó, vì nó đang lung lay.
3Chúa đã khiến dân Ngài gặp nguy khốn; Chúa đã khiến chúng con uống rượu xây xẩm. 4Chúa đã ban cờ xí cho những người tôn kính Ngài để họ giương ra vì chân lý.
5Xin Chúa dùng tay phải Ngài cứu chúng con, và đáp lời con, để những người yêu mến Chúa được giải cứu. 6Trong sự thánh khiết Ngài, Đức Chúa Trời đã phán: “Ta sẽ hân hoan; Ta sẽ chia cắt Si-chem và phân thung lũng Su-cốt ra.
7Ga-la-át là của Ta, Ma-na-se là của Ta; Ép-ra-im cũng là mũ bảo vệ đầu Ta; còn Giu-đa là vương trượng của Ta. 8Mô-áp là chậu rửa của Ta; giày thì Ta liệng xuống đầu Ê-đôm; Ta sẽ hô vang chiến thắng vì cớ Phi-li-tin.
9Ai sẽ đem Ta vào thành vững chắc? Ai sẽ dẫn Ta đến Ê-đôm?” 10Nhưng, hỡi Đức Chúa Trời, Chúa vẫn chưa từ bỏ chúng con sao? Ngài đâu có đi ra trận mạc cùng đạo quân chúng con.
11Xin hãy giúp chúng con chống lại quân thù, vì sự giúp đỡ của người ta là vô ích.
12Nhờ sự giúp đỡ của Chúa chúng con sẽ chiến thắng; Ngài giẫm đạp lên các cứu địch của chúng con. 611Đức Chúa Trời ôi, xin hãy nghe tiếng kêu của con; xin Ngài chú ý đến lời cầu nguyện con.2Từ chốn tận cùng của trái đất, con sẽ kêu cầu cùng Chúa khi lòng con bối rối; xin hãy dẫn con đến vầng đá cao hơn mình.
3Vì Chúa vẫn là nơi ẩn náu của con, một đồn lũy vững chắc trước kẻ thù. 4Con sẽ sống trong lều thánh của Chúa mãi mãi; con sẽ nương náu tại nơi trú ẩn dưới cánh Chúa. Sê-la
5Vì, hỡi Đức Chúa Trời, Chúa đã nghe lời khấn hứa của con; Ngài đã ban cho con cơ nghiệp mà Ngài dành cho những kẻ tôn kính danh Ngài.6Chúa sẽ thêm lên tuổi thọ cho vua; các năm của người trường tồn qua nhiều thế hệ.
7Người sẽ còn lại đời đời trước mặt Đức Chúa Trời. 8Con sẽ hát ca ngợi danh Ngài mãi mãi để có thể hằng ngày thực hiện các lời hứa nguyện mình. 621Tôi yên lặng chờ đợi chỉ một mình Đức Chúa Trời thôi; sự cứu rỗi tôi từ Ngài mà đến.2Chỉ một mình Ngài là vầng đá tôi và sự cứu rỗi tôi; Ngài là nơi ẩn náu cao của tôi. 3Cả bọn các người sẽ còn tấn công một người cho đến bao giờ, khi mà các người có thể xô anh ta như bức vách nghiêng, như hàng rào xiêu vẹo?
4Chúng hội ý với anh ta chỉ để đánh hạ anh ta khỏi vị trí cao trọng của mình; chúng thích nói dối; trên môi miệng chúng chúc phúc cho anh ta, nhưng trong lòng chúng rủa sả anh ta. Sê-la 5Tôi yên lặng chờ đợi chỉ một mình Đức Chúa Trời; vì hy vọng tôi đặt nơi Ngài.6Chỉ một mình Ngài là vầng đá tôi và sự cứu rỗi tôi; Ngài là ngọn tháp cao của tôi; tôi sẽ không nao núng. 7Sự cứu rỗi tôi và vinh quang của tôi ở nơi Đức Chúa Trời; vầng đá sức mạnh và nơi nương náu của tôi ở trong Đức Chúa Trời.
8Hỡi các người, hãy tin cậy Ngài trong mọi lúc; hãy dốc đổ lòng mình ra trước mặt Ngài; Đức Chúa Trời là nơi nương náu của chúng ta. Sê-la 9Hẳn người hạ đẳng là hư không, kẻ thượng lưu là ảo mộng; gộp lại họ chẳng là gì trên cân; đem cân, họ còn nhẹ hơn cả lông hồng.10Đừng cậy vào sự tàn bạo hay cướp bóc; cũng đừng hy vọng hão huyền nơi sự giàu có, vì chúng sẽ chẳng đem lại gì; đừng hướng lòng mình vào đó. 11Đức Chúa Trời nói một lần, tôi có nghe hai lần, rằng: quyền năng thuộc về Đức Chúa Trời.
12Hơn nữa, lạy Chúa, sự thành tín cũng thuộc về Ngài, vì Ngài báo trả mọi người tùy việc họ làm. 631Hỡi Đức Chúa Trời, Ngài là Đức Chúa Trời của con! Trong một xứ khô khan, cực nhọc, không có nước, con tha thiết tìm kiếm Chúa, linh hồn con khát khao Ngài, xác thể con trông mong Ngài.2Cho nên con đã nhìn ngắm Ngài trong dân thánh để thấy được quyền năng và vinh quang Ngài. 3Vì sự thành tín Chúa tốt hơn sự sống, nên môi con sẽ ca ngợi Ngài.
4Như vậy, con sẽ tán dương Ngài trong lúc còn sống; con sẽ nhân danh Chúa mà giơ cao tay lên. 5Con sẽ như thể được ăn bữa bằng tủy xương và mỡ; với đôi môi vui mừng, miệng con sẽ ca ngợi Ngài,
6khi trên giường con nghĩ đến Chúa và suy ngẫm về Ngài vào những giờ khắc trong đêm.7Vì Chúa là sự cứu giúp con, và con được hoan hỉ trong bóng cánh Ngài.
8Con bám lấy Chúa; tay phải Ngài nâng đỡ con. 9Nhưng những kẻ tìm diệt mạng sống con sẽ sa xuống những chốn tận cùng của đất.
10Chúng sẽ bị phó cho quyền của thanh gươm, và sẽ trở thành mồi cho chó rừng. 11Còn vua sẽ vui mừng nơi Đức Chúa Trời; mọi người cậy Ngài mà thề sẽ hãnh diện về Ngài, nhưng miệng của những kẻ nói lời dối trá sẽ bị ngăn lại. 641Đức Chúa Trời ôi, xin hãy nghe tiếng con nói, lời con ca thán; xin Chúa giữ mạng sống con cho khỏi sợ hãi kẻ thù nghịch.2Hãy giữ con khỏi mưu chước lén lút của kẻ làm ác, khỏi sự náo động của kẻ làm chuyện tội lỗi. 3Chúng đã mài bén lưỡi mình như thanh gươm; chúng đã nhắm các mũi tên mình, tức những lời cay độc,
4để từ trong chỗ kín đáo bắn vào người vô tội; chúng bất ngờ bắn vào người chẳng sợ hãi gì.5Chúng khuyến khích nhau trong mưu ác; chúng lén lút bàn tính gài bẫy người; chúng nói: “Ai thấy chúng ta được?”
6Chúng nghĩ ra kế phạm tội; chúng bảo: “Chúng ta đã cẩn thận lên kế hoạch xong xuôi.” Ý tưởng bên trong và lòng người ta thật thâm sâu. 7Nhưng Đức Chúa Trời sẽ bắn chúng nó; chúng sẽ bất ngờ bị thương tích vì các mũi tên Ngài.
8Chúng sẽ bị đánh ngã, vì chính lưỡi chúng chống lại chúng; mọi người trông thấy chúng sẽ đều lắc đầu.
9Mọi người sẽ sợ hãi và công bố công việc của Đức Chúa Trời. Người ta sẽ suy ngẫm cách sáng suốt về những gì Ngài đã làm. 10Người công chính sẽ vui mừng về Đức Giê-hô-va và sẽ nương náu mình nơi Ngài; mọi kẻ có lòng ngay thẳng sẽ hãnh diện về Ngài. 651Hỡi Đức Chúa Trời ở Si-ôn, chúng con trông đợi ca ngợi Ngài; chúng con sẽ thực hiện lời đã hứa nguyện với Ngài.2Hỡi Chúa là Đấng nghe lời cầu nguyện, mọi loài xác phàm sẽ đến với Ngài.
3Tội lỗi thắng hơn chúng con; về các sự vi phạm của chúng con, Chúa sẽ tha thứ. 4Phước cho người mà Chúa chọn đem đến gần Ngài để họ được ở trong sân đền Ngài. Chúng con sẽ được no đầy vật tốt lành của nhà Ngài, tức đền thánh Ngài. 5Hỡi Đức Chúa Trời của sự cứu rỗi chúng con, theo sự công chính, Chúa sẽ đáp lời chúng con mà thực hiện những việc đáng sợ; Ngài vốn là niềm tin tưởng của những nơi cùng tận trái đất và của những người sống xa bên kia biển. 6Vì chính Chúa khiến cho đồi núi vững chắc, chính Chúa nịt lưng bằng sức mạnh.
7Chính Ngài dẹp yên tiếng ầm ầm của sóng biển, cùng sự náo động của các dân. 8Những kẻ sống các nơi cùng tận trái đất đều sợ hãi trước chứng cớ công việc Chúa; Chúa khiến phương đông và phương tây đều vui mừng.
9Chúa đến cứu giúp địa cầu; Chúa tưới ướt nó; Chúa khiến nó nên màu mỡ; dòng sông của Đức Chúa Trời đầy nước; Ngài cung cấp cho loài người ngũ cốc khi sắm sửa đất. 10Chúa tưới ướt các luống cày; Chúa khỏa đất trên mặt luống; Ngài ban mưa khiến chúng tơi xốp; Ngài xuống phước cho các mầm chồi mọc lên.
11Chúa lấy sự nhân từ Ngài làm mão triều đội cho năm tháng; các vết xe Chúa để lại sự màu mỡ cho đất.
12Nó nhỏ xuống trên các đồng cỏ nơi hoang mạc, và núi đồi được thắt lưng bằng sự vui mừng. 13Đồng cỏ tràn ngập chiên cừu; thung lũng tràn ngập ngũ cốc; chúng đều reo vui, ca hát. 661Hỡi cả trái đất, hãy lớn tiếng reo mừng cho Đức Chúa Trời;2Hãy hát rao ra vinh quang của danh Ngài; hãy ca ngợi Ngài cách rạng rỡ.3Hãy thưa với Đức Chúa Trời: “Các công việc Ngài thật đáng sợ! Bởi quyền năng rất lớn của Chúa, các kẻ thù nghịch Chúa đều sẽ quy phục Ngài.
4Cả trái đất sẽ thờ phượng Chúa và hát ca ngợi Ngài; họ sẽ hát mừng danh Ngài.” Sê-la 5Hãy đến xem các công việc của Đức Chúa Trời; Ngài thật đáng sợ trong các việc Ngài làm cho con cái loài người.6Ngài làm cho biển thành ra đất khô; họ đi bộ ngang qua sông; tại đó chúng tôi vui mừng về Ngài.
7Bởi sức mạnh mình, Chúa cai trị đời đời; mắt Ngài dõi theo các nước; những kẻ phản nghịch chớ tự cao. Sê-la 8Hỡi các người, hãy tán tụng Đức Chúa Trời; hãy làm cho tiếng ca ngợi Ngài vang ra.9Ngài giữ cho chúng ta còn sống và không để chân chúng ta trượt ngã. 10Vì, hỡi Đức Chúa Trời, Ngài đã thử nghiệm chúng con; Chúa đã thử chúng con như thử bạc.
11Chúa đưa chúng con vào bẫy lưới; Ngài bắt chúng con mang gánh nặng khinh khủng.
12Chúa khiến người ta cưỡi trên đầu chúng con; chúng con đi qua lửa, qua nước, nhưng rồi Ngài đem chúng con ra nơi rộng rãi. 13Con sẽ đem theo các của lễ thiêu vào nhà Chúa; con sẽ trả cho Chúa các lời hứa nguyện mình.
14Do chính môi miệng con nói ra khi con gặp hoạn nạn.
15Con sẽ dâng cho Chúa các con vật béo tốt làm của lễ thiêu với mùi thơm của chiên đực. Con sẽ dâng lên bò đực và dê. Sê-la 16Hỡi mọi người kính sợ Đức Chúa Trời, hãy đến nghe tôi công bố những việc Chúa đã làm cho linh hồn tôi.17Miệng tôi kêu cầu Ngài, còn lưỡi tôi ca ngợi Ngài.
18Nếu tôi có thấy tội trong lòng mình, thì Chúa đã chẳng nghe tôi. 19Nhưng thật Đức Chúa Trời đã nghe; Ngài đã lưu ý tiếng kêu cầu của tôi.
20Chúc tụng Đức Chúa Trời, vì Ngài không gạt bỏ lời cầu nguyện tôi, cũng không rút lại lòng thành tín Ngài dành cho tôi. 671Nguyện Đức Chúa Trời thương xót chúng ta, ban phước cho chúng ta, và khiến mặt Ngài soi sáng trên chúng ta Sê-la2để các đường lối Chúa được tỏ ra trên đất, tức sự cứu rỗi của Ngài giữa các dân.3Nguyện các dân ca ngợi Chúa; nguyện mọi dân tôn vinh Chúa.
4Ồ, nguyện các nước vui sướng, hát mừng, vì Chúa sẽ xét xử các dân bằng sự công chính, và cai trị các nước trên đất. Sê-la 5Hỡi Đức Chúa Trời, nguyện các dân ca ngợi Chúa; nguyện mọi dân tộc chúc tụng Ngài.6Đất sinh ra hoa lợi nó và Đức Chúa Trời, tức Đức Chúa Trời chúng con, đã ban phước cho chúng tôi. 7Đức Chúa Trời đã ban phước cho chúng con, và mọi nơi tận cùng trái đất đều tôn vinh Ngài. 681Nguyện Đức Chúa Trời trỗi dậy; nguyện các kẻ thù Ngài bị tan tác; nguyện những kẻ ghét Ngài phải trốn chạy trước mặt Ngài.2Khói bị bạt đi thể nào thì xin Chúa cũng đánh bạt chúng đi thể ấy; sáp tan chảy trước lửa ra làm sao thì nguyện chúng cũng tiêu vong như vậy trước sự hiện diện của Đức Chúa Trời.
3Nhưng nguyện người công bình vui sướng; nguyện họ hớn hở trước mặt Đức Chúa Trời; nguyện họ hoan hỉ, hạnh phúc. 4Hãy hát cho Đức Chúa Trời, hãy hát ca ngợi danh Ngài; hãy đắp đường cho Đấng cưỡi ngựa qua các đồng bằng của thung lũng sông Giô-đanh; danh Ngài là Đức Giê-hô-va; hãy vui mừng trước mặt Ngài.
5Đức Chúa Trời trong nơi thánh Ngài đang ngự là cha kẻ mồ côi, là quan tòa của người góa bụa.
6Đức Chúa Trời đặt kẻ cô độc vào trong gia đình; Ngài dùng lời ca tiếng hát đem kẻ tù tội ra; nhưng kẻ phản nghịch thì sống tại vùng đất khô cháy. 7Đức Chúa Trời ôi, khi Chúa đi ra trước dân Ngài, khi Ngài băng qua hoang mạc, Sê-la
8Thì đất rung chuyển; các tầng trời cũng đổ mưa trước mặt Đức Chúa Trời, tức trước mặt Đức Chúa Trời khi Ngài đến Si-nai, trước mặt Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.9Đức Chúa Trời ôi, Ngài đã ban mưa dồi dào; Ngài làm cho vững chắc sản nghiệp mình khi nó yếu mỏn.
10Dân Ngài sống tại đó; lạy Đức Chúa Trời, Ngài đã bởi lòng nhân từ ban nó cho kẻ nghèo. 11Chúa ban lệnh, và những kẻ loan truyền nó trở thành một đoàn quân lớn.
12Vua của các đạo binh trốn chạy, họ trốn chạy, và các phụ nữ chờ đợi ở nhà phân chia chiến lợi phẩm:
13những chim bồ câu dát bạc có cánh bằng vàng ròng. Khi một số các người ở lại giữa các chuồng chiên thì sao các người lại làm vậy?14Đấng Toàn Năng đánh tan tác các vua tại đó, nó giống như khi có tuyết rơi trên núi Sanh-môn.
15Vùng đồi núi Ba-san là ngọn núi vững chắc; vùng đồi núi Ba-san là ngọn núi cao.
16Hỡi vùng đồi núi cao kia, sao ngươi nhìn cách ganh tị ngọn núi mà Đức Chúa Trời muốn làm nơi ngự Ngài? Thật, Đức Chúa Trời sẽ ngự tại đó đời đời. 17Xe ngựa chiến của Đức Chúa Trời là hai vạn, đông hàng ngàn, hàng ngàn; Chúa ở giữa chúng nó tại trong nơi thánh, như tại Si-nai.
18Chúa đã ngự lên nơi cao; Chúa dẫn theo những kẻ bị giam cầm; Chúa nhận lễ vật từ giữa vòng người ta, thậm chí từ những kẻ chống nghịch Ngài, để, hỡi Giê-hô-va Đức Chúa Trời, Ngài ở tại đó. 19Đáng ca tụng Chúa, Đấng hằng ngày mang gánh nặng của chúng con, tức Đức Chúa Trời cứu rỗi chúng con. Sê-la
20Đức Chúa Trời chúng con là Đức Chúa Trời cứu rỗi; Chúa Đức Giê-hô-va là Đấng có thể giải cứu chúng con khỏi sự chết.21Nhưng Đức Chúa Trời sẽ đánh vỡ đầu các kẻ thù Ngài, đánh xuyên da đầu của những kẻ miệt mài phạm tội với Ngài. 22Chúa phán: “Ta sẽ đem các kẻ thù Ta từ Ba-san về; Ta sẽ đem chúng về từ các vực sâu của biển
23để các con chà nát kẻ thù mình, nhúng chân mình vào máu, và để lưỡi của chó nhà các con cũng có phần nơi kẻ thù các con.”24Hỡi Đức Chúa Trời, chúng nó đã nhìn thấy đám rước nghênh tiếp Đức Chúa Trời của con, tức Vua của con, đi vào trong nơi thánh.
25Những kẻ ca hát dẫn đầu, các nhạc công theo sau, và chính giữa là các thanh nữ vỗ trống lắc. 26Hãy chúc tụng Đức Chúa Trời khi nhóm lại; hãy ca ngợi Đức Giê-hô-va, hỡi các con cháu thật của Y-sơ-ra-ên.
27Trước tiên là Bên-gia-min, bộ tộc nhỏ nhất, rồi những lãnh đạo Giu-đa cùng các đoàn dân họ, lãnh đạo của Sa-bu-lôn và lãnh đạo của Nép-ta-li. 28Hỡi Y-sơ-ra-ên, Đức Chúa Trời các ngươi đã ban lệnh cho quân đội các ngươi; hỡi Đức Chúa Trời, xin tỏ cho chúng con biết quyền năng Ngài, như Ngài đã làm trước kia.
29Xin bày tỏ cho chúng con quyền năng Ngài từ đền thờ Chúa tại Giê-ru-sa-lem, là nơi các vua mang lễ vật đến cho Ngài. 30Nơi trận mạc, xin hãy quở mắng lũ thú hoang trong các đám sậy, tức các dân tộc, là đám bò đực và bò con. Xin hãy hạ nhục chúng và buộc chúng phải mang lễ vật đến cho Ngài; xin đánh tan tác các dân thích gây chiến.
31Các vương tử sẽ từ Ai Cập mà ra; Ê-thi-ô-bi sẽ vội đưa tay ra cho Đức Chúa Trời. 32Hỡi các nước trên đất, hãy ca hát cho Đức Chúa Trời; Sê-la Hãy hát ca ngợi Đức Giê-hô-va.
33Tức cho Đấng cưỡi trên trời của các tầng trời vốn đã có từ những thời xa xưa; kìa, Ngài cất tiếng phán đầy quyền năng. 34Hãy quy sức mạnh về cho Đức Chúa Trời; sự oai nghiêm Ngài ở trên Y-sơ-ra-ên, và uy lực Ngài ở trên bầu trời.
35Hỡi Đức Chúa Trời, Chúa thật đáng sợ trong nơi thánh Ngài; Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên – Chúa ban sức mạnh và quyền năng cho dân Ngài. Đáng chúc tụng Đức Chúa Trời. 691Đức Chúa Trời ôi, xin Chúa cứu con; vì các dòng nước đang đe dọa mạng sống con.2Con lún sâu trong vũng lầy, chẳng có chỗ tựa chân. Con chìm sâu trong nước, bị nước lũ tràn qua. 3Con mòn mỏi vì kêu khóc; cổ họng thì khô rốc; mắt con làng đi vì mãi trông đợi Đức Chúa Trời mình.
4Những kẻ ghét con vô cớ đông hơn tóc trên đầu con; những kẻ muốn tiêu diệt con, vốn thù ghét cách sai trái, chúng thật hùng mạnh; con đã phải trả lại thứ mà con chẳng lấy cắp. 5Hỡi Đức Chúa Trời, Ngài biết sự ngu dại của con, và tội lỗi con không giấu được Chúa.
6Hỡi Chúa Đức Giê-hô-va của các đạo binh, xin đừng để những người trông đợi Chúa vì con mà bị hổ thẹn; hỡi Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, xin chớ để những kẻ tìm kiếm Ngài vì con phải chịu nhuốc nhơ. 7Vì cớ Chúa, con bị trách mắng; con phải chịu hổ mặt.
8Con đã trở nên kẻ xa lạ trước các anh em mình, như ngoại kiều đối với con cái của mẹ mình.
9Vì lòng nhiệt thành về nhà Chúa đã thiêu nuốt con, lời quở mắng của những kẻ quở mắng Chúa đổ xuống trên con. 10Khi con than khóc và kiêng ăn, thì họ lăng nhục con.
11Khi mặc đồ tang chế thì con trở thành đối tượng cười chê của họ.
12Những kẻ ngồi ở cổng thành bàn tán về con; con trở thành bài ca cho các bợm rượu. 13Về phần con, ôi Đức Giê-hô-va, lời cầu nguyện con hướng về Ngài, vào thời điểm Ngài vui nghe; xin hãy đáp lời con theo như sự cứu rỗi đáng tin cậy của Ngài.
14Xin hãy kéo con ra khỏi vũng lầy và đừng để con bị sụp lún; xin hãy đem con xa khỏi những kẻ ghét con và cứu con khỏi vùng nước sâu.
15Xin chớ để các cơn nước lũ ập lên con, cũng đừng để vực sâu nuốt chửng con. Xin đừng để miệng hố lấp lại trên con. 16Đức Giê-hô-va ôi, xin hãy đáp lời con, vì sự thành tín Ngài thật tốt lành; vì lòng thương xót Ngài đối cùng con, xin hãy quay về phía con.
17Xin đừng giấu mặt Chúa khỏi kẻ tôi tớ Ngài, vì con đang gặp hoạn nạn; xin hãy mau đáp lời con. 18Xin Chúa lại gần con và cứu con. Vì cớ các kẻ thù của con, xin hãy chuộc con.
19Chúa biết sự quở mắng, sự hổ thẹn, cùng sự nhuốc nhơ mà con phải chịu; các kẻ cừu địch con đều ở trước mặt Ngài. 20Phải chịu mắng mỏ khiến lòng con tan nát; con thấy thật nặng nề; con tìm người thương cảm mình, nhưng chẳng có ai; con kiếm người ủi an, nhưng không tìm thấy.
21Chúng cho con chất độc làm thức ăn; khi con khát, chúng cho con uống dấm. 22Nguyện bàn ăn trước mặt chúng trở thành cái thòng lọng; khi chúng tưởng mình bình an, nguyện nó trở nên chiếc bẫy sập.
23Nguyện mắt chúng bị tối lại không còn thấy; và xin cứ khiến lưng chúng nó run rẫy luôn. 24Xin Chúa giáng cơn thạnh nộ Ngài trên chúng, và khiến sự giận dữ Chúa bắt kịp chúng nó.
25Nguyện chỗ ở chúng bị hoang tàn; nguyện đừng có ai sống trong lều chúng nó. 26Vì chúng bức hại kẻ Chúa đã đánh; chúng đi thuật lại nỗi đau của người Chúa đã gây thương tích.
27Xin Chúa hãy kết tội chúng vì đã phạm hết tội này đến tội khác; xin đừng để chúng được dự vào chiến thắng công bình của Chúa. 28Nguyện tên chúng bị xóa khỏi sách sự sống và không được ghi vào chung với người công chính.
29Nhưng con nghèo khó và buồn thảm; Đức Chúa Trời ôi, nguyện sự cứu rỗi Ngài đưa con lên nơi cao. 30Con sẽ dùng bài hát mà chúc tán danh Đức Chúa Trời, và dùng lời tạ ơn mà tôn cao Ngài.
31Làm vậy sẽ khiến Chúa hài lòng hơn là bò đã thiến hoặc bò đực có sừng cùng móng guốc. 32Người nhu mì đã thấy được việc ấy và vui sướng; hỡi những kẻ tìm kiếm Đức Chúa Trời, nguyện tấm lòng các người được sống.
33Vì Đức Giê-hô-va nghe kẻ thiếu thốn và chẳng khinh rẻ những kẻ tù của Ngài. 34Nguyện trời và đất, cùng biển và mọi vật di chuyển dưới đó, đều ca ngợi Ngài.
35Vì Đức Chúa Trời sẽ cứu Si-ôn và xây lại tường thành của Giu-đa; dân chúng sẽ sống tại đó và được sở hữu nó.
36Con cháu của các tôi tớ Ngài sẽ thừa hưởng nó; và những người yêu mến danh Ngài sẽ sống tại đó. 701Đức Chúa Trời ôi, xin hãy cứu con! Hỡi Đức Giê-hô-va, xin Ngài mau đến giúp đỡ con.2Nguyện những kẻ tìm hại mạng sống con bị hổ thẹn và sỉ nhục; nguyện chúng là những kẻ vui thích về nỗi đau của con phải thối lui và chịu nhuốc nhơ
3Những kẻ nói: “A-ha, a-ha” đó, nguyện chúng phải thối lui vì mắc cỡ.4Nguyện mọi kẻ nào tìm kiếm Chúa được vui mừng và sung sướng trong Ngài; nguyện những người yêu mến sự cứu rỗi của Chúa luôn nói: “Đức Chúa Trời thật đáng ca ngợi.”
5Còn con đây nghèo nàn, thiếu thốn; lạy Đức Chúa Trời, xin mau đến với con; Chúa là nguồn giúp đỡ con, và Ngài giải cứu con. Đức Giê-hô-va ôi, xin chớ trì hoãn. 711Đức Giê-hô-va ôi, con nương náu nơi Ngài; xin đừng để con bị hổ thẹn.2Xin giải cứu con và cho con được an toàn trong sự công chính của Chúa; xin Chúa nghiêng tai qua con và cứu con.
3Xin Chúa làm vầng đá nương náu để con luôn có thể đến trú ẩn; Chúa đã ban lệnh cứu con, vì Chúa là vầng đá của con, đồn lũy của con. 4Đức Chúa Trời của con ôi, xin giải cứu con khỏi tay người ác, khỏi tay của kẻ bất chính, tàn độc.
5Vì, hỡi Đức Giê-ô-va, Ngài là hy vọng của con. Con đã tin cậy Ngài từ khi còn bé. 6Nhờ Chúa mà con được đỡ nâng từ trong lòng mẹ; chính Chúa đã đem con ra khỏi lòng mẹ con; sự ca ngợi con luôn dành cho Chúa.
7Con đây là đối tượng bàn tán của nhiều người; Chúa là nơi ẩn náu vững chắc của con. 8Trọn cả ngày miệng con sẽ nói lời ca ngợi Chúa và tôn kính Ngài.
9Xin đừng bỏ con lúc con về già; xin đừng lìa con khi sức lực con suy yếu. 10Vì các cừu địch con đang bàn tàn về con; những kẻ tìm hại mạng sống con đang cùng mưu tính.
11Chúng bảo: “Đức Chúa Trời đã bỏ nó; cứ săn đuổi và bắt nó đi, vì chẳng có ai cứu nó đâu.” 12Hỡi Đức Chúa Trời, xin đừng ở cách xa con; Đức Chúa Trời của con ôi, xin hãy mau cứu giúp con.
13Nguyện chúng phải mắc cỡ và bị diệt mất, tức những kẻ muốn hại mạng sống con đó; những kẻ tìm cách hãm hại con, nguyện chúng bị chỉ trích và chịu sỉ nhục. 14Nhưng con sẽ luôn hy vọng nơi Chúa và sẽ cứ thêm lời ca ngợi Ngài.
15Miệng con sẽ nói về sự công chính cùng sự cứu rỗi của Ngài trọn cả ngày, cho dầu con không hiểu được.
16Con sẽ đến chỗ họ thuật lại các công việc quyền năng của Chúa Đức Giê-hô-va; con sẽ nói về sự công chính của Chúa và chỉ của Ngài thôi. 17Đức Chúa Trời ôi, Ngài đã dạy con từ khi con còn bé; thậm chí cho đến nay con vẫn công bố các việc kỳ diệu của Ngài.
18Thật, ngay cả khi con đã già cả đầu bạc, Đức Chúa Trời ôi, xin đừng bỏ con, vì con vẫn rao ra sức lực của Chúa cho đời sau, quyền năng Chúa cho mọi người sẽ đến 19Đức Chúa Trời ôi, sự công chính Ngài cũng cao ngất; lạy Chúa là Đức Chúa Trời thực hiện những việc kỳ diệu, có ai giống như Chúa.20Đấng đã cho chúng con gặp bao khó khăn, chính Ngài sẽ khiến chúng con hồi sinh và lại đem chúng con ra khỏi các vực sâu dưới đất. 21Nguyện Chúa thêm cho con sự tôn trọng; xin hãy quay qua an ủi con.
22Đức Chúa Trời con ôi, con cũng sẽ dùng đàn hạc mà cảm tạ Chúa vì đức thành tín của Ngài; hỡi Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên, con sẽ dùng đàn hạc mà hát ca ngợi ngợi Ngài. 23Con đây là kẻ Chúa đã cứu chuộc – môi miệng con sẽ lớn tiếng vui mừng khi con hát ca ngợi Chúa.
24Trọn cả ngày, lưỡi con cũng sẽ nói về sự công chính của Chúa, vì những kẻ tìm cách hãm hại con đã bị làm cho xấu hổ và bối rối. 721Bài ca của Sô-lô-môn. Đức Chúa Trời ôi, xin hãy ban cho vua các nghị định công chính của Ngài, tức sự công chính của Chúa dành cho con trai vua.2Nguyện vua xét xử dân Chúa bằng sự công chính và kẻ nghèo khó của Ngài cách công bằng.
3Nguyện các núi đem thái bình đến cho dân chúng; nguyện các đồi đem lại sự công chính. 4Nguyện vua đoán xét người nghèo trong dân chúng; nguyện người cứu giúp con cái kẻ thiếu thốn và đập tan kẻ áp bức.
5Bao lâu còn mặt trời, mặt trăng, thì nguyện họ cứ tôn kính Chúa qua mọi thế hệ. 6Nguyện người giống như mưa sa xuống đồng cỏ mới phát, như mưa rào tưới đất.
7Nguyện người công chính được thạnh vượng trong thời của vua, và nguyện có bình an khắp chốn cho đến khi trăng không còn nữa. 8Nguyện vua sẽ cai quản từ biển này đến biển kia, từ sông cái cho đến cùng tận trái đất.
9Nguyện những kẻ sống nơi hoang mạc phải sấp mình xuống trước vua; nguyện các kẻ thù người phải liếm bụi đất.
10Nguyện vua của Ta-rê-si và của các đảo phải tiến cống cho người; nguyện các vua của Sa-ba và Sê-ba phải dâng lễ vật cho người. 11Nguyện tất cả các vua đều sấp mình xuống trước người; nguyện mọi dân tộc đều phục vụ người.
12Vì vua giúp đỡ kẻ thiếu thốn đang kêu khóc và người nghèo chẳng được ai khác tiếp cứu. 13Vua cảm thương người nghèo thiếu, vua cứu mạng người túng ngặt.
14Vua cứu mạng họ khỏi tình cảnh áp bức, bạo hành, và xem máu họ là quý báu. 15Nguyện vua cứ được sống! Nguyện người ta sẽ dâng vàng Sa-ba cho người. Nguyện dân chúng cứ cầu nguyện cho người luôn; nguyện Đức Chúa Trời ban phước cho người trọn cả ngày.
16Nguyện ngũ cốc sẽ dư dật trên các đỉnh núi trên đất; nguyện bông trái nó đong đưa trước gió giống các cây của Li-ban, và dân chúng trong các thành được thạnh vượng như cỏ trên đất. 17Nguyện danh người cứ còn mãi; bao lâu còn mặt trời thì nguyện danh người sẽ cứ còn bấy lâu. Nguyện mọi nước sẽ xưng người là có phước. 18Nguyện Giê-hô-va Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, được chúc tụng, chỉ một mình Ngài làm những việc kỳ diệu.
19Nguyện danh vinh hiển Ngài được chúc tụng đến đời đời, nguyện cả trái đất đầy dẫy vinh quang Ngài. A-men! A-men!
20Kết thúc các bài cầu nguyện của Đa-vít, con trai Y-sai. Quyển Ba. 731Quả hẳn Đức Chúa Trời thật tốt lành với Y-sơ-ra-ên, với những kẻ có lòng trong sạch.2Riêng con, con suýt bị sẩy chân; đôi bàn chân đỡ con suýt vấp ngã
3vì con ganh tị với lũ kiêu ngạo khi thấy sự hưng thịnh của kẻ ác.4Vì cho đến khi qua đời chúng chẳng phải đau đớn gì, mà lại cứ mạnh khỏe, no đủ.
5Chúng không phải chịu nặng gánh như người khác; chúng chẳng gặp hoạn nạn như mọi người. 6Chúng lấy sự kiêu hãnh làm trang sức như đeo dây chuyền cổ; chúng lấy bạo lực mặc cho mình như mặc áo.
7Sự đui mù ấy sinh ra tội; các ý tưởng gian tà đi qua lòng chúng nó. 8Chúng nói lời dữ cách giễu cợt; chúng hãnh diện răn đe dùng bạo lực.
9Chúng nói phạm cõi trời, và lưỡi chúng tán đủ thứ chuyện dưới đất. 10Cho nên dân Đức Chúa Trời quay hướng về chúng, uống cạn lời của chúng.
11Chúng bảo: “Làm sao Đức Chúa Trời biết được? Ngài biết chuyện đang xảy ra hay sao?
12Xin Chúa lưu ý: Những con người này là gian ác; lúc nào chúng cũng thảnh thơi, ngày càng giàu thêm lên. 13Việc con canh giữ lòng mình và rửa tay trong sự vô tội hẳn chẳng ích lợi gì.
14Vì suốt cả ngày con phải chịu hoạn nạn và sáng nào cũng bị sửa phạt.
15Nếu con có bảo: “Mình sẽ nói các lời ấy,” thì con hẳn đã phản bội lại thế hệ này của con dân Chúa. 16Dầu con đã cố hiểu những việc này, nhưng quá khó đối với con.
17Rồi con đi vào nơi thánh của Đức Chúa Trời và nhận ra số phận của chúng. 18Hẳn là Chúa đã đặt chúng ở nơi trơn trượt; Chúa khiến chúng rơi vào cảnh hoang phế.
19Chỉ trong chốc lát mà chúng đã thành ra chốn tiêu điều! Chúng tận số và bị kết liễu thật kinh khủng.
20Chúng giống như giấc mộng sau khi người ta thức dậy; Chúa ôi, khi Ngài trỗi dậy, Chúa sẽ chẳng quan tâm gì đến các giấc mơ đó. 21Vì lòng con buồn thảm, và con bị thương tổn nặng.
22Con đã thiếu không biết và không thấy; con như con vật vô tri trước mặt Ngài. 23Nhưng con vẫn luôn ở cùng Chúa; Chúa nắm giữ tay phải con.
24Chúa sẽ dùng lời khuyên lơn mà dẫn dắt con, sau đó tiếp con vào sự vinh hiển. 25Trên trời, con có ai trừ ra Chúa? Dưới đất này con chẳng ước muốn ai khác ngoài Ngài.
26Thịt và lòng con suy yếu, nhưng Đức Chúa Trời mãi mãi là sức lực của lòng con. 27Những kẻ xa cách Chúa sẽ tiêu vong; Chúa sẽ hủy diệt mọi người bất trung với Ngài.
28Còn riêng con, việc duy nhất con cần làm là đến gần Đức Chúa Trời. Con đã lấy Chúa Đức Giê-hô-va làm nơi ẩn náu mình. Con sẽ công bố mọi việc Ngài đã làm. 741Đức Chúa Trời ôi, sao Ngài lại cứ mãi hất hủi chúng con? Vì sao Chúa cứ phừng phừng nổi giận với các chiên của đồng cỏ Ngài?2Xin Chúa hãy nhớ lại dân Ngài mà Ngài đã cứu chuộc từ thời xa xưa, được Ngài mua lại để làm sản nghiệp riêng cho Ngài, cùng núi Si-ôn, nơi Chúa ngự, 3Xin Chúa đến xem cảnh hoang phế hoàn toàn, tức mọi hư hại mà quân thù đã gây ra trong nơi thánh.4Các kẻ thù Chúa gầm rống ngay tại nơi Ngài đã định; chúng trương cờ xí của chúng lên.
5Chúng dùng rìu chặt đốn như trong rừng rậm.
6Chúng đập nát, phá tan mọi vật chạm trổ; với búa rìu, chúng cứ thế mà đập. 7Chúng đốt cháy nơi thánh của Chúa; chúng mạo phạm chỗ Ngài ngự,
8Chúng nói trong lòng: “Chúng ta sẽ hủy diệt hết.” Chúng thiêu sạch mọi nơi nhóm hội trong xứ.9Chúng con không còn thấy các dấu lạ của Đức Chúa Trời; chẳng còn nhà tiên tri, và chẳng ai trong chúng con biết tình trạng này sẽ kéo dài bao lâu.
10Đức Chúa Trời ôi, kẻ thù sẽ còn sỉ nhục Chúa cho đến bao giờ? Phải chăng kẻ thù sẽ nói phạm danh Ngài mãi mãi?
11Vì sao Chúa giữ tay mình lại, tức tay phải Ngài? Xin Chúa hãy rút tay phải Ngài ra khỏi áo và hủy diệt chúng. 12Nhưng Đức Chúa Trời vẫn là vua của con từ thời xa xưa, đem đến sự cứu rỗi trên đất.
13Chúa dùng sức mình chia biển ra; Ngài đập vỡ đầu của lũ quái vật dưới nước. 14Ngài nghiền nát các đầu của Lê-vi-a-than; Ngài ban nó làm thức ăn cho dân sống nơi hoang mạc.
15Chúa khai nguồn cho khe, suối; Ngài khiến sông rạch cạn khô. 16Ngày là của Chúa, đêm cũng thuộc về Ngài; Chúa đặt mặt trời, mặt trăng vào vị trí của nó.
17Ngài định đặt mọi ranh giới của trái đất; Ngài làm nên mùa hạ cùng mùa đông. 18Hỡi Đức Giê-hô-va, xin hãy nhớ lại kẻ thù đã sỉ nhục Ngài như thế nào, một dân người ngu dại đã xúc phạm danh Chúa.
19Xin đừng phó sinh mạng bồ câu của Chúa cho thú hoang. Xin chớ mãi quên mạng sống của dân Ngài đang phải chịu áp chế. 20Xin Chúa hãy nhớ lại giao ước Ngài, vì các vùng tối tăm trên đất đầy những chỗ bạo hành.
21Xin chớ để kẻ bị áp bức phải thối lại xấu hổ; nguyện người nghèo khó, khốn cùng ca ngợi danh Chúa. 22Đức Chúa Trời ôi, xin hãy trỗi dậy; xin Chúa hãy bênh vực danh dự của Ngài; xin nhớ lại những kẻ ngu ngốc đã sỉ nhục Chúa suốt cả ngày ra sao.
23Xin Chúa chớ quên tiếng của các cừu địch Chúa, cùng tiếng gầm rú của những kẻ liên tục xem thường Ngài. 751Đức Chúa Trời ôi, chúng con dâng lời cảm tạ Ngài, vì Chúa mặc thị sự hiện diện của Ngài; người ta nói về các việc kỳ diệu của Chúa.2Đến thời điểm đã định, Ta sẽ xét xử công bằng.
3Dầu trái đất và toàn thể cư dân run sợ, nhưng Ta khiến các trụ cột nó vững chắc. Sê-la 4Ta bảo kẻ kiêu ngạo: “Chớ ngạo mạn,” và bảo kẻ ác: “Đừng tưởng mình sẽ thắng.5Đừng cứ đinh ninh như vậy về thắng lợi; chớ ngẩng cao đầu mà nói năng như vậy.”
6Chiến thắng không đến từ phương đông, phương tây, cũng không đến từ hoang mạc. 7Nhưng Đức Chúa Trời đánh giá; Ngài hạ kẻ này xuống, nhắc người kia lên.
8Vì Đức Giê-hô-va cầm trên tay chén rượu pha sủi bọt, rồi rót nó ra. Hẳn mọi kẻ ác trên đất sẽ uống cạn nó. 9Nhưng con sẽ cứ mãi thuật lại những việc Chúa đã làm; con sẽ hát ca ngợi Đức Chúa Trời của Gia-cốp.
10Chúa có phán: “Ta sẽ chặt đứt hết sừng của kẻ ác, còn sừng của người công chính sẽ được ngước lên.” 761Đức Chúa Trời tự tỏ mình ra trong Giu-đa; danh Ngài thật vĩ đại trong Y-sơ-ra-ên.2Lều của Ngài ở tại Sa-lem; nơi ngự Ngài ở tại Si-ôn.
3Tại đó Ngài bẻ gãy tên cung, khiên mộc, gươm đao, cùng các thứ khí giới khác. Sê-la 4Chúa tỏa rạng vinh quang Ngài, khi Chúa từ trên núi xuống, là nơi Chúa đánh giết các kẻ thù Ngài.5Kẻ can trường bị cướp bóc; họ chìm vào giấc ngủ. Toàn thể chiến binh đều bất lực. 6Hỡi Đức Chúa Trời của Gia-cốp, nghe Chúa quở trách, cả ngựa và người cưỡi đều thiếp đi.
7Chúa, chính Chúa, mới đáng sợ; khi Chúa nổi giận, ai đứng nổi trước mặt Ngài? 8Từ trên trời Chúa xét xử; đất sợ hãi và im tiếng.
9Hỡi Đức Chúa Trời, Ngài trỗi dậy tiến hành xét xử và giải cứu mọi kẻ chịu áp bức trên đất. Sê-la 10Sự phán xét giận dữ của Chúa đối với những kẻ đó hẳn khiến Chúa được ca ngợi. Chúa trút đổ cơn thạnh nộ Ngài.11Hãy hứa nguyện với Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ngươi, rồi thực hiện. Nguyện mọi kẻ chung quanh Chúa đều đem lễ vật đến cho Đấng đáng phải kính sợ.
12Chúa đánh hạ ngạo khí của những người quyền thế; các vua trên đất đều khiếp hãi Ngài. 771Con sẽ dùng tiếng mình kêu cứu Đức Chúa Trời; con sẽ lên tiếng kêu cầu Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời con sẽ nghe con.2Trong ngày hoạn nạn con tìm kiếm Chúa; vào ban đêm, con đã giơ tay mình ra không mỏi mệt. Con không để ai an ủi mình.
3Con nghĩ đến Đức Chúa Trời khi than thở; con nhớ đến Chúa khi yếu sức. Sê-la 4Chúa giữ cho mắt con cứ mở; con bối rối quá không nói được.5Con nghĩ đến những ngày trước, đến thời xa xưa. 6Suốt đêm con nhớ lại bài ca mà mình từng hát. Con cẩn thận suy xét và cố gắng hiểu việc đã xảy ra.
7Phải chăng Chúa sẽ khước từ con mãi mãi? Phải chăng Ngài sẽ chẳng bao giờ ban ơn lại cho con? 8Phải chăng lòng thành tín Chúa mãi mãi chấm dứt? Phải chăng lời hứa của Ngài đã đời đời mất đi?
9Phải chăng Đức Chúa Trời đã quên tỏ ra độ lượng? Phải chăng cơn giận đã khiến lòng thương xót Ngài đóng chặt? Sê-la 10Con bảo: “Nỗi bất hạnh của mình là đây: Tay phải của Đấng Toàn Năng đối với chúng ta không còn như trước.”11Nhưng, Đức Giê-hô-va ôi, con sẽ nhớ lại các công việc của Ngài; con sẽ nghĩ về các việc kỳ diệu Chúa đã thực hiện ngày xưa.
12Con sẽ ngẫm nghĩ về mọi công việc của Chúa và suy gẫm về chúng. 13Lạy Đức Chúa Trời, đường lối Ngài là thánh; có thần nào so được với Đức Chúa Trời vĩ đại của chúng con?
14Chúa là Đức Chúa Trời thực hiện các phép lạ; Chúa đã tỏ sức mạnh Ngài ra giữa vòng các dân.
15Bởi năng quyền lớn lao mình, Chúa đã cho dân Ngài được thắng – tức là con cháu của Gia-cốp và Giô-sép. Sê-la 16Đức Chúa Trời ôi, các dòng nước trông thấy Ngài; các dòng nước thấy Ngài, thì sợ hãi; các vực sâu run rẫy.17Các đám mây trút đổ nước xuống; bầu trời rền tiếng sấm; các mũi tên Ngài vụt bay khắp nơi. 18Tiếng Chúa vang rền nghe được trong gió; chớp nhoáng thì chiếu sáng thế gian; trái đất run rẫy, lay động.
19Đường của Chúa đi xuyên qua biển cả, lối của Ngài đi qua vùng nước dâng tràn, nhưng vết chân Chúa chẳng ai nhìn thấy.
20Chúa dùng tay Môi-se và A-rôn dẫn dắt dân Ngài như đàn chiên. 781Hỡi dân tôi, hãy nghe giáo huấn của tôi đây, hãy lắng nghe các lời của miệng tôi.2Tôi sẽ mở miệng nói bằng ẩn dụ; tôi sẽ hát về những việc giấu kín liên quan đến quá khứ. 3Đó là những việc chúng tôi đã nghe và học biết, những chuyện mà tổ phụ chúng ta đã thuật lại.
4Chúng tôi sẽ không giữ kín những việc ấy đối với con cháu họ. Chúng tôi sẽ kể cho đời sau về những công việc đáng ca ngợi của Đức Giê-hô-va, cùng sức mạnh và các phép lạ mà Ngài đã làm. 5Vì Ngài đã thiết đặt các nghị định trong Gia-cốp, định ra luật pháp trong Y-sơ-ra-ên. Ngài truyền cho cha ông chúng ta phải dạy những điều đó cho con cái mình.
6Ngài truyền bảo như vậy để thế hệ sẽ đến, tức các cháu bé chưa sinh ra, biết được các nghị định của Ngài, rồi đến lượt chúng sẽ kể lại cho con cái mình. 7Nhờ đó chúng nó sẽ đặt hy vọng nơi Đức Chúa Trời, không quên các công việc Ngài, mà tuân giữ các điều răn Ngài.
8Để chúng nó sẽ không giống như cha ông mình, là thế hệ ương ngạnh, phản loạn, thế hệ có tấm lòng không ngay thật, có tâm thần chẳng tận trung với Đức Chúa Trời. 9Con cháu Ép-ra-im trang bị cung tên, nhưng họ đã phải thối lui trong ngày chiến trận.
10Họ đã không giữ giao ước với Đức Chúa Trời, không chịu vâng theo luật pháp Ngài.
11Họ quên các công việc Ngài, tức các các việc kỳ diệu mà Ngài đã tỏ cho họ. 12Những việc phi thường mà Ngài làm trước mắt cha ông họ tại đất Ai Cập, trong vùng Xô-an.
13Ngài phân rẽ biển và dẫn họ đi qua; Ngài khiến nước dựng lên như những vách tường thành.
14Ban ngày, Ngài dẫn họ bằng áng mây, trọn ban đêm thì bằng ánh lửa. 15Ngài bửa các tảng đá trong hoang mạc ra và ban cho họ nước phỉ phu, đủ để lấp đầy các vực sâu của biển.
16Ngài khiến các dòng suối từ đá tuôn ra và làm cho nước chảy khác nào sông. 17Vậy mà họ cứ tiếp tục phạm tội với Chúa, trong hoang mạc nổi loạn chống lại Đấng Chí Cao.
18Trong lòng họ thách thức Đức Chúa Trời, đòi thức ăn theo thèm khát của mình. 19Họ nói phạm đến Chúa; họ bảo: “Đức Chúa Trời thật có thể dọn đồ ăn cho chúng ta trong hoang mạc sao?
20Đúng, khi Ngài đập hòn đá thì nước phun ra, dòng suối chảy tràn. Nhưng Ngài cũng ban bánh được ư? Ngài sẽ cấp thịt cho dân mình sao?” 21Khi Đức Giê-hô-va nghe lời đó, Ngài nổi giận; lửa Ngài bùng lên nghịch cùng Gia-cốp, cơn giận Ngài đổ dồn vào Y-sơ-ra-ên,
22vì họ không chịu tin Đức Chúa Trời và không cậy sự cứu rỗi của Ngài.23Nhưng Ngài cũng ban lệnh cho bầu trời bên trên và mở các cửa nó.
24Ngài khiến mưa ma-na xuống cho họ ăn, ban cho họ ngũ cốc từ trời.
25Người ta ăn bánh của thiên sứ. Ngài ban cho họ thức ăn dồi dào. 26Ngài khiến gió đông thổi trên trời, và bởi quyền năng mình Ngài dẫn gió nam.
27Ngài khiến mưa thịt xuống trên họ như tro bụi, chim nhung nhúc khác nào cát biển.
28Chúng sa xuống giữa trại họ, quanh khắp các lều họ. 29Vậy là họ ăn và no nê. Ngài đã cho họ điều họ thèm muốn.
30Nhưng họ chưa đã cơn thèm khát; thức ăn vẫn con trong miệng họ. 31Lúc đó cơn giận của Đức Chúa Trời trút xuống trên họ, giết chết những kẻ mạnh sức nhất. Ngài đánh hạ giới thanh niên của Y-sơ-ra-ên.
32Dầu vậy, họ vẫn cứ phạm tội và chẳng chịu tin các việc kỳ diệu của Ngài. 33Thế là Đức Chúa Trời rút ngắn số ngày của họ; các năm tháng họ thật kinh hoàng.
34Mỗi khi Chúa hành hại họ thì họ lại tìm cầu Chúa, họ quay trở lại và dốc lòng tìm kiếm Ngài. 35Họ nhớ lại rằng Đức Chúa Trời chính là vầng đá của mình, rằng Đức Chúa Trời Chí Cao là Đấng giải cứu mình.
36Nhưng họ chỉ dùng môi miệng xu nịnh Ngài, dùng lời lẽ mà nói dối Ngài.
37Vì lòng họ không chăm vào Ngài, và họ chẳng trung tín với giao ước Chúa. 38Nhưng, vì thương xót họ, Ngài đã thứ tha tội cho họ và không hủy diệt họ. Thật vậy, Chúa đã nhiều lần nén giận và không khơi bùng cơn thạnh nộ mình. 39Chúa nhớ lại rằng họ chỉ là loài xác thịt, như làn gió thổi qua không trở lại.
40Biết bao lần họ đã nổi loạn chống nghịch Chúa trong sa mạc và khiến Ngài buồn lòng nơi hoang địa.
41Họ cứ liên tục thách thức Đức Chúa Trời và xúc phạm Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên. 42Họ không nhớ đến quyền năng Chúa, thể nào Chúa đã giải cứu họ khỏi quân thù
43khi Ngài thực hiện các dấu hiệu đáng kinh sợ tại Ai Cập và các phép lạ trong vùng Xô-an.44Chúa khiến các sông Ai Cập thành ra máu, khiến sông suối họ không uống được.
45Chúa sai những đàn ruồi ăn nuốt họ, còn ếch nhái thì tràn qua khắp xứ.
46Ngài phó mùa màng họ cho châu chấu, và công lao họ cho cào cào. 47Ngài hủy vườn nho họ bằng mưa đá, rồi lại dùng mưa đá diệt các cây sung của họ.
48Ngài giáng mưa đá trên trâu bò họ, giáng sấm sét xuống gia súc họ.
49Sự thạnh nộ kinh khiếp Ngài quất vào họ. Ngài sai phái cơn giận, sự cuồng nộ, và gian truân như các sứ giả mang họa đến. 50Ngài mở lối cho cơn thạnh nộ Ngài; Ngài không tha chết cho họ, mà phó họ cho tai vạ.
51Chúa giết hết các con trưởng tại Ai Cập, tức con trưởng của sức mạnh họ trong các lều trại của Cham. 52Chúa dắt dân Ngài ra như chiên và dẫn lối họ qua hoang mạc như bầy chiên.
53Ngài dẫn dắt họ thật an toàn, không chút sợ hãi, nhưng quân thù thì bị biển vùi lấp. 54Rồi Chúa đem họ đến ranh giới thánh địa Ngài, tới ngọn núi mà tay phải Ngài đã chiếm được.
55Chúa đuổi các dân khỏi trước mặt họ và giao xứ cho họ làm sản nghiệp; Ngài cho các bộ tộc Y-sơ-ra-ên định cư trong lều mình. 56Nhưng họ thách thức và xem thường Đức Chúa Trời Chí Cao, không vâng giữ các mạng lệnh hệ trọng của Chúa.
57Họ bất trung và hành xử cách phản trắc giống cha ông mình; họ chẳng đáng tin cậy, như cây cung sai lệch. 58Vì họ lập bàn thờ ngoại giáo mà chọc giận Chúa, và trêu Ngài ghen tức bằng các tượng thần mình.
59Khi Đức Chúa Trời nghe điều này thì Ngài nổi thạnh nộ và khước từ Y-sơ-ra-ên hoàn toàn. 60Ngài từ bỏ nơi thánh tại Si-lô, tức lều tạm Ngài ngự giữa vòng dân chúng.
61Ngài để cho sức mạnh mình bị đoạt lấy và phó vinh quang mình vào tay quân thù. 62Chúa phó dân Ngài cho lưỡi gươm, Ngài nổi giận với sản nghiệp mình.
63Lửa thiêu nuốt giới trai tráng họ, nên thiếu nữ chẳng được hát điệu vu quy. 64Giới tế lễ ngã chết vì gươm đao, còn góa phụ chẳng thể than khóc.
65Rồi Chúa thức giấc như một người ngủ dậy, như người chiến binh reo vui vì rượu.
66Chúa đẩy lui các kẻ thù Ngài; Chúa khiến họ mãi mãi bị xấu hổ. 67Chúa khước từ lều trại Giô-sép, Ngài không chọn chi tộc Ép-ra-im.
68Ngài chọn chi tộc Giu-đa và núi Si-ôn mà Ngài yêu mến.
69Chúa xây nơi thánh Ngài giống các tầng trời, giống trái đất mà Ngài đã thiết lập đời đời. 70Chúa chọn Đa-vít, tôi tớ Ngài, và đem người ra từ các chuồng chiên.
71Chúa khiến người thôi chăn dắt bầy chiên cái đang nuôi con, lập người lên làm người chăn dắt Gia-cốp, là dân Ngài, và Y-sơ-ra-ên, là cơ nghiệp Ngài.
72Đa-vít chăn dắt họ bằng sự chính trực của lòng mình, người dẫn dắt họ bằng tài khéo của đôi tay. 791Đức Chúa Trời ôi, các dân ngoại quốc đã xâm phạm cơ nghiệp Chúa; chúng đã làm ô uế đền thánh Ngài; chúng đã biến Giê-ru-sa-lem thành đống đổ nát.2Chúng phó thây của các tôi tớ Chúa làm thức ăn cho chim trời, phó xác của những kẻ trung tín với Chúa cho thú dữ trên đất.
3Họ đã đổ máu ra như nước chung quanh Giê-ru-sa-lem, chẳng được ai chôn cất. 4Chúng con đã trở nên cớ cho người khác sỉ nhục, là đối tượng chế nhạo, làm trò cười cho mọi người chung quanh mình.
5Đức Giê-hô-va ôi, còn đến bao lâu nữa? Chúa cứ giận đến mãi mãi sao? Cơn thạnh nộ ghen tức của Chúa sẽ phừng phừng như lửa cho đến lúc nào đây? 6Xin hãy trút đổ cơn giận Chúa trên các dân chẳng nhìn biết Ngài, trên các nước không kêu cầu danh Ngài.
7Vì chúng đã ăn nuốt Gia-cốp và hủy diệt các làng mạc nó. 8Xin đừng đổ tội của cha ông chúng con lại trên chúng con; nguyện các việc làm nhân từ của Chúa giáng đến trên chúng con, vì chúng con thật hèn mọn.
9Hỡi Đức Chúa Trời của sự cứu rỗi chúng con, xin cứu giúp chúng con, vì vinh quang danh Ngài; vì danh Chúa, xin cứu chúng con và tha tội chúng con. 10Vì sao các dân hỏi: “Đức Chúa Trời chúng nó đâu rồi?” Nguyện Chúa báo thù các dân về máu đã đổ ra của đầy tớ Ngài trước mặt chúng con.
11Nguyện tiếng rên siết của các tù nhân thấu đến trước Chúa; xin Chúa bởi quyền năng Ngài giữ cho những kẻ phải mang án tử được sống. 12Lạy Chúa, xin hãy báo trả gấp bảy lần vào lòng của các lân bang chúng con số những lời mà họ đã nhục mạ Chúa.
13Như vậy chúng con đây, vốn là dân Ngài và chiên của đồng cỏ Ngài, sẽ cảm tạ Chúa mãi mãi. Chúng con sẽ truyền tụng lại các lời ca ngợi Chúa cho mọi thế hệ. 801Hỡi Đấng chăn giữ Y-sơ-ra-ên, Đấng dẫn dắt Giô-sép như đàn chiên; hỡi Đấng ngự trên chê-ru-bim, xin hãy chiếu sáng trên chúng con!2Trước mặt Ép-ra-im, Bên-gia-min và Ma-na-se, xin hãy giục giã quyền năng Ngài; xin hãy đến cứu chúng con.
3Đức Chúa Trời ôi, xin hãy phục hồi chúng con; xin Chúa chiếu sáng mặt Ngài trên chúng con, thì chúng con sẽ được cứu. 4Hỡi Đức Chúa Trời các đạo binh, Chúa sẽ giận dân Ngài khi họ cầu nguyện cho đến bao giờ?
5Chúa đã nuôi họ bằng bánh giọt lệ và ban thật nhiều nước mắt cho họ làm thức uống.
6Chúa khiến chúng con trở thành đối tượng cho người ta bàn tán, và các kẻ thù chúng con cười nhạo chúng con giữa vòng chúng nó. 7Lạy Đức Chúa Trời các đạo binh, xin hãy phục hồi chúng con; xin chiếu sáng mặt Chúa trên chúng con, thì chúng con sẽ được cứu.
8Chúa đem một cây nho ra khỏi Ai Cập; Chúa đuổi các dân đi rồi trồng nó xuống. 9Chúa phát quang mãnh đất cho nó; nó đâm rễ và mọc ra khắp cả xứ.
10Các núi được bóng nó che kín; các cây hương nam cao nhất của Đức Chúa Trời được nhánh nó phủ bao.
11Các nhánh nó vươn ra tận biển, các chồi nó đến tận sông Ơ-phơ-rát. 12Sao Chúa lại phá đổ các vách thành nó để mọi kẻ đi qua bẻ trái nó?
13Lũ lợn lòi từ trong rừng ra phá nát nó, và gấu ngoài đồng đến ăn nó. 14Hỡi Đức Chúa Trời các đạo binh, hãy trở lại; từ trên trời, xin Chúa nhìn xuống, để ý và chăm sóc cây nho này.
15Đây là gốc mà tay phải Chúa đã trồng, là chồi mà Chúa đã làm cho lớn lên.
16Nó bị đốt cháy và đốn hạ; nguyện các kẻ thù nghịch Chúa tiêu vong vì bị Ngài quở phạt. 17Nguyện tay Chúa cứ ở trên kẻ vốn là tay phải của Ngài; trên con người mà Ngài đã khiến mạnh mẽ cho Ngài.
18Rồi chúng con sẽ không lìa bỏ Chúa; xin khiến chúng con hồi sinh, rồi chúng con sẽ cầu khẩn danh Ngài. 19Hỡi Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời các đạo binh, xin phục hồi chúng con, thì chúng con sẽ được cứu. 811Hãy lớn tiếng chúc tụng Đức Chúa Trời là sức lực của chúng ta; hãy lớn tiếng reo vui cho Đức Chúa Trời của Gia-cốp.2Hãy hát một bài ca và vỗ trống lắc, khảy đàn lia du dương cùng đàn hạc.
3Hãy thổi kèn vào ngày trăng mới, vào ngày trăng tròn, khi kỳ lễ lạc khởi đầu. 4Vì đây là luật dành cho Y-sơ-ra-ên, là nghị định do Đức Chúa Trời của Gia-cốp ban ra.
5Chúa ban hành luật ấy như một quy định trong Giô-sép khi Ngài đối địch với xứ Ai Cập, nơi tôi chẳng hiểu thứ tiếng mình nghe. 6“Ta đã lấy đi gánh nặng khỏi vai nó; tay nó không còn phải khiêng thúng.
7Trong cơn gian truân, ngươi kêu cứu, và Ta đã giúp đỡ ngươi; từ đám mây giông đen kịt, Ta đã đáp lời ngươi; tại vùng nước Mê-ri-ba, Ta đã thử ngươi. Sê-la 8Hỡi dân Ta, hãy nghe, vì Ta sẽ cảnh báo các ngươi; hỡi Y-sơ-ra-ên, ước gì ngươi chịu nghe Ta!9Chớ có thần lạ giữa vòng các ngươi; các ngươi không được thờ phụng bất kỳ thần ngoại quốc nào.
10Ta là Đức Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi, Đấng đem các ngươi ra khỏi xứ Ai Cập. Hãy há hoác miệng ra, thì Ta sẽ làm cho đầy. 11Nhưng dân Ta chẳng chịu nghe lời Ta; Y-sơ-ra-ên chẳng vâng lời Ta.
12Vậy nên Ta đã bỏ mặc chúng đi theo đường lối ương ngạnh mình để chúng có thể làm điều mình tưởng là phải. 13Ôi, ước gì dân Ta chịu nghe Ta; ôi, ước gì dân Ta bước đi trong các đường lối Ta.
14Khi đó Ta sẽ nhanh chóng buộc kẻ thù của chúng phải khuất phục và trở tay Ta nghịch cùng những kẻ áp bức chúng. 15Nguyện kẻ nào ghét Đức Giê-hô-va phải sợ khúm núm trước mặt Ngài! Nguyện chúng bị sỉ nhục mãi mãi!
16Ta sẽ lấy lúa mì tốt nhất mà nuôi Y-sơ-ra-ên; Ta lấy mật ong từ vầng đá khiến chúng thỏa nguyện.” 821Đức Chúa Trời đứng trong hội đồng thiên thượng; Ngài thi hành sự phán xét giữa các thần.2Các người sẽ còn xét xử bất công và thiên vị kẻ ác bao lâu nữa? Sê-la 3Hãy bênh vực người nghèo và kẻ mồ côi, hãy bảo vệ quyền lợi của người khổ sở, túng ngặt.4Phải giải thoát kẻ nghèo thiếu; hãy cứu họ ra khỏi tay bọn ác nhân. 5Chúng chẳng biết, cũng chẳng hiểu gì; chúng rảo quanh trong bóng tối; mọi nền móng trái đất đều đổ sập. 6Tôi nói: “Các người là thần, các người đều là con trai của Đấng Chí Cao.
7Dầu vậy, các người sẽ chết như phàm nhân, và sa ngã như một trong các vua chúa.” 8Đức Chúa Trời ôi, xin hãy trỗi dậy phán xét trái đất, vì Chúa sẽ thừa hưởng muôn dân làm cơ nghiệp. 831Lạy Đức Chúa Trời, xin chớ nín lặng! Đức Chúa Trời ôi, xin Chúa đừng làm ngơ chúng con và cứ mãi bất động.2Kìa, các kẻ thù của Chúa đang náo động, những kẻ ghét Chúa đã ngóc đầu lên. 3Chúng nó bàn mưu chống lại dân Chúa và cùng toan tính nghịch lại những kẻ được Ngài chở che.
4Chúng bảo nhau: “Chúng ta hãy đến hủy diệt cả dân tộc chúng nó. Rồi danh Y-sơ-ra-ên sẽ chẳng được ai nhớ đến nữa.”
5Chúng đã cùng nhau mưu tính với một chiến lược; ấy là để chống lại Chúa mà chúng thành lập liên minh. 6Nào là dân Ê-đôm cùng người Ích-ma-ên, người Mô-áp với dân Ha-ga-rít, cùng mưu tính với
7Ghê-banh, Am-môn, A-ma-léc; cũng có cả Phi-li-tin và dân cư Ty-rơ.8A-si-ri cũng liên kết với chúng nó; chúng hỗ trợ con cháu Lót. Sê-la 9Xin Chúa xử chúng như Chúa đã làm với Ma-đi-an, như Ngài đã xử Si-sê-ra, và Gia-bin tại sông Ki-sôn.10Chúng nó bị tiêu vong tại Ên-đô-rơ và ra như phân trên đất. 11Xin Chúa khiến giới quyền quý của chúng ra giống như Ô-rếp và Xê-ép, và hết thảy các quan tướng chúng ra giống như Xê-bách và Xanh-mu-na.
12Chúng bảo: “Chúng ta hãy đoạt lấy cho mình các đồng cỏ của Đức Chúa Trời.” 13Đức Chúa Trời của con ôi, xin hãy khiến chúng ra giống như đám bụi xoáy, như trấu trước cơn gió,
14như lửa thiêu hủy rừng, như ngọn lửa đốt cháy các núi.15Xin dùng cơn gió mạnh của Chúa đuổi theo chúng nó, và giáng bão tố của Ngài để chúng kinh sợ. 16Xin khiến chúng phải hổ mặt để chúng biết tìm kiếm danh Ngài.
17Nguyện chúng bị mắc cỡ và kinh hoảng đời đời; nguyện chúng bị diệt vong một cách đáng xấu hổ. 18Rồi, hỡi Đức Giê-hô-va, chúng sẽ biết rằng chỉ có Chúa là Đấng Chí Cao trên khắp cả đất. 841Hỡi Đức Giê-hô-va của các đạo binh, nơi Chúa ngự thật đáng yêu!2Con khao khát được ở trong sân đền của Đức Giê-hô-va, nỗi khát khao ấy của con khiến mình kiệt sức. Lòng cùng cả con người con kêu xin Đức Chúa Trời hằng sống. 3Hỡi Đức Giê-hô-va của các đạo binh, là Vua, cũng là Đức Chúa Trời của con, thậm chí chim sẽ cũng kiếm được chỗ ở, và chim nhạn cũng tìm được tổ để sinh con gần các bàn thờ của Chúa.
4Phước thay cho kẻ được ở trong nhà Chúa; họ luôn ca ngợi Chúa. Sê-la 5Phước cho người có được sức lực trong Chúa, người có lòng hướng về đường dẫn đến Si-ôn.6Khi đi qua thung lũng khóc lóc, họ kiếm được các suối nước uống. Mưa sớm bao phủ nó bằng các vũng nước. 7Họ đi sức lực càng thêm lên; hết thảy họ đều ra mắt Đức Chúa Trời tại Si-ôn.
8Lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các đạo binh, xin nghe lời con cầu nguyện; hỡi Đức Chúa Trời của Gia-cốp, xin Chúa lắng nghe lời con nói đây! Sê-la
9Đức Chúa Trời ôi, xin canh giữ thuẫn khiên của chúng con; xin Chúa quan tâm đến kẻ chịu xức dầu của Ngài.10Vì một ngày trong sân đền Chúa quý hơn cả ngàn ngày ở nơi khác. Con thà làm kẻ giữ cửa trong nhà Đức Chúa Trời mình hơn là sống trong lều trại kẻ ác. 11Vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời là mặt trời và thuẫn che chúng con; Đức Giê-hô-va sẽ ban ân sủng và vinh quang; Ngài chẳng từ chối điều tốt lành nào đối với kẻ bước đi cách chính trực.
12Hỡi Đức Giê-hô-va các đạo binh, phước cho người tin cậy Chúa. 851Hỡi Đức Giê-hô-va, Chúa đã tỏ ơn cho xứ Ngài; Chúa đã phục hồi sự hưng vượng của Gia-cốp.2Chúa đã tha tội cho dân Ngài; Chúa đã phủ lấp mọi tội lỗi họ. Sê-la 3Chúa đã rút lại hết cơn thạnh nộ Chúa; Chúa đã bỏ đi cơn nóng giận của Ngài.4Hỡi Đức Chúa Trời của sự cứu rỗi chúng con, xin hãy phục hồi chúng con, và bỏ qua nỗi bực dọc của Chúa đối với chúng con.
5Chúa sẽ giận chúng con mãi mãi sao? Phải chăng Chúa sẽ cứ giận như vậy suốt các thế hệ tương lai? 6Chúa không khiến chúng con được hồi sinh, để rồi dân Chúa sẽ vui mừng về Ngài hay sao?
7Đức Giê-hô-va ôi, xin hãy tỏ cho chúng con lòng thành tín Ngài; xin ban cho chúng con sự cứu rỗi của Ngài. 8Tôi sẽ nghe điều Đức Giê-hô-va phán bảo, vì Ngài sẽ làm hòa với dân Ngài, tức những kẻ trung tín theo Ngài. Nhưng họ không được quay trở lại các đường lối ngu dại.
9Hẳn sự cứu rỗi của Chúa gần với kẻ kính sợ Ngài; rồi vinh quang sẽ tiếp tục ở trong xứ chúng ta. 10Sự thành tín và chân thật đã gặp nhau; sự công chính và bình an đã hôn nhau.
11Sự chân thật sẽ từ đất mọc lên, và chiến thắng sẽ từ trên trời nhìn xuống. 12Thật, Đức Giê-hô-va sẽ ban phước lành và xứ chúng ta sẽ sinh huê lợi.
13Sự công chính sẽ đi trước mặt Chúa và mở đường cho các bước Ngài. 861Đức Giê-hô-va ôi, xin hãy nghe và đáp lời con, vì con nghèo nàn và bị áp chế.2Xin Chúa bảo vệ con vì con trung tín; Đức Chúa Trời của con ôi, xin cứu một kẻ tôi tớ biết tin cậy Ngài. 3Lạy Chúa, xin thương xót con, vì con kêu cầu Chúa trọn cả ngày.
4Xin khiến kẻ tôi tớ Chúa vui sướng vì, hỡi Chúa, chính Ngài là Đấng con cầu nguyện. 5Chúa ôi, Ngài nhân từ và sẵn sàng tha thứ, Ngài tỏ lòng khoan dung lớn cho mọi kẻ kêu cầu Ngài.
6Đức Giê-hô-va ôi, xin lắng nghe lời cầu nguyện của con; xin Chúa hãy nghe các lời con cầu xin.
7Trong ngày gặp gian truân con kêu cầu Chúa, vì Ngài sẽ đáp lời con. 8Chúa ôi, giữa vòng các thần, chẳng có ai sánh được với Chúa. Chẳng có việc nào giống như các việc Chúa làm.
9Chúa ôi, tất cả các dân mà Chúa đã tạo ra sẽ đến cúi mình trước mặt Chúa. Họ sẽ tôn kính danh Chúa. 10Vì Chúa thật vĩ đại và làm những việc kỳ diệu; chỉ một mình Ngài là Đức Chúa Trời.
11Đức Giê-hô-va ôi, xin dạy con các đường lối Ngài. Rồi con sẽ bước đi trong chân lý Ngài. Xin cho con cứ mãi một lòng tôn kính Chúa.
12Hỡi Chúa là Đức Chúa Trời của con, con sẽ ca ngợi Chúa bằng cả tấm lòng; con sẽ tôn vinh danh Ngài mãi mãi. 13Vì lòng thành tín Chúa đối với con thật lớn; Chúa đã giải cứu mạng sống con khỏi các vực sâu âm phủ.
14Đức Chúa Trời ôi, kẻ kiêu ngạo đã nổi lên chống nghịch con. Một bọn người hung bạo tìm hại mạng sống con. Chúng chẳng biết tôn kính Chúa. 15Nhưng, Chúa ôi, Ngài là Đức Chúa Trời nhân từ, bao dung, chậm giận, giàu lòng thành tín và chân thật.
16Xin đoái xem con và thương xót con; xin ban sức lực cho kẻ tôi tớ Chúa; xin hãy cứu con trai của đầy tớ gái Ngài.
17Xin tỏ cho con dấu hiệu về ơn Chúa. Rồi những kẻ ghét con sẽ thấy và bị xấu hổ vì, hỡi Đức Giê-hô-va, Chúa đã cứu giúp con và yên ủi con. 871Thành của Chúa được lập vững trên núi thánh.2Đức Giê-hô-va yêu mến các cổng Si-ôn hơn mọi lều trại của Gia-cốp.
3Hỡi thành của Đức Chúa Trời, người ta nói những điều thật tuyệt vời về ngươi. 4Tôi nhắc đến Ra-háp và Ba-by-lôn cho những kẻ theo mình. Kìa, có Phi-li-tin và Ty-rơ, cùng với Ê-thi-ô-bi. Kẻ này sinh ra tại đó. 5Về Si-ôn, người ta sẽ nói: “Mỗi kẻ trong số này được sinh ở đó, và chính Đấng Chí Cao sẽ vững lập nó.”
6Khi ghi các dân vào sổ bộ, Đức Giê-hô-va lưu ý: “Kẻ này sinh ra tại đó.” Sê-la 7Cũng vậy, những kẻ ca hát và những kẻ nhảy múa nói: “Mọi suối nước tôi đều ở trong người.” 881Hỡi Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của sự cứu rỗi con, ngày đêm con kêu cầu trước mặt Chúa.2Xin Chúa nghe lời cầu nguyện con; xin để ý tiếng kêu khóc của con. 3Vì con đầy nỗi gian truân và mạng sống con đã xuống tận âm phủ.
4Người ta xử với con như với những kẻ đi xuống huyệt; con là người chẳng còn sức lực gì. 5Con bị bỏ giữa vòng kẻ chết; con chẳng khác chi người chết ở trong mồ mà Chúa chẳng còn quan tâm vì bị cắt đứt khỏi quyền năng Chúa.
6Chúa để con ở đáy vực, tại những chỗ tối tăm, sâu thẳm. 7Cơn giận Chúa đè nặng trên con, các cơn sóng của Chúa quét qua con. Sê-la 8Vì Cớ Chúa mà những người thân quen tránh né con. Chúa đã biến con thành cảnh tượng gây sửng sốt. Con bị vây hãm không thoát ra được.9Mắt con yếu đi vì hoạn nạn; suốt ngày con kêu la cùng Chúa.
10Chúa sẽ vì kẻ chết mà làm phép lạ sao? Người đã chết có đứng lên ca ngợi Chúa không? Sê-la 11Sự thành tín Chúa có được công bố trong mồ mả, hoặc lòng trọn thành của Chúa có được rao ra trong cõi chết chăng?12Phải chăng các việc kỳ diệu của Chúa sẽ được biết trong chốn tối tăm, sự công chính Chúa được nhận ra trong chỗ quên lãng? 13Nhưng, Đức Giê-hô-va ôi, con kêu cầu Chúa; vào buổi sáng, lời cầu nguyện con đến trước mặt Ngài.
14Đức Giê-hô-va ôi, sao Ngài khước từ con? Vì sao Chúa giấu mặt khỏi con? 15Từ thuở niên thiếu con luôn chịu hoạn nạn và cứ suýt chết. Con phải chịu những kinh hoàng từ nơi Chúa; con chẳng làm gì được.
16Các hành động nóng giận của Chúa đã tràn qua con, các việc làm kinh khiếp của Chúa hủy diệt con. 17Chúng chẳng khác nào nước suốt ngày bao phủ con; chúng đều vây bọc lấy con.
18Chúa đã cất đi hết mọi bè bạn và người quen biết con. Con chỉ còn bóng tối làm kẻ thân quen. 891Con sẽ mãi mãi hát xướng về các việc làm thành tín của Đức Giê-hô-va. Con sẽ rao ra sự chân thật của Chúa cho các thế hệ tương lai.2Vì con đã nói: “Sự thành tín đã được thiết lập đời đời; lòng chân thật của Chúa đã vững lập trên các tầng trời.” 3“Ta đã lập giao ước với kẻ được chọn của Ta, Ta đã thề hứa với Đa-vít tôi tớ Ta.
4Ta sẽ lập dòng dõi con đến đời đời, và Ta sẽ vững lập ngai con trải mọi thế hệ.” Sê-la 5Hỡi Đức Giê-hô-va, các tầng trời ca ngợi những việc kỳ diệu của Ngài; sự chân thật của Ngài được ca tụng trong hội những người thánh.6Vì trên trời có ai sánh được với Đức Giê-hô-va? Giữa vòng con trai các thần, có ai giống như Đức Giê-hô-va? 7Ngài là Đức Chúa Trời được hết mực tôn kính trong hội đồng những người thánh và đáng sợ giữa vòng mọi người quanh Ngài.
8Hỡi Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của các đạo binh, có ai mạnh mẽ như Ngài đâu, hỡi Chúa? Sự chân thật bao quanh Ngài. 9Chúa chế ngự biển dữ; khi các lớp sóng dâng tràn, Ngài khiến chúng lặng yên.
10Chúa chà nát Ra-háp như xác chết. Chúa dùng cánh tay mạnh mẽ đánh tan tác kẻ thù. 11Các tầng trời thuộc về Chúa, và đất cũng vậy. Chúa tạo dựng thế giới cùng mọi vật trong đó.
12Chúa làm nên phương bắc cùng phương nam. Núi Tha-bô và Hẹt-môn vui mừng trong danh Ngài. 13Chúa có cánh tay quyền năng, bàn tay mạnh mẽ, và bàn tay phải Ngài đưa cao lên.
14Sự công chính và lẽ phải là nền tảng của ngôi Chúa. Sự thành tín và chân thật đi trước mặt Chúa. 15Thật phước cho người phụng thờ Ngài! Hỡi Đức Giê-hô-va, họ bước đi trong ánh sáng của mặt Chúa.
16Trọn ngày họ vui mừng trong danh Chúa, và bằng sự công chính của Chúa họ tôn cao Ngài. 17Chúa là sức lực oai phong của họ, và nhờ ơn Chúa chúng con đắc thắng.
18Vì thuẫn che chúng con thuộc về Đức Giê-hô-va; vua chúng là Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên. 19Thuở xưa Chúa phán với những người trung tín của Ngài trong khải tượng; rằng: “Ta đã phong vương một người mạnh mẽ; Ta đã cất nhắc một kẻ được chọn giữa vòng dân chúng.
20Ta đã lựa chọn tôi tớ Ta là Đa-vít; Ta đã xức dầu thánh Ta cho người.
21Bàn tay ta sẽ nâng đỡ người; cánh tay ta sẽ khiến người mạnh mẽ.
22Sẽ chẳng có kẻ thù nào lừa dối người; sẽ chẳng có con trai gian ác nào áp chế người.
23Ta sẽ chà nát quân thù trước mặt người; Ta sẽ giết chết những kẻ oán ghét người. 24Sự chân thật và sự thành tín Ta sẽ ở cùng người; bởi danh Ta người sẽ được thắng.
25Ta sẽ đặt tay người trên biển, và tay phải người trên các sông.
26Người sẽ kêu ta: ‘Chúa là Cha của con, là Đức Chúa Trời con, và là vầng đá cứu rỗi con.’ 27Ta cũng sẽ đặt người làm trưởng nam Ta, làm vị vua được tôn cao nhất trong các vua trên đất.
28Ta sẽ đãi người bằng sự thành tín Ta cho đến đời đời; giao ước Ta với người sẽ được vững chắc
29Ta sẽ khiến dòng dõi người còn lại đời đời, và ngôi người sẽ trường tồn như bầu trời trên cao.30Nếu con cháu người từ bỏ luật pháp Ta và bất tuân các nghị định của Ta,
31nếu chúng vi phạm các luật lệ Ta và không giữ theo các mạng lệnh Ta,32Ta sẽ dùng roi gậy phạt lòng bội nghịch chúng, dùng đòn vọt trừng trị tội lỗi chúng.33Nhưng Ta sẽ không cất đi sự thành tín Ta đối với người, hoặc phản bội lời thề hứa của mình.
34Ta sẽ không vi phạm giao ước Ta, chẳng thay đổi lời môi miệng Ta đã phán. 35Bởi sự thánh khiết mình, Ta đã thề hứa một lần dứt khoát – Ta sẽ không nói dối với Đa-vít:
36dòng dõi người sẽ còn lại mãi mãi và ngôi người sẽ dài lâu như mặt trời trước mặt Ta.37Nó sẽ được vững lập đời đời như mặt trăng, là nhân chứng trung tín trên bầu trời.” Sê-la 38Nhưng Chúa đã khước từ, loại bỏ; Chúa đã cưu giận với vua được Ngài xức dầu.39Chúa đã từ bỏ giao ước của tôi tới Ngài. Chúa đã vứt bỏ mão miện người xuống đất.
40Chúa đã phá đổ hết tường thành của người. Các đồn lũy người Ngài khiến tang hoang. 41Mọi kẻ qua lại đều cướp bóc người. Người trở thành kẻ đáng tởm đối với các láng giềng.
42Chúa đã nâng tay phải của các kẻ thù người lên; Chúa đã khiến mọi kẻ thù người vui mừng.
43Chúa bẻ ngược lưỡi gươm người và chẳng giúp người trụ được khi lâm chiến. 44Vẻ rực rỡ người Chúa đã kết liễu; Chúa hạ bệ ngôi người xuống đất.
45Chúa rút ngắn số ngày thanh xuân người. Chúa khiến người mang lấy xấu hổ. Sê-la 46Còn bao lâu nữa, hỡi Đức Giê-hô-va? Phải chăng Ngài sẽ ẩn mặt mãi mãi? Cơn giận của Chúa sẽ còn bùng cháy bao lâu nữa?47Ôi, xin Chúa hãy nhớ thời gian của con ngắn ngủi biết bao, và Chúa đã dựng nên các con loài người hư ảo dường nào!
48Ai có thể sống mãi mà không chết, hoặc tự cứu mình khỏi quyền lực âm phủ? Sê-la 49Chúa ôi, các việc làm thành tín trước đây của Chúa mà Ngài đã lấy lòng chân thật thề hứa với Đa-vít đâu cả rồi?50Lạy Chúa, xin hãy nhớ lại sự nhạo báng mà các tôi tớ Chúa phải chịu, cùng bao nhiêu lời nhục mạ của các dân mà con mang trong lòng?
51Đức Giê-hô-va ôi, các kẻ thù Chúa nhục mạ; chúng nhạo cười các bước của kẻ chịu xức dầu của Chúa. 52Đáng ca ngợi Đức Giê-hô-va đến đời đời. A-men. A-men. 901Quyển Bốn Lời cầu nguyện của Môi-se, người của Đức Chúa Trời. Lạy Chúa, trải suốt mọi thế hệ, Chúa là nơi trú ẩn của chúng con.2Trước khi núi non được hình thành, trước khi Chúa tạo ra trái đất và thế giới, từ đời đời cho đến đời đời, Chúa là Đức Chúa Trời. 3Chúa trả người ta về với cát bụi, và Ngài phán: “Hỡi con cháu loài người, hãy trở về.”
4Vì một ngàn năm trước mắt Chúa như ngày hôm qua, đã qua đi, như một canh trong ban đêm. 5Chúa đùa chúng đi như trong cơn nước lũ và chúng ngủ; ban mai chúng giống như cỏ mới mọc.
6Vào buổi sáng nó nở hoa, tăng trưởng; đến chiều nó héo khô đi. 7Thật, chúng con bị tiêu hao vì cơn giận của Chúa, chúng con kinh khiếp bởi cơn thạnh nộ Ngài.
8Chúa đã đặt các việc ác của chúng con trước mặt Chúa, đặt tội lỗi kín giấu của chúng con trong ánh sáng hiện diện của Ngài. 9Cuộc đời chúng con qua đi dưới cơn giận của Chúa; năm tháng chúng con vụt qua tựa một tiếng thở dài.
10Tuổi thọ chúng con là bảy mươi, thậm chí khỏe mạnh thì được tám mươi; nhưng ngay cả những năm tháng tươi đẹp nhất cũng đầy gian truân, phiền muộn. Thật, chúng qua nhanh và chúng con bay mất đi. 11Ai biết được mức độ của cơn giận Chúa; cơn thạnh nộ Chúa ngang bằng với nỗi sợ hãi nó gây ra.
12Vậy nên xin hãy dạy chúng con biết suy xét cuộc đời mình để chúng con sống khôn ngoan.
13Đức Giê-hô-va ôi, xin Chúa quay trở lại! Sẽ còn bao lâu nữa đây? Xin thương xót các tôi tớ Chúa. 14Vào buổi sáng, xin lấy lòng thành tín Chúa mà thỏa đáp chúng con để chúng con được hân hoan, vui sướng trọn các ngày của mình.
15Xin khiến chúng con vui mừng ứng với số ngày Chúa hành hại chúng con, với số năm chúng con chịu gian khổ.
16Nguyện các tôi tớ Chúa thấy được công việc Chúa, nguyện con cháu chúng con thấy được sự oai nghi của Ngài. 17Nguyện ơn của Chúa là Đức Chúa Trời chúng con ở trên chúng con; xin giúp công việc của tay chúng con được thịnh vượng; đúng vậy, xin hãy khiến công việc tay chúng con được thành công. 911Người nào sống nương mình nơi Đấng Chí Cao sẽ được ở dưới bóng của Đấng Toàn Năng.2Tôi sẽ nói về Đức Giê-hô-va, rằng: “Ngài là nơi nương náu và đồn lũy của tôi, là Đức Chúa Trời tôi, tôi tin cậy Ngài.” 3Vì Ngài sẽ giải cứu ngươi khỏi bẫy của kẻ săn đuổi và khỏi tai họa chết chóc.
4Ngài sẽ lấy cánh Ngài bao phủ ngươi, và dưới cánh Ngài ngươi sẽ tìm được nơi ẩn náu. Sự chân thật của Ngài là các thuẫn, là mộc che chở ngươi. 5Ngươi sẽ không sợ sự hãi hùng ban đêm, hoặc tên bay ban ngày,
6tai họa hoành hành trong đêm tối, hay bệnh tật xảy ra lúc giữa trưa.7Có thể hàng ngàn người sẽ gục ngã cạnh ngươi, cả vạn người ngã chết bên phải ngươi, nhưng nó sẽ không đụng đến ngươi. 8Ngươi chỉ cần để ý rồi sẽ thấy hình phạt dành cho kẻ ác.
9Vì Đức Giê-hô-va là nơi ẩn náu của tôi! Nên ngươi cũng hãy lấy Đấng Chí Cao làm nơi ẩn náu cho mình. 10Sẽ chẳng có điều dữ nào đuổi kịp ngươi; cũng chẳng có hoạn nạn nào đến gần nhà ngươi.
11Vì Chúa sẽ ban lệnh cho thiên sứ Ngài che chở ngươi, bảo vệ ngươi trong mọi bước đường. 12Họ sẽ dùng tay nâng ngươi lên để ngươi khỏi trượt chân và ngã té trên đá.
13Ngươi sẽ chà nát sư tử và rắn hổ lục dưới chân; anh sẽ dẫm đạp lên sư tử tơ và rắn. 14Vì ngươi hết lòng với Ta, nên Ta sẽ giải cứu ngươi. Ta sẽ bảo vệ ngươi vì ngươi trung thành với Ta.
15Khi ngươi kêu cứu Ta, Ta sẽ đáp lại ngươi. Ta sẽ ở với ngươi giữa hoạn nạn; Ta sẽ cho ngươi được thắng và sẽ tôn vinh người.
16Ta sẽ cho ngươi được thỏa mãn sống lâu và tỏ cho ngươi thấy sự cứu rỗi của Ta. 921Thật đáng cảm tạ Đức Giê-hô-va, Đấng Chí Cao, và hát ca ngợi danh Ngài,2buổi sáng công bố sự thành tín Chúa, hằng đêm rao ra sự chân thật Ngài,3bằng đàn hạc mười dây hòa với âm điệu của đàn lia.4Vì, hỡi Đức Giê-hô-va, Chúa đã khiến con vui sướng bởi các việc Ngài làm. Con sẽ hát ca vui mừng vì những công việc của tay Chúa.
5Hỡi Đức Giê-hô-va, các công việc Ngài thật vĩ đại! Các tư tưởng Chúa rất thâm sâu. 6Kẻ đần độn chẳng biết; kẻ ngu dại cũng không hiểu thế này:
7Khi kẻ ác mọc lên như cỏ, thậm chí khi mọi kẻ làm ác đều hưng thịnh, thì chúng vẫn bị định cho sự hủy diệt đời đời.8Nhưng, Đức Giê-hô-va ôi, Chúa sẽ trị vì mãi mãi.
9Thật, hỡi Đức Giê-hô-va, xin hãy nhìn xem các kẻ thù Ngài; mọi kẻ làm ác đã bị tan tác. 10Chúa đã khiến sừng con giương lên như sừng bò rừng; con được xức dầu mới.
11Mắt con đã thấy sự suy tàn của các cừu địch mình; tai con đã nghe về sự diệt vong của quân thù tàn ác. 12Người công chính sẽ phát triển giống như cây kè; họ sẽ tăng trưởng giống như cây bá hương Li-ban.
13Họ được trồng trong nhà của Đức Giê-hô-va; họ lớn lên trong sân đền của Đức Chúa Trời chúng ta. 14Họ sinh trái ngay cả lúc về già, họ cứ tươi xanh mãi,
15để tỏ ra rằng Đức Giê-hô-va là công bình. Ngài là vầng đá của tôi, trong Ngài chẳng có sự bất công. 931Đức Giê-hô-va trị vì; Ngài khoác lên mình vẻ oai nghi; Đức Giê-hô-va mặc lấy sức mạnh; Ngài mang sức mạnh khác nào dây nịt lưng. Thế giới được vững lập; nó không thể bị dịch chuyển.2Ngôi Chúa được lập từ thời cổ; Chúa hằng có từ đời đời. 3Đức Giê-hô-va ôi, các đại dương dâng lên; chúng đã lên tiếng; những cơn sóng đại dương vỗ đập và gào thét.
4Vượt trên nhiều cơn sóng vỗ, những cơn sóng lớn vỗ bờ, Đức Giê-hô-va ngự trên cao quyền năng. 5Các mạng lệnh oai nghiêm Ngài rất đáng tin cậy; hỡi Đức Giê-hô-va, sự thánh khiết trang điểm nhà Ngài đến đời đời. 941Lạy Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời báo ứng, là Đức Chúa Trời báo thù, xin hãy chiếu soi trên chúng con.2Lạy Đấng phán xét trái đất, xin hãy trỗi dậy báo trả xứng đáng bọn kiêu ngạo. 3Đức Giê-hô-va ôi, kẻ ác sẽ còn vui mừng, kẻ ác sẽ còn hân hoan đến bao giờ?
4Chúng tuôn ra toàn lời kiêu căng, thách thức, chúng đều huyênh hoang. 5Đức Giê-hô-va ôi, chúng tiêu diệt chính dân Chúa; chúng gây khốn đốn cho dân tộc đã thuộc về Ngài.
6Chúng giết chết góa phụ và kiều dân, chúng sát hại kẻ mồ côi.
7Chúng bảo: “Đức Giê-hô-va chẳng thấy, Đức Chúa Trời của Gia-cốp chẳng để ý đâu.” 8Hỡi lũ đần độn, các người phải hiểu chứ; này bọn ngu dại, khi nào các người mới chịu học biết đây?
9Đấng làm ra lỗ tai lại không nghe được sao? Đấng tạo thành con mắt lại không nhìn thấy sao? 10Đấng đoán phạt các dân lại chẳng sửa phạt sao? Ngài là Đấng ban sự hiểu biết cho người ta.
11Đức Giê-hô-va biết ý tưởng của loài người, rằng chúng chỉ là đồi bại. 12Đức Giê-hô-va ôi, phước cho kẻ Chúa chỉ dạy cho, tức kẻ được Chúa dạy cho luật pháp Ngài.
13Ngài cho người được yên nghỉ trong thời khốn khổ cho đến khi hầm dành cho kẻ ác đào xong. 14Vì Đức Giê-hô-va sẽ không bỏ dân Ngài hay từ bỏ cơ nghiệp Ngài.
15Vì lẽ công bình sẽ thắng hơn; và mọi người ngay thẳng sẽ noi theo đó.
16Ai sẽ trỗi dậy bảo vệ con trước những kẻ làm dữ? Ai sẽ đứng lên bênh vực con trước kẻ ác? 17Nếu Đức Giê-hô-va không sớm cứu giúp con, thì con đã nằm xuống trong chốn tĩnh lặng.
18Khi con nói: “Chân con trượt ngã” thì, hỡi Đức Giê-hô-va, sự thành tín Chúa đã nâng đỡ con.
19Khi các mối lo âu trong lòng đe dọa phủ lút con, thì sự an ủi Chúa khiến con vui sướng. 20Thể nào kẻ cai trị gian ác, tức kẻ dùng luật lệ tạo ra bất công, lại có thể liên minh với Chúa?
21Chúng cùng lập mưu tước đoạt mạng sống người công chính, chúng kết án tử hình người vô tội. 22Nhưng Đức Giê-hô-va luôn là đồn lũy tôi, Đức Chúa Trời tôi vẫn luôn là vầng đá ẩn náu cho tôi.
23Chúa sẽ báo trả trên chúng chính tội lỗi của chúng, và sẽ diệt mất chúng trong chính sự gian ác của chúng. Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng ta sẽ tiêu diệt chúng. 951Nào, hãy đến, chúng ta sẽ hát ca ngợi Đức Giê-hô-va; chúng ta sẽ hát ca ngợi vầng đá cứu rỗi của mình cách vui mừng.2Hãy bước vào sự hiện diện của Chúa với lòng biết ơn; hãy dùng các thi thiên ca ngợi hát mừng Ngài.
3Vì Giê-hô-va là Đức Chúa Trời cao cả, là Vua lớn trổi vượt hơn mọi thần. 4Các vực sâu của đất ở trong tay Chúa; các đỉnh núi cao thuộc về Ngài.
5Biển thuộc về Chúa, vì Ngài đã làm nên nó, còn đất khô cũng do tay Ngài tạo ra. 6Nào, hãy đến, chúng ta sẽ cúi xuống thờ lạy; chúng ta hãy quỳ xuống trước Đức Giê-hô-va, Đấng Tạo Hóa mình.
7Vì Ngài là Đức Chúa Trời chúng ta, còn chúng ta là dân của đồng cỏ Ngài, là chiên trong tay Ngài. 8“Đừng cứng lòng như tại Mê-ri-ba, hoặc như trong ngày Ma-sa ở hoang mạc,
9khi mà cha ông các ngươi thách thức thẩm quyền Ta và thử lòng kiên nhẫn Ta, cho dầu họ đã chứng kiến các việc Ta làm.10Vì suốt bốn mươi năm Ta cưu giận thế hệ đó và bảo: ‘Đây là dân có lòng lầm lạc; chúng chẳng biết các đường lối Ta.’
11Vì vậy, trong cơn giận, Ta đã thề rằng chúng sẽ chẳng bao giờ được vào nơi yên nghỉ của Ta.” 961Nào, hãy hát cho Đức Giê-hô-va một bài ca mới; hỡi cả trái đất, hãy hát ca ngợi Đức Giê-hô-va.2Hãy hát mừng Đức Giê-hô-va, ca ngợi danh Ngài; hằng ngày hãy công bố sự cứu rỗi của Ngài. 3Hãy tuyên rao vinh quang Chúa giữa các nước, các công việc kỳ diệu của Ngài giữa mọi dân.
4Vì Đức Giê-hô-va thật vĩ đại và rất đáng ca ngợi. Ngài phải được kính sợ hơn mọi thần khác. 5Vì tất cả các thần của các dân đều là hình tượng, trong khi Đức Giê-hô-va là Đấng làm nên các tầng trời.
6Sự rực rỡ và oai nghi ở trước mặt Ngài. Sức mạnh và vẻ đẹp ở trong nơi thánh Ngài. 7Hãy quy cho Đức Giê-hô-va, hỡi các chi tộc trong các dân, hãy quy vinh quang và sức mạnh cho Đức Giê-hô-va.
8Hãy quy cho Đức Giê-hô-va vinh quang xứng đáng với danh Ngài. Hãy đem lễ vật vào các sân đền Ngài. 9Hãy sấp mình xuống thờ lạy Đức Giê-hô-va trước sự rực rỡ thánh khiết của Ngài.
10Hãy nói giữa các nước, rằng: “Đức Giê-hô-va cai trị.” Thế giới cũng được vững lập, không thể rúng động. Chúa phán xét các dân cách công bằng. 11Nguyện các tầng trời vui sướng, nguyện trái đất hân hoan; nguyện biển cả vang tiếng ầm ầm, và mọi vật dưới biển reo lên hoan hỉ.
12Nguyện các đồng ruộng cùng mọi vật trong đó vui mừng. Nguyện mọi cây cối trong rừng lớn tiếng reo vui
13trước mặt Đức Giê-hô-va, vì Ngài sắp ngự đến. Ngài sắp ngự đến đế phán xét trái đất. Ngài sẽ phán xét thế giới bằng sự công chính, phán xét các dân bằng sự thành tín. 971Đức Giê-hô-va cai trị; nguyện đất hoan hỉ; nguyện các vùng duyên hải vui mừng.2Mây và bóng tối bao quanh Ngài. Sự công chính và công bằng là nền móng của ngôi Ngài. 3Lửa đi trước mặt Ngài thiêu đốt các cừu địch Ngài mọi phía.
4Ánh chớp của Ngài thắp sáng thế giới; trái đất thấy và run rẫy.
5Núi non tan chảy như sáp trước mặt Đức Giê-hô-va, Chúa của cả trái đất. 6Bầu trời rao ra sự công bình của Chúa, và mọi dân đều nhìn thấy vinh quang Ngài.
7Mọi kẻ thờ lạy tượng chạm đều sẽ hổ thẹn, tức những kẻ khoe khoang về các hình tượng chẳng ra gì – hỡi hết thảy chư thần các người, hãy sấp xuống trước Chúa đi.
8Đức Giê-hô-va ôi, Si-ôn đã nghe và vui sướng; các thành của Giu-đa đều hân hoan vì các nghị định công chính của Chúa. 9Vì, hỡi Đức Giê-hô-va, Ngài là chí cao trên khắp trái đất. Chúa được tôn cao lên trên hết mọi thần.
10Hỡi các người là kẻ yêu mến Đức Giê-hô-va, hãy ghét điều dữ! Chúa bảo vệ mạng sống của các thánh đồ Ngài, và Ngài cứu họ khỏi tay kẻ ác.
11Ánh sáng tỏa rạng cho người công chính, niềm vui tỏa ra cho kẻ có lòng thành thật. 12Hỡi các người là công chính, hãy vui mừng nơi Đức Giê-hô-va; hãy cảm tạ danh thánh Ngài. 981Ồ hãy hát cho Đức Giê-hô-va một bài ca mới, vì Ngài đã làm những việc kỳ diệu; bàn tay phải Ngài và cánh tay thánh của Chúa đã giúp chúng ta được thắng.2Đức Giê-hô-va đã tỏ sự cứu rỗi của Ngài ra; Chúa đã công khai bày tỏ sự công bình Ngài cho mọi dân tộc. 3Chúa nhớ lại lòng trung nghĩa và thành tín Ngài dành cho nhà Y-sơ-ra-ên; mọi chốn tận cùng trái đất sẽ nhìn thấy chiến thắng của Đức Chúa Trời chúng ta.
4Hỡi cả trái đất, hãy lớn tiếng vui mừng cho Đức Giê-hô-va; hãy bật lên tiếng ca vui mừng, hãy hát ca ngợi Chúa. 5Hãy dùng đàn hạc hát ca ngợi Đức Giê-hô-va, tức đàn hạc cùng bài hát du dương.
6Hãy vui mừng thổi vang kèn với tù và trước mặt Vua là Đức Giê-hô-va. 7Nguyện biển và mọi vật dưới biển, nguyện thế gian và những người sống trong đó đều la lớn tiếng.
8Nguyện các sông đều vỗ tay, và các núi đều reo mừng.
9Đức Giê-hô-va sắp ngự đến phán xét trái đất; Ngài sẽ dùng sự công chính phán xét thế giới, dùng sự công bằng phán xét các dân. 991Đức Giê-hô-va cai trị; các dân hãy run sợ. Ngài ngự trị trên các chê-ru-bim; trái đất rúng động.2Đức Giê-hô-va thật vĩ đại tại Si-ôn; Ngài được tôn lên trên hết các nước.
3Nguyện họ ca ngợi danh lớn đáng sợ của Chúa; Ngài là thánh. 4Vua thật mạnh mẽ, và Ngài yêu mến sự công bình. Chúa đã thiết đặt sự ngay thẳng; Chúa đã tạo ra luật công bình trong Gia-cốp.
5Hãy ca ngợi Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta và thờ phượng nơi bệ chân Ngài. Ngài là thánh. 6Môi-se và A-rôn thuộc trong số các thầy tế lễ Ngài, còn Sa-mu-ên là một trong những kẻ cầu nguyện cùng Ngài. Họ cầu nguyện cùng Ngài, thì Ngài đáp lời họ.
7Ngài phán với họ từ trong trụ mây. Họ gìn giữ các mạng lệnh hệ trọng của Chúa cùng các luật lệ mà Ngài ban cho. 8Lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng con, Chúa đã đáp lời họ. Chúa là Đức Chúa Trời đã tha thứ cho họ, dầu Ngài có hình phạt các việc tội lỗi của họ.
9Hãy ca ngợi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng ta, và thờ phượng tại núi thánh Ngài, vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta là thánh. 1001Hỡi cả trái đất, hãy lớn tiếng reo mừng cho Đức Giê-hô-va.2Hãy lấy lòng vui sướng phục vụ Đức Giê-hô-va; hãy hân hoan ca hát mà đến trước mặt Ngài. 3Phải biết rằng Đức Giê-hô-va là Đức Chúa Trời, và chúng tôi thuộc về Ngài. Chúng tôi là dân Ngài, là chiên của đồng cỏ Ngài. 4Hãy vào các cửa Ngài với tinh thần cảm tạ, hãy vào sân đền Ngài với lời ngợi ca.
5Vì Đức Giê-hô-va là thiện lành; lòng thành tín Chúa hằng còn mãi, lòng chân thật Ngài trải suốt mọi thế hệ. 1011Con sẽ ca hát về sự thành tín và sự công bình; hỡi Đức Giê-hô-va, con sẽ hát ca ngợi Ngài.2Con sẽ bước đi trong con đường chánh trực. Ố, khi nào Chúa mới đến với con? Con sẽ ăn ở cách liêm chính trong nhà mình.
3Con sẽ không để việc sai trái trước mắt con; con ghét điều xấu xa chẳng ra gì; con sẽ không dính dấp với nó. 4Bọn người đồi bại sẽ rời xa con; con không gắn bó với điều ác.
5Con sẽ diệt trừ kẻ nào lén lút vu khống người láng giềng mình. Con sẽ không dung thứ kẻ có hành vi cao ngạo, thái độ kiêu căng.
6Con sẽ để mắt đến người trung tín trong xứ để họ được ngồi cạnh mình. Người bước đi trong con đường chánh trực sẽ được phục vụ con. 7Kẻ quen lừa lọc sẽ không được ở trong nhà con; kẻ nói dối sẽ không được chào đón trong mắt con.
8Mỗi sáng con sẽ diệt hết kẻ ác trong xứ; con sẽ loại trừ mọi kẻ làm dữ khỏi thành của Đức Giê-hô-va. 1021Đức Giê-hô-va ôi, xin hãy nghe lời cầu nguyện của con; xin Chúa nghe lời con kêu cầu Ngài.2Xin Chúa đừng ẩn mặt với con trong lúc con gặp gian truân. Xin hãy lắng nghe con. Khi con kêu Chúa, xin Ngài hãy mau đáp lời con. 3Vì ngày tháng con qua đi như mây khói, còn xương cốt con như lửa cháy.
4Lòng con tan nát, và con chẳng khác nào cỏ đã khô héo. Con quên cả ăn uống. 5Vì cứ mãi rên siết mà con đã gầy đi nhiều.
6Con giống như chim bồ nông nơi hoang mạc; con đã trở nên như chim cú giữa chốn hoang tàn. 7Con nằm thao thức như con chim cô độc, trơ trọi một mình trên mái nhà.
8Suốt ngày kẻ thù nghịch trêu chọc con; những kẻ chế nhạo con dùng tên con để nguyền rủa. 9Con ăn tro bụi như ăn bánh, còn thức uống con thì hòa với nước mắt.
10Trong cơn nóng giận, Chúa đã đem con lên để ném con xuống.11Ngày tháng con như cái bóng phai nhạt, và con khô héo khác nào cỏ.
12Nhưng, hỡi Đức Giê-hô-va, Chúa sống đời đời, và danh tiếng Ngài cứ còn mãi suốt các thế hệ. 13Chúa sẽ trổi dậy và thương xót Si-ôn. Bây giờ là lúc Chúa xót thương nó; thời điểm định cho việc ấy đã đến.
14Vì các tôi tớ Chúa yêu quý viên đá nó và thấy xót thương cho bụi tro hoang tàn của nó.
15Hỡi Đức Giê-hô-va, các dân sẽ kính nể danh Chúa, và mọi vua chúa trên đất sẽ tôn trọng vinh quang Ngài.
16Đức Giê-hô-va sẽ dựng lại Si-ôn và sẽ hiện ra trong vinh quang Ngài. 17Lúc đó, Chúa sẽ đáp lại lời cầu nguyện của những kẻ cơ cực; Ngài sẽ không từ chối lời cầu xin của họ.
18Việc này sẽ được ghi lại cho các thế hệ mai sau, và một dân chưa ra đời sẽ ca ngợi Đức Giê-hô-va. 19Vì từ các nơi cao thánh khiết Chúa đã nhìn xuống; từ trên trời Đức Giê-hô-va đã đoái xem trái đất,
20để nghe lời than vãn của những kẻ tù tội, giải phóng những kẻ bị kết tội chết.21Rồi người ta sẽ công bố danh Đức Giê-hô-va tại Si-ôn, và sự ca ngợi Ngài tại Giê-ru-sa-lem
22khi các dân, các nước nhóm nhau lại để phục vụ Đức Giê-hô-va.23Chúa đã cất đi sức lực con giữa cuộc đời. Ngài đã rút ngắn ngày tháng con.
24Con đã thưa: “Lạy Đức Chúa Trời con, xin đừng cất con đi giữa chừng trong cuộc sống; Chúa hiện hữu trải suốt mọi thế hệ. 25Thuở xưa, Chúa đặt trái đất vào chỗ nó; các tầng trời là công việc của tay Chúa.
26Chúng sẽ tiêu tan, nhưng Chúa sẽ cứ còn mãi; tất cả chúng sẽ cũ đi như chiếc áo; Chúa sẽ thay chúng như thay áo, và chúng sẽ biến mất.
27Nhưng Chúa vẫn y nguyên, các năm Chúa không chấm dứt. 28Con cháu của các tôi tớ Ngài sẽ cứ sống, và dòng dõi họ sẽ được sống trong sự hiện diện của Ngài.” 1031Tôi ca ngợi Đức Giê-hô-va bằng cả đời sống; bằng tất cả những gì mình có, tôi ca ngợi danh thánh Ngài.2Tôi ca ngợi Đức Giê-hô-va bằng cả đời sống tôi; tôi cũng nhớ lại mọi ơn lành của Ngài. 3Ngài tha thứ mọi tội lỗi ngươi; Ngài chữa lành mọi bệnh tật ngươi.
4Ngài cứu chuộc mạng sống ngươi khỏi chốn hủy diệt; Ngài tỏ lòng thành tín và thương xót với ngươi.
5Ngài ban phước lành cho cuộc đời ngươi được thỏa nguyện, để rồi tuổi xuân của ngươi được mới lại như chim đại bàng. 6Đức Giê-hô-va thi hành sự công bằng và làm các việc công chính cho mọi người bị áp bức.
7Ngài tỏ các đường lối Ngài cho Môi-se, các công việc Ngài cho dòng dõi Y-sơ-ra-ên.
8Đức Giê-hô-va đầy lòng thương xót và bao dung; Ngài kiên nhẫn; lòng thành tín Ngài rất lớn. 9Ngài không cứ sửa phạt luôn; Ngài chẳng giận mãi.
10Ngài không đãi chúng con tương xứng với tội lỗi chúng con, không báo trả chúng con điều tội lỗi chúng con đáng phải chịu. 11Vì trời cao hơn đất thế nào thì lòng thành tín Chúa đối với những kẻ tôn kính Ngài cũng lớn thể ấy.
12Phương đông xa cách phương tây bao nhiêu thì Ngài cũng dời sự vi phạm của chúng con cách xa chúng con bấy nhiêu.
13Người cha thương xót con cái mình ra sao thì Đức Giê-hô-va cũng thương xót kẻ tôn kính Ngài giống như vậy. 14Vì Ngài biết chúng con được tạo thành thế nào; Ngài biết chúng con chỉ là cát bụi.
15Về phần con người, ngày tháng của họ giống như cỏ; người tăng trưởng khác nào bông hoa ngoài đồng.
16Gió thổi qua trên bông hoa, thì nó biến mất, chẳng ai nhìn biết nó từng mọc lên chỗ nào. 17Nhưng lòng thành tín của Đức Giê-hô-va đối với những kẻ tôn kính Ngài còn đến đời đời. Sự công chính của Chúa tiếp nối đến tận đời con cháu họ.
18Họ gìn giữ giao ước Chúa và không quên vâng theo sự hướng dẫn của Ngài.
19Đức Giê-hô-va thiết lập ngôi Ngài trên các tầng trời, và nước Ngài cai trị trên mọi người. 20Hãy ca ngợi Đức Giê-hô-va, hỡi các vị là thiên sứ có sức mạnh vâng giữ lời Ngài, luôn tuân hành các mạng lệnh Ngài.
21Hãy ca ngợi Đức Giê-hô-va, hỡi tất cả các đạo binh thiên sứ Ngài, là các kẻ tôi tớ thi hành ý chỉ Ngài.
22Hỡi tất cả tạo vật của Đức Giê-hô-va, hãy ca ngợi Ngài tại mọi nơi Ngài ngự trị. Tôi sẽ ca ngợi Đức Giê-hô-va trọn đời sống tôi. 1041Hỡi Đức Giê-hô-va Đức Chúa Trời của con, con ca ngợi Chúa bằng tất cả sự sống mình; Chúa thật cao cả; Ngài khoác trên mình vẻ rực rỡ, oai nghi.2Chúa bao phủ mình bằng ánh sáng như mặc áo; Chúa giương các tầng trời ra như dựng lều.
3Chúa đặt đòn tay cho các gian phòng Ngài trên mây trời; Chúa dùng mây làm xe; Ngài bước đi trên các cánh gió. 4Chúa dùng gió làm sứ giả Ngài, dùng ngọn lửa làm tôi tớ Ngài.
5Chúa đặt nền móng cho trái đất, và nó sẽ chẳng bao giờ bị dời đổi. 6Chúa dùng nước như chiếc áo bao phủ trái đất; nước bao phủ các ngọn núi.
7Lời Chúa quở trách khiến nước rút đi; nghe tiếng như sấm rền của Chúa chúng chạy trốn. 8Các núi nhô lên, và thung lũng trải ra đúng vào nơi Chúa đã định cho chúng.
9Chúa đã đặt ranh giới cho chúng, để chúng khỏi vượt qua; chúng sẽ không bao phủ đất trở lại. 10Chúa khiến suối đổ vào thung lũng; suối chảy giữa các núi.
11Chúng cung cấp nước cho mọi loài thú đồng; lừa rừng được giải cơn khát.
12Chim xây tổ bên bờ sông; chúng líu lo giữa các nhánh cây. 13Từ các ngăn chứa nước của Chúa trên trời Chúa tưới mát các núi non. Đất tràn ngập hoa quả của công việc Ngài.
14Chúa khiến cỏ mọc lên nuôi gia súc, sinh ra cây cối cho người ta canh tác để từ đất mà có thực phẩm.
15Ngài làm ra rượu để khiến người ta vui vẻ, dầu để khiến mặt họ tươi tắn, và thức ăn để nuôi sống họ. 16Cây cối của Chúa được tưới nước dồi dào; Ngài đã trồng các cây bá hương Li-ban.
17Chim chóc làm tổ mình tại đó. Loài cò biến cây tùng thành chỗ ở nó.
18Loài dê rừng sống trên núi cao; các đỉnh núi là nơi trú ẩn của loài thỏ. 19Chúa định cho mặt trăng đánh dấu các mùa; mặt trời biết giờ lặn nó.
20Chúa tạo nên bóng tối của đêm, là khi mọi loài thú rừng xuất hiện. 21Sư tử tơ gầm thét săn mồi và tìm thức ăn do Đức Chúa Trời ban cho.
22Khi mặt trời mọc, chúng lại rút vào ngủ trong hang. 23Còn loài người lại đi ra làm việc, khó nhọc cho đến chiều tối.
24Đức Giê-hô-va ôi, công việc của Chúa nhiều và đa dạng biết bao! Bằng sự khôn ngoan, Chúa đã làm nên tất cả; trái đất tràn đầy công việc Ngài. 25Kia là biển cả, sâu và rộng, với vô số sinh vật, lớn có, nhỏ có.
26Tàu thuyền đi lại trên đó, và Lê-vi-a-than mà Chúa đã làm ra để chơi đùa dưới biển cũng có ở đó. 27Tất cả đều trông đợi Chúa đến bữa cho chúng ăn.
28Khi Chúa ban cho, chúng kéo đến; khi Ngài sè tay ra, chúng được no nê. 29Khi Chúa ẩn mặt thì chúng bối rối; nếu Chúa thâu hơi thở lại thì chúng chết đi và trở về cát bụi.
30Khi Chúa sai Thần Linh Chúa ra, chúng được tạo dựng và Chúa làm mới lại vùng thôn dã. 31Nguyện vinh quang của Đức Giê-hô-va trường tồn mãi mãi; nguyện Đức Giê-hô-va vui thích các tạo vật của Ngài.
32Chúa nhìn xuống trái đất thì đất run rẩy; Ngài sờ vào núi non thì chúng bốc khói. 33Con sẽ ca hát cho Đức Giê-hô-va trọn đời sống mình; còn sống bao lâu con sẽ hát ca ngợi Đức Chúa Trời con bấy lâu.
34Nguyện các ý tưởng con được đẹp lòng Chúa; con sẽ vui mừng nơi Đức Giê-hô-va. 35Nguyện kẻ phạm tội bị biến mất khỏi đất, nguyện kẻ ác không còn nữa. Con ca ngợi Đức Giê-hô-va suốt cuộc đời mình. Hãy ca ngợi Đức Giê-hô-va. 1051Hãy cảm tạ Đức Giê-hô-va, hãy cầu khẩn danh Ngài; hãy tỏ các công việc Ngài ra giữa các dân.2Hãy hát xướng cho Chúa, hãy hát ca ngợi Ngài; hãy nói đến mọi việc kỳ diệu của Ngài.
3Hãy hãnh diện trong danh thánh Ngài; nguyện lòng của những kẻ tìm kiếm Đức Giê-hô-va được hoan hỷ. 4Hãy tìm kiếm Đức Giê-hô-va cùng sức lực Ngài; hãy luôn tìm kiếm sự hiện diện của Ngài.
5Hãy nhớ lại những việc kỳ diệu Ngài đã làm, những phép lạ cùng các nghị định Ngài truyền phán,
6hỡi các ngươi là dòng dõi Áp-ra-ham, tôi tớ Ngài, hỡi con cháu Gia-cốp, những kẻ Ngài lựa chọn.7Ngài là Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời chúng ta. Các nghị định của Ngài dành cho toàn trái đất.
8Ngài nhớ mãi giao ước của Ngài, tức lời Ngài đã truyền phán cho đến cả ngàn đời. 9Ngài nhớ lại giao ước Ngài đã lập với Áp-ra-ham, lời thề Ngài với Y-sác.
10Đó là điều Ngài đã xác nhận với Gia-cốp như một luật định, xác nhận với Y-sơ-ra-ên như một giao ước đời đời.
11Ngài phán: “Ta sẽ ban cho ngươi Ca-na-an làm phần cơ nghiệp của ngươi.” 12Ngài hứa như vậy khi họ chỉ là số ít và là khách kiều ngụ trong xứ.
13Họ lang thang từ nước này qua nước khác, từ xứ này sang xứ nọ. 14Chúa không cho ai ức hiếp họ; vì cớ họ Ngài quở trách các vua.
15Ngài phán: “Chớ đụng đến những kẻ chịu xức dầu của Ta, không được làm hại các tiên tri Ta.” 16Chúa đem dịch đói đến trong xứ; Ngài cắt hết nguồn lương thực của họ.
17Chúa phái một người đi trước họ; Giô-sép đã bị bán làm tôi mọi. 18Chân người bị cùm; người phải mang xích sắt,
19cho đến khi lời tiên báo của người thành hiện thực. Lời của Đức Giê-hô-va chứng tỏ người đã đúng.20Nhà vua phái đầy tớ thả người ra; kẻ cầm quyền dân chúng phóng thích người.
21Vua đặt người quản lý nhà mình, cai quản mọi tài sản mình,
22để chỉ đạo các quần thần mình, dạy sự thông thái cho các bậc cao niên.23Rồi Y-sơ-ra-ên xuống Ai Cập, và Gia-cốp sống một thời gian trong xứ đó của Cham. 24Đức Chúa Trời khiến số dân Ngài tăng thêm nhiều, cho họ đông hơn số các kẻ thù mình.
25Ngài khiến kẻ thù nghịch căm ghét họ và chúng ngược đãi dân Ngài.
26Ngài sai phái Môi-se, tôi tớ Ngài, cùng A-rôn, người Ngài đã chọn.
27Họ thực hiện các dấu hiệu của Ngài giữa người Ai Cập, các phép lạ Ngài trong xứ của Cham. 28Chúa sai bóng tối đến, khiến xứ đó ra tối tăm, nhưng dân xứ ấy không vâng theo mạng lệnh Ngài.
29Ngài biến nước trong xứ thành ra máu và hại chết cá của chúng.
30Xứ sở chúng, ngay cả trong cung thất của vua quan, đều tràn ngập ếch nhái. 31Chúa phán, thì ruồi muỗi từng đàn kéo đến khắp nơi trong nước.
32Ngài sai mưa với mưa đá cùng sấm sét giáng xuống.
33Ngài hủy diệt cây nho, cây vả của chúng; Ngài bẻ gãy cây cối trong xứ chúng. 34Ngài phán, thì châu chấu kéo đến, rất nhiều châu chấu.
35Châu chấu ăn hết mọi cây xanh trong xứ. Chúng ăn sạch mọi hoa mầu của đất.
36Chúa giết hết các con trưởng trong xứ, tức trái đầu mùa của cả sức lực chúng. 37Chúa cứu dân Y-sơ-ra-ên ra cùng với bạc và vàng; chẳng có chi tộc nào của Chúa bị sẩy chân trên đường.
38Ai Cập vui sướng khi họ ra đi, vì dân Ai Cập sợ hãi họ.
39Chúa giăng một đám mây để che họ và làm một đám lửa để thắp sáng ban đêm. 40Dân Y-sơ-ra-ên đòi thức ăn thì Ngài đưa chim cút đến và cho họ được no nê bánh từ trời.
41Chúa tách vầng đá thì nước ở trong tuôn ra; nước chảy trong hoang mạc giống như sông.
42Vì Chúa nhớ lại lời hứa thánh mà Ngài ban cho tôi tớ Ngài là Áp-ra-ham. 43Chúa dẫn dân Ngài ra cách vui mừng, dắt kẻ lựa chọn của Ngài với tiếng tung hô khải hoàn.
44Ngài ban cho họ xứ sở của các dân; họ chiếm hữu tài sản của các dân ấy,
45để họ gìn giữ các luật lệ và vâng theo luật pháp Ngài. Hãy ca ngợi Đức Giê-hô-va. 1061Hãy ca ngợi Đức Giê-hô-va. Hãy cảm tạ Đức Giê-hô-va, vì Ngài là thiện, lòng thành tín Ngài vẫn còn mãi.2Ai có thể thuật hết các công việc quyền năng của Đức Giê-hô-va hay công bố đầy đủ mọi việc làm đáng ca ngợi của Ngài. 3Phước cho kẻ làm điều phải và việc họ làm luôn công bình.
4Đức Giê-hô-va ôi, xin nhớ đến con khi Chúa làm ơn cho dân Ngài; xin giúp con khi Chúa giải cứu dân Chúa.
5Rồi con sẽ được thấy sự hưng thạnh của kẻ được Chúa chọn, được hoan hỉ về niềm vui sướng của dân Ngài, và hãnh diện cùng với cơ nghiệp Ngài. 6Chúng con đã phạm tội chẳng khác gì tổ phụ mình; chúng con đã làm quấy, chúng con đã làm ác.
7Cha ông chúng con không hiểu hết các việc kỳ diệu của Chúa tại Ai Cập; họ đã phớt lờ đi các việc làm thành tín vốn rất nhiều của Chúa; họ nổi loạn tại biển, tức biển Lau Sậy. 8Nhưng Chúa đã cứu họ vì cớ danh Chúa, để Chúa có thể bày tỏ ra quyền năng Ngài.
9Ngài quở biển Lau Sậy, thì nó cạn khô. Rồi Ngài dẫn họ vượt qua các vực sâu, như qua vùng hoang mạc. 10Chúa cứu họ khỏi tay của những kẻ ghét họ, và giải cứu họ khỏi quyền lực của kẻ thù.
11Nhưng nước lại phủ lấp quân thù họ, chẳng còn lấy một kẻ sống sót.
12Lúc đó họ tin lời Ngài, và họ hát ca ngợi Ngài. 13Nhưng họ liền quên đi việc Ngài đã làm; họ chẳng chờ đợi sự hướng dẫn của Ngài.
14Họ sinh lòng tham muốn vô độ nơi hoang dã và thách thức Đức Chúa Trời trong sa mạc.
15Chúa đáp ứng điều họ cầu xin, nhưng cũng sai một căn bệnh hành hại thân thể họ. 16Trong trại họ ganh tị với Môi-se và A-rôn, thầy tế lễ thánh của Đức Giê-hô-va.
17Đất há ra nuốt chửng Đa-than, chôn vùi đồng bọn của A-bi-ram.
18Lửa bùng lên giữa vòng họ; Ngọn lửa thiêu đốt những kẻ gian ác. 19Họ làm ra một con bê tại Hô-rếp và thờ lạy tượng đúc bằng kim khí.
20Họ đổi vinh quang của Đức Chúa Trời để lấy hình tượng của loài bò ăn cỏ.
21Họ quên Đức Chúa Trời là Cứu Chúa mình, Đấng làm những việc vĩ đại tại Ai Cập. 22Ngài đã làm những việc kỳ diệu trong xứ của Cham, các việc quyền năng tại biển Lau Sậy.
23Nếu Môi-se, kẻ Ngài lựa chọn, không đứng ra can thiệp để cơn thạnh nộ Ngài khỏi hủy diệt Y-sơ-ra-ên, thì hẳn Ngài đã ban lệnh tiêu diệt họ. 24Rồi họ xem thường vùng đất mầu mỡ; họ không tin lời hứa của Chúa,
25mà lằm bằm trong trại mình và không chịu vâng lời Đức Giê-hô-va.26Vậy là Chúa đưa tay Ngài lên thề với họ rằng Ngài sẽ để cho họ chết trong hoang mạc,
27rải con cháu họ ra giữa các dân, khiến họ tản lạc nơi xứ lạ.28Họ thờ lạy Ba-anh Phê-ô và ăn đồ cúng tế người chết.
29Bằng hành động của mình, họ chọc giận Ngài, thế là dịch bệnh bùng phát giữa vòng họ. 30Rồi Phi-nê-a đứng lên can thiệp và bệnh dịch lui đi.
31Việc đó được kể là công chính cho người trải suốt mọi thế hệ cho đến đời đời. 32Họ cũng chọc giận Đức Giê-hô-va tại nguồn nước Mê-ri-ba, và Môi-se đã bị vạ lây vì cớ họ.
33Họ khiến Môi-se thấy cay đắng và ông đã phát ngôn thiếu suy xét.
34Họ không tiêu diệt các dân như Đức Giê-hô-va đã truyền bảo,
35nhưng lại pha trộn với các dân đó mà học theo các đường lối chúng,36và thờ lạy các thần tượng của chúng, vốn trở thành cái bẫy cho họ.37Họ hiến tế con trai, con gái mình cho ma quỷ.
38Họ làm đổ máu vô tội, tức máu của con trai, con gái họ mà họ đã hiến tế cho các tượng thần Ca-na-an, khiến đất ra ô uế vì máu đó.
39Họ trở nên nhuốc nhơ vì việc mình làm; họ giống như phường điếm đĩ trong việc mình làm. 40Vậy nên Đức Giê-hô-va nổi thạnh nộ với dân Ngài, và Ngài coi khinh chính dân mình.
41Ngài phó họ cho các dân, và những kẻ thù ghét họ cai trị họ. 42Kẻ thù đã áp bức họ, và họ buộc phải suy phục thẩm quyền của chúng.
43Nhiều phen Chúa hiện ra cứu giúp họ, nhưng họ cứ mãi bội nghịch và bị hạ thấp bởi tội của chính mình. 44Tuy vậy, khi nghe họ kêu cứu thì Chúa lưu tâm đến tình trạng khốn khổ của họ.
45Chúa nhớ lại giao ước của Ngài với họ và nguôi giận vì lòng thành tín của Ngài.
46Ngài khiến những kẻ chinh phục họ cảm thương họ. 47Hỡi Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của chúng con, xin hãy cứu chúng con. Xin Chúa nhóm chúng con lại từ giữa các dân để chúng con được cảm tạ danh thánh Ngài và hãnh diện mà ca ngợi Ngài.
48Nguyện Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, được ca ngợi từ đời đời cho đến muôn đời. Mọi người đồng thanh: “A-men.” Hãy ca ngợi Đức Giê-hô-va. Quyển Năm. 1071Hãy cảm tạ Đức Giê-hô-va, vì Ngài là thiện, lòng thành tín Ngài còn đời đời.2Nguyện dân được chuộc của Đức Giê-hô-va, tức những kẻ Ngài đã giải cứu khỏi quyền lực của quân thù, hãy lên tiếng.
3Chúa đã thâu nhóm họ lại từ các xứ lạ, từ phương đông, phương tây, phương bắc, phương nam. 4Họ đã lang thang nơi đồng hoang trên một con đường trong sa mạc mà chẳng kiếm được thành nào để vào sống.
5Vì đói khát, nên họ ngất xỉu do kiệt sức.
6Rồi trong lúc gian nan, họ kêu cầu Đức Giê-hô-va, và Ngài giải cứu họ khỏi cảnh hoạn nạn.
7Ngài dẫn họ theo con đường thẳng để họ đến được thành mình sẽ sinh sống. 8Ôi, ước gì người ta sẽ ca ngợi Đức Giê-hô-va về lòng thành tín Ngài cũng như về những việc đáng kinh ngạc mà Ngài đã làm cho loài người.
9Vì Ngài thỏa mãn các ước ao của kẻ khát, còn ước muốn của kẻ đói thì Ngài đáp ứng bằng những vật tốt lành.
10Một số người ở trong tình trạng tối tăm, ảm đạm, bị giam cầm trong hoạn nạn, xiềng xích. 11Đó là vì họ đã phản loạn chống lại lời Đức Chúa Trời và chối từ sự chỉ dạy của Đấng Chí Cao.
12Chúa dùng sự khổ cực hạ lòng họ xuống; họ vấp ngã mà chẳng có ai đỡ dậy.
13Rồi trong cơn gian truân họ kêu cầu Đức Giê-hô-va; và Ngài cứu họ khỏi hoạn nạn. 14Chúa đưa họ ra khỏi cảnh tăm tối, ảm đạm, và bẻ gãy gông cùm của họ.
15Ôi, ước gì người ta ca ngợi Đức Giê-hô-va về lòng thành tín Ngài và về các việc đáng kinh ngạc Ngài đã làm cho loài người!
16Vì Ngài đã đập vỡ cổng đồng và xuyên phá song sắt.17Họ ngu xuẩn trong các đường lối phản loạn và phải khổ sở vì tội lỗi mình.
18Họ chẳng còn thiết ăn uống và gần kề cổng sự chết.
19Khi ấy họ kêu cầu Đức Giê-hô-va trong cơn khốn khó mình, và Ngài cứu họ ra khỏi hoạn nạn. 20Ngài ban lời Ngài và chữa lành cho họ, rồi Ngài cứu họ khỏi cảnh hủy diệt.
21Ôi, ước gì người ta ca ngợi Đức Giê-hô-va về lòng thành tín Ngài và về các việc đáng kinh ngạc Ngài đã làm cho loài người!
22Nguyện họ dâng sinh tế tạ ơn và ca hát mà rao ra các công việc Chúa. 23Một số người đi tàu biển ra kinh doanh ở hải ngoại.
24Những người này chứng kiến công việc của Đức Giê-hô-va cùng các phép lạ của Ngài ngoài biển khơi. 25Vì Ngài ra lệnh thì gió bão nổi lên khuấy động biển cả.
26Họ bị nhấc lên trời cao, rồi lại bị nhận xuống vực thẳm. Sự sống họ tiêu biến trong cảnh khốn cùng.
27Họ lắc lư, loạng choạng như kẻ say rượu và bế tắc. 28Lúc đó họ kêu cầu Đức Giê-hô-va trong cơn khốn khó, và Ngài cứu họ ra khỏi hoạn nạn.
29Ngài khiến cho bão yên, sóng lặng.
30Họ vui sướng vì biển lặng, và Ngài đưa họ đến bến bờ họ muốn đến. 31Ôi, ước gì người ta ca ngợi Đức Giê-hô-va về lòng thành tín Ngài và về các việc đáng kinh ngạc Ngài đã làm cho loài người!
32Nguyện họ tôn cao Ngài giữa hội dân, ca ngợi Ngài giữa hội đồng trưởng lão. 33Ngài biến sông rạch ra hoang mạc, biến suối nước thành đất khô,
34biến một xứ mầu mỡ thành nơi cằn cỗi vì sự gian ác của cư dân nó.35Ngài biến hoang địa ra ao hồ, biến đất khô thành suối nước. 36Ngài cho kẻ đói khát định cư tại đó và họ xây nên thành mà cư trú trong đó.
37Họ xây thành để làm ruộng, trồng vườn nho, và bội thu hoa mầu.
38Ngài ban phước cho họ, khiến họ nên đông đúc. Ngài không để cho đàn gia súc họ giảm sút. 39Họ bị xem thường và suy sụp vì hoạn nạn, đau khổ.
40Ngài trút đổ sự khinh khi lên giới lãnh đạo và khiến họ lang thang trong hoang mạc, ở đó chẳng có đường hướng. 41Nhưng Ngài bảo vệ kẻ thiếu thốn khỏi cảnh khốn khó và chăm sóc gia đình họ như đàn chiên.
42Người ngay thẳng sẽ thấy điều này và vui mừng, còn toàn bộ cái ác phải câm miệng lại.
43Ai khôn ngoan thì phải lưu ý những chuyện này và suy gẫm về các việc làm thành tín của Đức Giê-hô-va. 1081Đức Chúa Trời ôi, lòng con kiên định; con sẽ hát, đúng vậy, con sẽ hát ca ngợi Chúa bằng tấm lòng vinh hạnh của mình.2Đàn luýt cùng đàn hạt, hãy dậy đi; tôi sẽ đánh thức hừng đông. 3Đức Giê-hô-va ôi, con sẽ cảm tạ Ngài giữa các dân; con sẽ hát ca ngợi Ngài giữa các nước.
4Vì lòng thành tín Chúa vĩ đại hơn các tầng trời; lòng chân thật của Chúa vươn đến các tầng mây. 5Hỡi Đức Chúa Trời, nguyện Chúa được tôn cao hơn các tầng trời, và nguyện vinh quang Chúa được tôn cao trên khắp trái đất.
6Xin hãy dùng tay phải Ngài mà giải cứu chúng con và đáp lời con, để những kẻ yêu Chúa được giải thoát. 7Đức Chúa Trời đã phán trong sự thánh khiết Ngài, rằng: “Ta sẽ vui mừng; Ta sẽ phân Si-chem ra và chia phần thung lũng Su-cốt.
8Ga-la-át là của Ta, và Ma-na-se cũng là của Ta; Ép-ra-im là nón bảo vệ đầu Ta; Giu-đa là vương trượng Ta. 9Mô-áp là chậu rửa của Ta; Ê-đôm là chỗ Ta ném giày. Ta sẽ reo mừng chiến thắng vì cớ Phi-li-tin.
10Ai sẽ đưa Ta vào một thành vững chắc? Ai sẽ dẫn Ta đến Ê-đôm?” 11Đức Chúa Trời ôi, Ngài vẫn chưa khước từ chúng con chứ? Chúa chẳng xung trận cùng với quân đội chúng con.
12Xin giúp chúng con chống lại quân thù, vì sự trợ giúp của con người là vô ích.
13Nhờ Chúa giúp đỡ, chúng con sẽ chiến thắng; Chúa sẽ giày đạp kẻ thù của chúng con. 1091Cho các nhạc trưởng. Bài ca của Đa-vít. Lạy Đức Chúa Trời, Đấng con ca ngợi, xin Chúa đừng lặng thinh.2Vì kẻ gian ác và kẻ lừa lọc công kích con; chúng nói những lời dối trá về con.
3Chúng vây quanh con nói những điều đáng ghét, và chúng tấn công con vô cớ. 4Đáp lại lòng yêu thương của con, chúng vu cáo con, nhưng con cầu nguyện cho chúng.
5Chúng lấy điều ác báo lại điều lành con đã làm, và chúng thù ghét lòng yêu thương của con. 6Xin Chúa chỉ định tay gian ác trừng trị một kẻ thù như vậy; xin Chúa đặt để một người cáo tội đứng bên tay phải nó.
7Khi nó bị xử đoán, nguyện nó bị xét là có tội; nguyện lời cầu nguyện nó bị kể là sai trái. 8Nguyện các ngày của nó ít đi; nguyện có một người khác thế chỗ của nó.
9Nguyện con cái nó mồ côi cha, nguyện vợ nó trở thành góa phụ.
10Nguyện con cái nó phải lang bạc xin ăn khi chúng rời bỏ nơi ở đổ nát của mình. 11Nguyện chủ nợ xiết hết mọi vật nó sở hữu; nguyện kẻ xa lạ chiếm đoạt những gì nó kiếm được.
12Nguyện đừng có ai tỏ lòng tử tế với nó; nguyện chẳng người nào thương xót con cái mồ côi của nó.
13Nguyện các con nó bị diệt mất; nguyện tên tuổi chúng nó sẽ bị xóa sạch trong thế hệ kế tiếp. 14Nguyện tội của cha ông nó bị nhắc đến trước mặt Đức Giê-hô-va; nguyện tội của mẹ nó không bị quên đi.
15Nguyện tội lỗi chúng luôn ở trước mặt Đức Giê-hô-va; nguyện Đức Giê-hô-va xóa sạch khỏi đất ký ức về chúng.
16Nguyện Đức Giê-hô-va làm vậy vì con người đó không quan tâm bày tỏ sự thành tín, nhưng lại hạch sách cho đến chết kẻ chịu bị áp bức, người thiếu thốn, và kẻ ngã lòng. 17Nó thích nguyền rủa; nguyện lời rủa nó đổ lại trên nó. Nó ghét chúc lành; nguyện đừng có phước lành nào đến với nó.
18Nó mặc cho mình sự nguyền rủa như mặc áo, và lời nguyền rủa nó thấu vào nội tâm nó như nước, như dầu thấm vào xương nó. 19Nguyện các lời nguyền của nó đối với nó giống như áo quần nó mặc để che thân, như dây nịt nó luôn đeo trên người.
20Nguyện đó là sự báo trả mà Đức Giê-hô-va dành cho những kẻ buộc tội con, những kẻ nói hành con. 21Lạy Đức Giê-hô-va là Chúa của con, xin hãy đối đãi nhân từ với con vì cớ danh Ngài. Xin hãy cứu con vì sự thành tín của Ngài thật tốt lành.
22Vì con bị áp bức và thiếu thốn, lòng con bị thương tổn trong con.
23Con phai nhòa giống như bóng chiều tà; con bị giũ đi như con châu chấu. 24Đầu gối con yếu đi vì nhịn ăn; con chỉ còn da bọc xương.
25Con bị những kẻ cáo tội mình khinh thường; chúng lắc đầu khi nhìn thấy con. 26Hỡi Đức Giê-hô-va là Đức Chúa Trời con, xin Chúa giúp con; xin cứu con bởi lòng thành tín của Chúa.
27Nguyện chúng biết rằng đây là việc Chúa làm, rằng chính Ngài, Đức Giê-hô-va, đã làm việc này. 28Dầu chúng nguyền rủa con, nhưng xin Chúa ban phước cho con; khi chúng công kích con, nguyện chúng bị hổ thẹn, và nguyện tôi tớ Chúa vui mừng.
29Nguyện các cừu địch con phải mang lấy nhuốc nhơ; nguyện chúng phải mặc lấy sự hổ thẹn như mặc áo. 30Bằng môi miệng mình, con hết lòng cảm tạ Đức Giê-hô-va; con sẽ ca ngợi Ngài giữa đám đông người.
31Vì Chúa sẽ đứng bên tay phải của người thiếu thốn, để cứu người khỏi những kẻ đoán xét người. 1101Đức Giê-hô-va nói với chúa tôi: “Hãy ngồi bên tay phải Ta cho đến khi Ta biến các kẻ thù thành bệ để chân con.”2Giê-hô-va sẽ từ Si-ôn đưa cây trượng sức mạnh của ngươi ra; hãy cai trị giữa vòng các kẻ thù mình.
3Trong ngày năng lực ngươi, dân ngươi sẽ mặc trang phục thánh mà tình nguyện theo ngươi; từ lúc hừng đông tuổi xuân của ngươi đối với ngươi sẽ như sương móc. 4Đức Giê-hô-va đã thề và sẽ không thay đổi, rằng: “Ngươi là thầy tế lễ đời đời, theo phong cách Mên-chi-xê-đéc.” 5Chúa ở bên tay phải ngươi. Ngài sẽ giết chết các vua trong ngày thạnh nộ mình.
6Ngài sẽ xét xử các dân; Ngài sẽ khiến các chiến trường la liệt xác chết. Ngài sẽ giết giới lãnh đạo ở nhiều nước. 7Ngài sẽ uống nước khe bên đường, rồi Ngài sẽ ngẩng cao đầu sau khi chiến thắng. 1111Hãy ca ngợi Đức Giê-hô-va. Tôi sẽ hết lòng cảm tạ Đức Giê-hô-va giữa hội của người chính trực, khi họ nhóm lại.2Các việc của Đức Giê-hô-va thật vĩ đại, mọi kẻ mong ước những việc ấy đều nô nức chờ đợi.
3Các việc Ngài làm thật uy nghi, vinh hiển, đức công chính Ngài còn đến đời đời. 4Ngài làm những việc kỳ diệu được người ta nhớ đến; Đức Giê-hô-va thật bao dung, nhân từ.
5Ngài ban vật thực cho người trung tín theo Ngài. Ngài luôn nhớ đến giao ước Ngài.
6Ngài tỏ các việc quyền năng cho dân Ngài khi ban cho họ sản nghiệp của các dân. 7Các công việc của tay Ngài đều đáng tin cậy và công bình; mọi hướng dẫn Ngài đều chắc chắn.
8Chúng được vững lập đời đời, cần được vâng giữ cách trọn thành, thỏa đáng.
9Ngài ban chiến thắng cho dân Ngài; Ngài định đặt giao ước Ngài đến đời đời; thánh thay, đáng sợ thay danh Ngài. 10Tôn kính Đức Giê-hô-va là khởi đầu sự khôn ngoan; người nào thi hành các hướng dẫn Ngài được sự thông hiểu. Sự ca ngợi Ngài còn mãi đời đời. 1121Ngợi khen Đức Giê-hô-va. Phước cho người nào vâng lời Đức Giê-hô-va, vui thích về các điều răn Ngài.2Con cháu người sẽ được cường thạnh trên đất; dòng dõi của người kính sợ Đức Chúa Trời sẽ được phước. 3Của cải và sự giàu có ở trong nhà người; sự công chính người còn đến đời đời.
4Ánh sáng chiếu rọi trong bóng tối cho người kính sợ Đức Chúa Trời; người độ lượng, nhân từ, và công bình.
5Hoàn cảnh sẽ thuận lợi cho người nào xử sự cách bao dung và sẵn sàng cho vay mượn, cũng như giải quyết công việc mình cách thành thật. 6Vì người sẽ chẳng bao giờ bị lay động; người công bình sẽ được nhớ đến mãi mãi.
7Người không sợ tin dữ; người vững lòng tin cậy Đức Giê-hô-va. 8Lòng người được thanh thản mà không lo sợ cho đến khi người nhìn xuống kẻ thù của mình cách đắc thắng.
9Người cứu giúp kẻ nghèo thật rộng rãi; sự công chính của người còn lại đời đời; người sẽ được tôn cao cách vinh dự. 10Kẻ ác sẽ thấy như vậy và nổi giận; nó sẽ nghiến răng và tan biến đi; tham vọng của kẻ ác sẽ tiêu mất. 1131Ngợi khen Đức Giê-hô-va. Hỡi các tôi tớ của Đức Giê-hô-va, hãy ca ngợi Ngài; hãy ca ngợi danh Đức Giê-hô-va.2Danh Đức Giê-hô-va đáng chúc tụng, từ nay cho đến đời đời. 3Phải ca ngợi danh Đức Giê-hô-va, từ lúc bình mình cho đến buổi hoàng hôn.
4Đức Giê-hô-va được tôn cao hơn mọi dân mọi nước, vinh quang Ngài vượt hơn cả bầu trời. 5Có ai giống như Đức Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng ta, Đấng ngự ở trên cao,
6nhìn xuống cả trời lẫn đất?7Ngài đỡ người nghèo khó lên khỏi cát bụi, nhấc kẻ thiếu thốn khỏi đống tro,
8và cho người ngồi chung với hàng quyền quý trong dân Ngài.9Ngài ban cho người phụ nữ hiếm muộn trong nhà vị thế giống như người mẹ có con. Ngợi khen Đức Giê-hô-va. 1141Khi Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai Cập, khi nhà Gia-cốp rời khỏi dân ngoại quốc đó,2thì Giu-đa trở nên nơi thánh của Chúa, Y-sơ-ra-ên thành ra vương quốc Ngài.3Biển nhìn và trốn chạy; sông Giô-đanh quay đầu.
4Núi nhảy lên như chiên đực, đồi cả nhót như chiên con. 5Này biển, vì sao ngươi chạy trốn?
6Này, các núi, vì sao các ngươi lại nhảy như chiên đực? Hỡi các ngọn đồi, vì sao các ngươi lại cà nhót như chiên con?
7Hỡi trái đất, hãy run rẫy trước mặt Chúa, trước sự hiện diện của Đức Chúa Trời của Gia-cốp. 8Ngài khiến vầng đá biến thành hồ nước, biến đá cứng thành ra suối nước. 1151Hỡi Đức Giê-hô-va, vì lòng thành tín Chúa và vì đức chân thật của Ngài, sự tôn trọng không thuộc chúng con, không phải của chúng con, mà là thuộc về danh Chúa.2Vì sao các dân thắc mắc: “Đức Chúa Trời chúng nó đâu rồi?” 3Đức Chúa Trời chúng tôi ở trên trời; Ngài làm bất kỳ điều gì vừa ý Ngài.
4Tượng thần của các dân chỉ là bạc và vàng, là sản phẩm của bàn tay con người. 5Chúng có miệng mà không nói được; chúng có mắt mà chẳng thấy gì;
6chúng có tai mà chẳng nghe gì; chúng có mũi nhưng chẳng ngửi được;7Chúng có tay mà không rờ rẫm; chúng có chân mà chẳng bước đi; chẳng có lời từ miệng chúng nó nói ra.8Những kẻ làm ra chúng cũng giống như chúng, mà những kẻ tin cậy chúng cũng vậy. 9Hỡi Y-sơ-ra-ên, hãy tin cậy Đức Giê-hô-va; Ngài là sự cứu giúp và thuẫn che của ngươi.
10Hỡi nhà A-rôn, hãy tin cậy Đức Giê-hô-va, Ngài là sự cứu giúp và thuẫn che ngươi.
11Hỡi những người tôn kính Đức Giê-hô-va, hãy tin cậy Ngài; Ngài là sự cứu giúp và thuẫn che các ngươi. 12Đức Giê-hô-va lưu tâm đến chúng tôi và sẽ ban phước cho chúng tôi; Ngài sẽ ban phước cho gia đình Y-sơ-ra-ên; Ngài sẽ ban phước cho gia đình A-rôn.
13Ngài sẽ ban phước cho người tôn kính Ngài, cả trẻ tuổi lẫn cao niên.
14Nguyện Đức Giê-hô-va khiến cho số các ngươi và con cháu các ngươi cứ ngày càng tăng thêm. 15Nguyện các ngươi được phước của Đức Giê-hô-va, Đấng làm nên trời và đất.
16Các tầng trời thuộc về Đức Giê-hô-va; nhưng trái đất Ngài thì Ngài ban cho con người. 17Kẻ chết không ca ngợi Đức Giê-hô-va, kẻ đi vào cõi im lặng cũng vậy.
18Nhưng chúng ta sẽ chúc tụng Đức Giê-hô-va từ nay cho đến đời đời. Ngợi khen Đức Giê-hô-va. 1161Tôi yêu mến Đức Giê-hô-va vì Ngài nghe tiếng tôi và lời cầu xin ơn thương xót của tôi.2Bao lâu còn sống thì tôi sẽ vẫn kêu cầu Chúa vì Ngài lắng tai nghe tôi. 3Các dây sự chết ràng buộc tôi, bẫy âm phủ đe dọa tôi; tôi thấy đau đớn, buồn rầu.
4Rồi tôi kêu cầu danh Đức Giê-hô-va, rằng: “Đức Giê-hô-va ôi, xin giải cứu mạng sống con.” 5Đức Giê-hô-va nhân từ và công bình; Đức Chúa Trời chúng ta hay thương xót.
6Đức Giê-hô-va bảo vệ người thật thà; tôi bị suy sụp, và Ngài cứu tôi. 7Linh hồn tôi có thể trở về nơi yên nghỉ của nó vì Đức Giê-hô-va đã hậu đãi tôi.
8Vì Chúa giải cứu mạng sống tôi khỏi chết, mắt tôi khỏi đẫm lệ, và chân tôi khỏi vấp ngã. 9Tôi sẽ phục vụ Đức Giê-hô-va trong đất kẻ sống.
10Tôi tin Ngài, thậm chí khi tôi nghĩ: “Mình bị hoạn nạn nặng nề quá.”
11Tôi hấp tấp bảo: “Mọi người đều nói dối.” 12Làm sao tôi có thể báo đáp Đức Giê-hô-va về mọi điều nhân từ Ngài dành cho tôi?
13Tôi sẽ giơ chén cứu rỗi lên và kêu cầu danh Đức Giê-hô-va.
14Tôi sẽ hoàn thành các lời hứa nguyện với Đức Giê-hô-va trước mặt toàn thể dân Ngài.
15Sự chết của các thánh đồ Ngài là quý báu trước mặt Đức Giê-hô-va. 16Đức Giê-hô-va ôi, thật con đây là tôi tớ Ngài; con là tôi tớ Chúa, là con trai của đầy tớ gái Ngài; Chúa đã cất đi xiềng xích của con.
17Con sẽ dâng lên Chúa của lễ tạ ơn và kêu cầu danh Đức Giê-hô-va. 18Tôi sẽ hoàn thành các lời hứa nguyện với Đức Giê-hô-va trước mặt toàn thể dân Ngài,
19trong sân đền của Đức Giê-hô-va, ở chính giữa ngươi, Giê-ru-sa-lem. Ngợi khen Đức Giê-hô-va. 1171Hỡi tất cả các nước, hãy ca ngợi Đức Giê-hô-va; hỡi mọi dân tộc, hãy tôn cao Ngài.2Vì lòng thành tín Ngài thật lớn đối với chúng ta, và sự chân thật của Đức Giê-hô-va còn đến đời đời. Ngợi khen Đức Giê-hô-va. 1181Hãy cảm tạ Đức Giê-hô-va, vì Ngài là thiện lành, vì lòng thành tín Ngài còn đến đời đời.2Nguyện Y-sơ-ra-ên nói: “Lòng thành tín Chúa còn đến đời đời.” 3Nguyện nhà A-rôn nói: “Lòng thành tín Chúa còn đến đời đời.”
4Nguyện những kẻ trung tín với Đức Giê-hô-va nói: “Lòng thành tín Ngài còn đến đời đời.” 5Trong lúc hoạn nạn, tôi kêu cầu Đức Giê-hô-va; Đức Giê-hô-va đáp lời tôi và cho tôi được tự do.
6Đức Giê-hô-va ở cùng tôi; tôi sẽ không sợ hãi; người ta có thể làm gì được tôi?
7Đức Giê-hô-va ở cạnh cứu giúp tôi; tôi sẽ nhìn những kẻ thù ghét mình một cách đắc thắng. 8Thà nương náu mình nơi Đức Giê-hô-va hơn là đặt lòng tin nơi con người.
9Thà nương náu mình nơi Đức Giê-hô-va hơn là nhờ cậy người phàm. 10Tất cả các nước đã vây bọc tôi; nhân danh Đức Giê-hô-va tôi đã tiêu diệt chúng.
11Chúng vây bọc tôi; thật, chúng đã bao vây tôi; nhân danh Đức Giê-hô-va tôi đã tiêu diệt chúng.
12Chúng vây lấy tôi như lũ ong; chúng nhanh chóng tiêu biến như lửa trong bụi gai; nhân danh Đức Giê-hô-va tôi đã tiêu diệt chúng. 13Chúng tấn công tôi để hạ gục tôi, nhưng Đức Giê-hô-va đã giúp đỡ tôi.
14Đức Giê-hô-va là sức mạnh và niềm vui của tôi; Ngài là Đấng giải cứu tôi. 15Người ta có nghe tiếng reo vui chiến thắng trong trại của người công chính; tay phải của Đức Giê-hô-va chinh phục.
16Tay phải của Đức Giê-hô-va đưa cao lên; tay phải của Đức Giê-hô-va làm nên chiến thắng. 17Tôi sẽ không chết đâu, mà sẽ sống để rao ra công việc của Đức Giê-hô-va.
18Đức Giê-hô-va đã sửa phạt tôi cách nghiêm khắc; nhưng Ngài không phó tôi cho sự chết. 19Hãy mở các cửa công chính cho tôi; tôi sẽ vào và sẽ cảm tạ Đức Giê-hô-va.
20Đây là cửa của Đức Giê-hô-va; người công chính sẽ bởi đó mà vào.
21Con sẽ cảm tạ Chúa, vì Ngài đã đáp lời con, và là sự cứu rỗi của con. 22Tảng đá bị các thợ xây loại bỏ đã trở nên tảng đá góc.
23Đây là việc Đức Giê-hô-va làm, là việc diệu kỳ trước mắt chúng ta. 24Đây là ngày mà Đức Giê-hô-va đã hành động; chúng ta sẽ hân hoan, vui sướng trong ngày này.
25Đức Giê-hô-va ôi, xin hãy cho chúng con được thắng! Đức Giê-hô-va ôi, xin hãy cho chúng con được thành công! 26Phước cho người nhân danh Đức Giê-hô-va mà đến; từ nhà của Đức Giê-hô-va chúng tôi sẽ chúc phước cho người.
27Đức Giê-hô-va là Đức Chúa Trời, Ngài ban ánh sáng cho chúng tôi; hãy lấy dây buộc sinh tế vào các sừng của bàn thờ.
28Chúa là Đức Chúa Trời của con, con sẽ cảm tạ Ngài; con sẽ tôn cao Ngài. 29Ồ, hãy cảm tạ Đức Giê-hô-va, vì Ngài là thiện lành; vì lòng thành tín Ngài còn đến đời đời. 1191Phước cho người có đường lối trọn vẹn, bước đi trong luật pháp của Đức Giê-hô-va.2Phước cho người gìn giữ các mạng lệnh hệ trọng của Chúa, hết lòng tìm kiếm Ngài. 3Họ không làm điều trái khuấy, nhưng bước đi trong các đường lối Ngài.
4Chúa đã truyền cho chúng con giữ các hướng dẫn của Ngài, để chúng con cẩn thận tuân hành. 5Ôi, ước gì con kiên định tuân giữ các luật lệ Chúa!
6Rồi con sẽ không bị hổ thẹn khi con suy gẫm về các điều răn Ngài. 7Con sẽ lấy lòng thành cảm tạ Chúa khi con học biết các nghị định công chính của Ngài.
8Con sẽ tuân giữ các luật lệ Chúa; xin đừng bỏ con một mình. BẾT. 9Người trẻ có thể giữ cho đường lối mình thanh sạch bằng cách nào? Bằng cách vâng theo lời Chúa.
10Con hết lòng tìm kiếm Chúa; Xin đừng để con lạc khỏi các điều răn Chúa. 11Con đã cất giữ lời Chúa trong lòng để con khỏi phải tội cùng Chúa.
12Đức Giê-hô-va ôi, Ngài đáng được ca ngợi; xin dạy con các luật lệ Chúa. 13Con dùng môi miệng công bố các nghị định công chính mà Chúa đã truyền ra.
14Con vui mừng về đường lối các nghị định giao ước của Chúa hơn mọi thứ của cải. 15Con sẽ suy gẫm các hướng dẫn của Chúa và lưu ý đến các đường lối Ngài.
16Con vui thích về các luật lệ Chúa; con sẽ không quên lời Chúa. GHI-MEN 17Xin hãy nhân từ với tôi tớ Chúa, để con có thể sống mà giữ lời Chúa.18Xin Chúa mở mắt con, để con thấy được những điều kỳ diệu trong luật pháp Ngài. 19Con đây là ngoại kiều trong xứ; xin đừng giấu con các điều răn Chúa.
20Những khát khao của con tiêu tan vì lòng mong mỏi được biết các phán quyết công bình của Chúa luôn luôn. 21Chúa quở trách kẻ kiêu ngạo, là kẻ bị rủa sả và lầm lạc khỏi các điều răn Chúa.
22Xin giữ con khỏi phải chịu nhuốc nhơ, sỉ nhục, vì con vâng theo các luật lệ giao ước Chúa. 23Dầu giới cai trị bày mưu tính kế và vu khống con, nhưng kẻ đầy tớ Chúa vẫn suy gẫm các luật lệ Chúa.
24Các luật lệ giao ước Chúa là niềm vui thích, cũng là những cố vấn của con. ĐA-LẾT. 25Sự sống con dính chặt vào tro bụi! Xin ban cho con sự sống bởi lời Chúa.
26Con đã cho Chúa biết đường lối con, và Chúa đã trả lời con; xin dạy con các luật lệ Chúa. 27Xin giúp con hiểu đường lối trong sự hướng dẫn của Chúa, để con có thể suy gẫm các lời dạy kỳ diệu của Chúa.
28Con chìm ngập trong nỗi sầu khổ! Xin khiến con mạnh mẽ nhờ lời Chúa. 29Xin xoay hướng con khỏi con đường gian dối; xin rộng lượng dạy con luật pháp Chúa.
30Con đã chọn con đường trung tín; con vẫn luôn giữ các nghị định công chính của Chúa trước mặt mình. 31Con gắn bó với các luật lệ giao ước Chúa; Đức Giê-hô-va ôi, xin đừng để con bị xấu hổ.
32Con sẽ chạy trong đường của các điều răn Chúa, vì Chúa mở rộng lòng con để làm vậy. HE 33Đức Giê-hô-va ôi, xin dạy con đường lối của các luật lệ Chúa, rồi con sẽ gìn giữ cho đến cùng.34Xin ban cho con trí hiểu, rồi con sẽ giữ theo luật pháp Chúa; con sẽ hết lòng tuân giữ nó. 35Xin hãy chỉ dẫn con theo đường lối của các điều răn Chúa, vì con vui thích bước đi trong đó.
36Xin hãy hướng lòng con về các luật lệ giao ước của Chúa, khỏi món lợi bất chính. 37Xin xoay mắt con để khỏi nhìn những thứ vô giá trị; hãy khiến con sống lại theo các đường lối Chúa.
38Xin hãy làm thành cho tôi tớ Chúa lời Ngài đã hứa với những kẻ tôn kính Ngài. 39Xin hãy cất đi những lời thóa mạ khiến con kinh sợ, vì các phán quyết công chính của Chúa là tốt lành.
40Kìa, con đã khát khao sự hướng dẫn của Chúa; xin giữ cho con được sống bằng phán quyết công chính của Chúa. VÁP. 41Đức Giê-hô-va ôi, xin hãy ban cho con tình yêu không dời đổi của Ngài – tức sự cứu rỗi của Chúa, theo như lời hứa Ngài;
42rồi con sẽ đáp lại kẻ chế nhạo con, vì con tin cậy nơi lời Chúa.43Xin đừng cất lời chân lý khỏi miệng con, vì con đã trông đợi các nghị định công chính của Chúa.
44Con sẽ luôn tuân theo luật pháp Chúa, đời đời, mãi mãi. 45Con sẽ bước đi vững chắc, vì con tìm kiếm sự hướng dẫn của Chúa.
46Con sẽ nói về các mạng lệnh hệ trọng của Chúa trước các vua và sẽ không hổ thẹn. 47Con vui thích về các điều răn Chúa mà con rất yêu mến.
48Con sẽ đưa tay lên đón nhận các điều răn Chúa mà con yêu mến; con sẽ suy gẫm các luật lệ Chúa. DÂY-IN. 49Xin Chúa nhớ lại lời Chúa hứa với đầy tớ Ngài, vì Chúa đã ban hy vọng cho con.
50Lời hứa của Chúa đã giữ cho con sống, đó chính là điều an ủi con trong cảnh hoạn nạn. 51Kẻ kiêu ngạo đã chế nhạo con, nhưng con vẫn không bỏ luật pháp Chúa.
52Đức Giê-hô-va ôi, con đã nhớ đến các nghị định công chính từ thời cổ của Chúa, và được an ủi. 53Con đã phải nổi nóng vì bọn ác nhân khước từ luật pháp Chúa.
54Luật lệ Chúa đã là những bài ca của con tại ngôi nhà con tạm trú. 55Đức Giê-hô-va ôi, vào ban đêm con nhớ đến danh Chúa và con gìn giữ luật pháp Chúa.
56Con vẫn thực hành điều này vì con đã tuân theo sự hướng dẫn của Chúa. HẾT 57Đức Giê-hô-va là phần của con; con đã quyết tuân theo lời Ngài.58Con hết lòng cầu xin ơn Chúa; xin Chúa thương xót con, như lời Ngài đã hứa. 59Con đã xem xét các đường lối mình và trở bước theo các nghị định giao ước Chúa.
60Con vội vàng gìn giữ các điều răn Chúa, không chậm trễ. 61Các dây của kẻ ác đã quấn lấy con; con chẳng quên luật pháp Chúa.
62Lúc nửa đêm con thức dậy cảm tạ Chúa về các nghị định công chính của Chúa. 63Con kết bạn với mọi người tôn kính Chúa, với mọi kẻ gìn giữ sự hướng dẫn của Chúa.
64Đức Giê-hô-va ôi, trái đất đầy dẫy sự thành tín Chúa; xin dạy con các luật lệ Chúa. TẾT. 65Đức Giê-hô-va ôi, Chúa đã hậu đãi tôi tớ Chúa bằng lời của Ngài.
66Xin dạy con phân biệt phải trái và hiểu biết, vì con tin nơi các điều răn Chúa. 67Trước khi gặp hoạn nạn thì con lầm lạc, nhưng giờ thì con tuân giữ lời Chúa.
68Chúa là thiện lành, và Ngài là Đấng làm việc thiện lành; xin dạy con các luật lệ Chúa. 69Bọn người kiêu căng đã dùng lới dối trá bôi nhọ con, nhưng con hết lòng gìn giữ sự hướng dẫn của Chúa.
70Lòng chúng cứng cỏi, nhưng con vui thích về luật pháp Chúa. 71Con chịu hoạn nạn là điều tốt, để con học biết các luật lệ Chúa.
72Sự hướng dẫn từ miệng Chúa đối với con quý hơn cả ngàn miếng vàng và bạc. GIỐT 73Tay Chúa đã tạo ra và nắn đúc con; xin ban cho con trí hiểu để con học biết các điều răn Chúa.74Những kẻ tôn kính Chúa sẽ vui sướng khi thấy con vì con tìm được hy vọng nơi lời Chúa. 75Đức Giê-hô-va ôi, con biết rằng các nghị định của Chúa là công bình, và do lòng thành tín mà Chúa hành hại con.
76Nguyện lòng thành tín Chúa an ủi con, như Chúa đã hứa với tôi tớ Ngài. 77Xin Chúa tỏ lòng thương xót con, để con được sống, vì luật pháp Chúa là niềm vui thích của con.
78Nguyện kẻ kiêu ngạo phải bị hổ thẹn, vì chúng đã vu khống con; nhưng con sẽ suy gẫm sự hướng dẫn của Chúa. 79Những kẻ tôn kính Chúa, tức kẻ biết các nghị định giao ước Chúa, nguyện họ quay hướng về con.
80Nguyện lòng con được trọn vẹn về các luật lệ Chúa để con khỏi bị hổ thẹn. CÁP. 81Con ngất đi vì mong chờ Chúa giải cứu mình! Con đặt hy vọng nơi lời Ngài.
82Mắt con trông mong thấy được lời hứa của Chúa; khi nào Chúa sẽ an ủi con? 83Vì con đã thành ra giống như cái bình đen đủi khói; con không quên các luật lệ Chúa.
84Kẻ tôi tớ Chúa còn phải chịu cảnh này bao lâu nữa; khi nào Chúa mới phán xét những kẻ bức hại con? 85Bọn kiêu ngạo đã đào hố hại con, bất chấp luật pháp Chúa.
86Toàn thể các điều răn Chúa đều đáng tin cậy; những kẻ kia bức hại con trái lẽ; xin Chúa cứu giúp con.87Suýt chút nữa là chúng diệt con khỏi đất, nhưng con vẫn không chối bỏ sự hướng dẫn của Chúa.
88Xin Chúa giữ cho con được sống như sự thành tín Chúa đã hứa, để con giữ các nghị định giao ước mà Chúa đã truyền phán. LA-MÉT 89Đức Giê-hô-va ôi, lời Chúa còn lại đời đời, lời Chúa được vững lập trên trời.90Đức thành tín của Chúa cứ còn mãi suốt mọi thế hệ; Chúa đã lập trái đất và nó cứ tồn tại. 91Muôn vật còn đến ngày nay y như Chúa đã phán trong các nghị định công chính của Ngài, vì tất cả đều phục vụ Chúa.
92Nếu con không vui thích về luật pháp Chúa thì con đã tiêu vong trong cơn hoạn nạn. 93Con sẽ không bao giờ quên sự hướng dẫn của Chúa, vì bởi đó mà Chúa giữ cho con được sống.
94Con thuộc về Chúa; xin Chúa cứu con, vì con tìm kiếm sự hướng dẫn của Ngài. 95Kẻ ác sửa soạn tiêu diệt con, nhưng con sẽ gắng sức hiểu các nghị định của giao ước Chúa.
96Con đã thấy được rằng mọi vật đều có giới hạn, nhưng các điều răn Chúa thì mênh mông, vô hạn. MEM. 97Ôi, con yêu mến luật pháp Chúa biết bao! Suốt ngày con suy gẫm luật pháp ấy.
98Các điều răn Chúa khiến con khôn ngoan hơn các kẻ thù con, vì các điều răn ấy luôn ở cùng con. 99Con hiểu biết hơn mọi kẻ dạy dỗ con, vì con suy gẫm các nghị định giao ước Chúa.
100Con hiểu biết hơn những người cao tuổi hơn mình; được vậy là vì con đã gìn giữ sự hướng dẫn của Chúa. 101Con đã giữ chân mình khỏi mọi lối ác để vâng theo lời Chúa.
102Con không xây khỏi các nghị định công chính của Chúa, vì Chúa đã chỉ dạy con. 103Lời Chúa ngọt ngào biết bao cho khẩu vị con, thật, ngọt hơn cả mật trong miệng con.
104Nhờ sự hướng dẫn của Chúa mà con được sáng suốt; vậy nên con ghét mọi lối sai lạc. NUN 105Lời Chúa là ngọn đèn cho chân con, là ánh sáng cho đường lối con.106Con đã thề nguyện, và xác quyết rằng mình sẽ tuân theo các nghị định của Chúa. 107Con rất khổ sở; Đức Giê-hô-va ôi, xin giữ cho con được sống như Chúa đã hứa trong lời Ngài.
108Đức Giê-hô-va ôi, xin hãy nhận các của lễ tự nguyện từ môi miệng con, và dạy con các nghị định công chính của Chúa. 109Mạng sống con luôn gặp nguy hiểm, nhưng con không quên luật pháp Chúa.
110Kẻ ác đã đặt bẫy hại con, nhưng con không lìa xa sự hướng dẫn của Chúa. 111Con nhận các nghị định giao ước Chúa làm cơ nghiệp đời đời, vì đó là niềm hoan hỉ của lòng con.
112Con chuyên lòng vâng theo các luật lệ Chúa mãi mãi, cho đến tận cùng. XA-MÉC. 113Con ghét những kẻ hai lòng, nhưng con yêu mến luật pháp Chúa.
114Chúa là nơi ẩn náu của con, là thuẫn che con; con trông đợi lời Ngài. 115Hỡi các người làm ác, hãy tránh xa tôi, để tôi tuân theo các điều răn của Đức Chúa Trời tôi.
116Xin Chúa nuôi dưỡng con bằng lời Ngài để con được sống mà không hổ thẹn về hy vọng của mình. 117Xin Chúa nâng đỡ con, thì con sẽ được an toàn; con sẽ suy gẫm các luật lệ Chúa luôn luôn.
118Chúa từ bỏ mọi kẻ rời xa luật lệ Ngài, vì những người như vậy là dối trá và không đáng tin cậy. 119Chúa loại bỏ mọi kẻ ác khỏi đất như cáu cặn; vì vậy con yêu mến các mạng lệnh của Chúa.
120Thân con run rẩy vì kinh sợ Chúa, và con cũng sợ các nghị định công chính của Chúa. A-IN. 121Con làm điều công bình, phải lẽ; xin đừng bỏ mặc con cho những kẻ áp chế con.
122Xin Chúa bảo đảm lợi ích của tôi tớ Ngài; xin chớ để kẻ kiêu ngạo áp bức con. 123Mắt con mòn mỏi khi con trông đợi sự cứu rỗi của Chúa và lời công chính của Ngài.
124Xin hãy tỏ cho tôi tớ Chúa sự thành tín Chúa, và dạy con các luật lệ Chúa. 125Con đây là tôi tớ Chúa; xin ban cho con trí hiểu để con biết các nghị định giao ước của Chúa.
126Đã đến lúc Đức Giê-hô-va hành động, vì người ta đã vi phạm luật lệ Chúa. 127Thật, con yêu mến các điều răn Chúa hơn vàng, hơn cả vàng ròng.
128Vì vậy, con cẩn thận làm theo mọi hướng dẫn của Chúa, và con ghét mọi đường giả dối. BE 129Các phép tắc của Chúa thật diệu kỳ, nên con vâng giữ chúng.130Việc giải bày lời Chúa đem lại ánh sáng; nó ban trí hiểu cho người ít học. 131Con há miệng khao khát, vì con mong ước các điều răn Chúa.
132Hãy quay nhìn con, và thương xót con, như Chúa vẫn luôn làm đối với kẻ yêu mến danh Chúa. 133Xin dùng lời Chúa chỉ dẫn các bước con; xin chớ để tội nào cai trị con.
134Xin cứu con khỏi sự áp bức của loài người để con tuân theo các hướng dẫn Chúa. 135Nguyện Chúa chiếu sáng mặt Chúa trên tôi tớ Ngài, và dạy con các luật lệ Chúa.
136Từng dòng lệ từ mắt con chảy xuống vì người ta không tuân theo luật pháp Chúa. XA-ĐÊ. 137Hỡi Đức Giê-hô-va, Ngài thật công chính, và các nghị định của Ngài đều công bình.
138Chúa đã ban các nghị định giao ước Chúa một cách công chính, thành tín. 139Con giận điên lên vì các kẻ thù của con quên mất lời Chúa.
140Lời Chúa đã được thử luyện kỹ và tôi tớ Chúa yêu mến nó. 141Con đây tầm thường và bị khinh rẻ, nhưng con không quên các hướng dẫn của Chúa.
142Sự công bình của Chúa mãi mãi đúng, và luật pháp Chúa đáng tin cậy. 143Dầu con gặp hoạn nạn vào đau đớn, nhưng con vẫn vui thích về các điều răn Chúa.
144Các nghị định giao ước Chúa là công chính đời đời; xin ban cho con trí hiểu để con được sống. CỐP 145Con hết lòng kêu van: “Lạy Đức Giê-hô-va, xin đáp lời con, con sẽ giữ các luật lệ Chúa.146Con kêu cầu Chúa; xin hãy cứu con, rồi con sẽ vâng theo các nghị định giao ước Ngài.” 147Con thức dậy trước lúc rạng sáng và kêu xin Chúa cứu giúp. Con hy vọng nơi lời Ngài.
148Mắt con vẫn mở trước giờ đổi các canh đêm để con suy gẫm lời Chúa. 149Bằng sự thành tín Chúa, xin Ngài nghe tiếng con; Đức Giê-hô-va ôi, xin hãy giữ cho con được sống như Chúa đã hứa trong các nghị định công chính của Ngài.
150Những kẻ bức hại con đang đến gần con hơn, nhưng chúng vẫn cách xa luật pháp Chúa. 151Đức Giê-hô-va ôi, Chúa ở gần, và mọi điều răn Chúa đều đáng tin cậy.
152Từ lâu con đã học biết từ trong các nghị định giao ước Chúa rằng Ngài đã lập chúng đến đời đời. RẾT 153Xin Chúa đoái nhìn sự hoạn nạn của con và cứu giúp con, vì con không quên luật pháp Chúa.154Xin biện hộ cho duyên cớ của con và cứu chuộc con, như Chúa đã hứa trong lời Ngài. 155Ơn cứu rỗi cách xa kẻ ác, vì chúng không yêu mến các luật lệ Chúa.
156Hỡi Đức Giê-hô-va, các việc nhân từ của Chúa vĩ đại thay; xin hãy giữ cho con được sống, như Chúa vẫn hằng làm. 157Những kẻ kiện tụng cùng kẻ thù của con thật là đông, nhưng con không xây khỏi các nghị định giao ước Chúa.
158Con nhìn mà kinh tởm những kẻ bất trung, vì chúng không vâng theo lời Chúa. 159Xin Chúa xem thấy rằng con yêu mến sự hướng dẫn của Chúa biết bao; Đức Giê-hô-va ôi, xin hãy giữ cho con được sống, như Chúa đã hứa bằng sự thành tín của Ngài.
160Bản chất của lời Chúa là đáng tin cậy; mỗi một nghị định của Chúa đều còn mãi. SIN 161Giới quan quyền bức hại con vô cớ; lòng con run vì sợ mình bất tuân lời Chúa.162Con vui mừng về lời Chúa giống như kẻ tìm được chiến lợi phẩm giá trị. 163Con ghét và khinh bỉ sự giả dối, nhưng yêu mến luật pháp Chúa.
164Con ca ngợi Chúa bảy lần mỗi ngày vì các nghị định công chính của Chúa. 165Kẻ yêu mến luật pháp Chúa được bình an lớn; chẳng điều gì khiến họ sẩy chân.
166Đức Giê-hô-va ôi, con trông đợi ơn cứu rỗi của Chúa, và vâng theo các điều răn Ngài. 167Con tuân theo các mạng lệnh Chúa và rất yêu mến chúng.
168Con giữ sự hướng dẫn của Chúa cùng các mạng lệnh Ngài, vì Chúa biết mọi việc con làm. TÁP 169Đức Giê-hô-va ôi, xin Chúa lắng tai nghe tiếng kêu cứu của con; xin giúp con hiểu biết lời Chúa.170Nguyện lời cầu xin của con thấu đến trước Chúa; xin cứu giúp con, như Chúa đã hứa trong lời Ngài. 171Nguyện môi miệng con tuôn tràn lời ca ngợi Chúa, vì Chúa dạy con các luật lệ Ngài.
172Nguyện lưỡi con ca hát về lời Chúa, vì mọi điều răn Chúa đều phải lẽ. 173Nguyện tay Chúa giúp đỡ con, vì con đã chọn các hướng dẫn của Ngài.
174Đức Giê-hô-va ôi, con mong ước sự giải cứu của Chúa, luật pháp Chúa là niềm vui thích của con. 175Nguyện con cứ sống và ca ngợi Chúa, và nguyện các nghị định công chính của Chúa giúp đỡ con.
176Con lạc lối khác nào con chiên lạc; xin hãy tìm kiếm tôi tớ Chúa, vì con không quên các điều răn Chúa. 1201Trong cơn hoạn nạn, tôi kêu cầu Đức Giê-hô-va, và Ngài đáp lời tôi.2Đức Giê-hô-va ôi, xin giải cứu mạng sống con khỏi những kẻ có môi giả dối, có lưỡi phỉnh lừa. 3Chúa sẽ phạt ngươi thế nào, và Ngài sẽ còn làm gì cho ngươi nữa, hỡi kẻ có lưỡi dối trá?
4Ngài sẽ bắn ngươi bằng các mũi tên nhọn của người chiến binh, đã được trui rèn trên than hực của cây chổi đậu. 5Khổ thân tôi quá vì phải tạm trú tại Mê-siếc; trước đây tôi đã sống giữa các trại Kê-đa.
6Tôi sống với những kẻ ghét hòa bình lâu lắm.
7Tôi chuộng hòa bình, nhưng khi tôi lên tiếng thì chúng lại muốn chiến tranh. 1211Tôi sẽ ngước mắt nhìn lên núi. Sự cứu giúp tôi sẽ đến từ đâu?2Sự cứu giúp tôi đến từ Đức Giê-hô-va, Đấng tạo dựng trời đất. 3Ngài sẽ không để cho chân ngươi trượt ngã; Đấng che chở ngươi sẽ không ngủ.
4Đấng bảo vệ Y-sơ-ra-ên không bao giờ ngủ hay chợp mắt. 5Đức Giê-hô-va là Đấng bảo vệ ngươi; Đức Giê-hô-va là bóng che bên tay phải ngươi.
6Mặt trời sẽ không hại ngươi lúc ban ngày, mặt trăng cũng không hại ngươi trong ban đêm. 7Đức Giê-hô-va sẽ che chở ngươi khỏi mọi tổn hại, và Ngài sẽ bảo vệ mạng sống ngươi.
8Đức Giê-hô-va sẽ che chở ngươi trong mọi việc ngươi làm, từ nay cho đến đời đời. 1221Tôi vui sướng khi người ta bảo tôi: “Chúng ta hãy đến nhà Đức Giê-hô-va.”2Hỡi Giê-ru-sa-lem, chân chúng tôi đang đứng trong các cửa người.
3Giê-ru-sa-lem được xây cất như một thành kết chặt lại. 4Các chi tộc của Đức Giê-hô-va đi lên đó theo như luật định cho Y-sơ-ra-ên để cảm tạ danh Đức Giê-hô-va.
5Tại đó các lãnh đạo ngồi trên ngai xét xử, thay mặt nhà Đa-vít. 6Hãy cầu nguyện cho hòa bình Giê-ru-sa-lem! Những kẻ yêu mến người sẽ được thạnh vượng.
7Nguyện sẽ có hòa bình ở giữa các tường thành người, sự thạnh vượng giữa các tháp người. 8Vì các anh em và bạn hữu tôi, giờ đây tôi cầu rằng: “Nguyện sẽ có hòa bình nơi người.”
9Vì cớ nhà của Đức Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta, tôi sẽ cầu phước cho người. 1231Hỡi Đấng ngự trên các từng trời, con ngước mắt hướng lên Chúa.2Như mắt của kẻ tôi tớ trông nơi tay ông chủ, như mắt của các tớ gái trông nơi tay bà chủ mình, thì mắt chúng con cũng trông đợi Đức Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng con y như vậy, cho đến khi Ngài thương xót chúng con. 3Hỡi Đức Giê-hô-va, xin thương xót chúng con, vì chúng con đã chán chê sự sỉ nhục.
4Sự nhạo báng của bọn xấc láo và sự khinh dể của lũ kiêu căng đã quá đủ đối với chúng con. 1241Y-sơ-ra-ên khá nói: “Nếu Đức Giê-hô-va không đứng về phía chúng ta,2nếu không phải Đức Giê-hô-va bênh vực chúng ta khi con người nổi lên chống chúng ta,3thì họ đã nuốt sống chúng ta khi họ nổi thạnh nộ với chúng ta.4Nước hẳn đã cuốn chúng ta đi; dòng nước hẳn đã tràn ngập chúng ta.
5Khối nước cuồng nộ hẳn đã nhấn chìm chúng ta.” 6Đáng ngợi khen Đức Giê-hô-va, Đấng giữ chúng tôi khỏi bị răng chúng nó cắn xé.
7Chúng tôi đã thoát ra chẳng khác nào con chim thoát khỏi bẫy của kẻ gài bẫy; bẫy đứt và chúng tôi thoát được. 8Sự giúp đỡ của chúng tôi ở trong Đức Giê-hô-va, Đấng tạo dựng trời đất. 1251Những kẻ tin cậy Đức Giê-hô-va giống như núi Si-ôn, không rúng động, còn đến đời đời.2Núi đồi bao quanh Giê-ru-sa-lem thế nào thì Đức Giê-hô-va cũng bao quanh dân Ngài giống như vậy, từ nay cho đến đời đời.
3Cây trượng gian ác không thể cai trị trong xứ người công chính. Nếu không, người công chính có thể làm điều sai trái. 4Đức Giê-hô-va ôi! Xin làm ơn cho người thiện lành và cho kẻ có lòng ngay thẳng.
5Còn những kẻ quay sang các đường lối quanh co của họ, Đức Giê-hô-va sẽ dắt họ đi luôn cùng với kẻ làm dữ. Nguyện hòa bình ở trên Y-sơ-ra-ên. 1261Khi Đức Giê-hô-va phục hồi lại cơ đồ của Si-ôn thì chúng tôi giống như kẻ nằm mơ.2Lúc đó miệng chúng tôi cười vui sướng và lưỡi chúng tôi hát mừng.
3Đức Giê-hô-va đã làm những việc lớn cho chúng tôi; chúng tôi sung sướng biết bao! 4Đức Giê-hô-va ôi, Xin hãy phục hồi cơ đồ của chúng con giống như các dòng suối tại Nê-ghép.
5Những ai gieo giống trong nước mắt sẽ gặt hái với tiếng reo vui.
6Kẻ nào vừa đi vừa khóc, đem giống ra gieo, sẽ lại trở về cách vui mừng, mang theo các bó lúa của mình. 1271Nếu Đức Giê-hô-va không cất nhà thì thợ xây làm việc phí công. Nếu Đức Giê-hô-va không canh giữ thành thì kẻ gác thành có canh giữ cũng vô ích.2Thật uổng công cho các người dậy sớm, về trễ, hay ăn bánh lao nhọc của mình, vì Đức Giê-hô-va ban giấc ngủ cho kẻ Ngài yêu mến. 3Kìa, con cái là cơ nghiệp từ Đức Giê-hô-va, bông trái của tử cung là phần thưởng Ngài ban.
4Con cái sinh lúc xuân xanh khác nào các mũi tên trong tay người chiến binh.
5Người nào mang ống đầy tên thật có phước. Người sẽ không bị hổ thẹn khi đối đấu với các kẻ thù mình ở cổng thành. 1281Phước cho mọi người tôn kính Đức Giê-hô-va, bước đi trong các lối Ngài.2Công lao tay mình ngươi sẽ được hưởng; ngươi sẽ được phước và thới thạnh. 3Vợ ngươi sẽ như cây nho sai quả trong nhà ngươi; các con ngươi khi ngồi chung quanh bàn ngươi sẽ như những cây ô-liu.
4Thật, người nào tôn kính Đức Giê-hô-va sẽ được phước.
5Nguyện Đức Giê-hô-va từ Si-ôn ban phước cho ngươi; nguyện ngươi được thấy sự thạnh vượng của Giê-ru-sa-lem trọn những ngày tháng của đời mình.
6Nguyện ngươi được sống để nhìn thấy các cháu mình. Nguyện hòa bình giáng trên Y-sơ-ra-ên. 1291Y-sơ-ra-ên hãy nói: “Từ khi tôi còn niên thiếu chúng vẫn thường tấn công tôi.2Từ khi tôi còn trẻ chúng vẫn thường công kích tôi nhưng chúng không thắng được.
3Chúng cày xới trên lưng tôi; chúng làm thành những luống cày dài. 4Đức Giê-hô-va là công chính; Ngài đã cắt dây thừng của kẻ ác.”
5Nguyện mọi kẻ nào thù ghét Si-ôn sẽ bị hổ thẹn và phải trở lui. 6Nguyện chúng giống như cỏ trên mái nhà bị khô héo khi chưa kịp lớn,
7nên người gặt không nắm được đầy tay, kẻ bó không ôm được đầy lòng.8Nguyện những kẻ qua lại không chúc: “Nguyện phước của Đức Giê-hô-va giáng trên anh em; chúng tôi chúc lành cho anh em, nhân danh Đức Giê-hô-va.” 1301Đức Giê-hô-va ôi, từ vực thẳm con kêu cầu Ngài.2Lạy Chúa, xin hãy nghe tiếng con; nguyện Chúa lắng tai nghe lời con cầu xin ơn thương xót. 3Đức Giê-hô-va ôi, nếu Chúa chấp tội thì, Chúa ôi, ai có thể đứng nổi?
4Nhưng Chúa có lòng tha thứ, để người ta kính sợ Chúa. 5Tôi trông đợi Đức Giê-hô-va, linh hồn tôi trông đợi, và tôi hy vọng nơi lời Ngài.
6Linh hồn tôi trông đợi Chúa còn hơn cả người lính canh trông trời sáng. 7Hỡi Y-sơ-ra-ên, hãy hy vọng nơi Đức Giê-hô-va. Đức Giê-hô-va nhân từ và Ngài sẵn lòng tha thứ.
8Chính Ngài sẽ chuộc Y-sơ-ra-ên khỏi mọi tội lỗi mình. 1311Đức Giê-hô-va ôi, lòng con không kiêu ngạo, mắt con không tự cao. Con không kỳ vọng nhiều về bản thân, cũng không để mình bận tâm về những việc vượt quá sức.2Thật, con đã khiến linh hồn mình êm dịu và an tịnh; như con trẻ đã thôi bú bên mẹ nó, linh hồn con ở trong con giống như đứa trẻ dứt sữa.
3Hỡi Y-sơ-ra-ên, hãy hy vọng nơi Đức Giê-hô-va, từ nay cho đến đời đời. 1321Đức Giê-hô-va ôi, vì cớ Đa-vít, xin hãy nhớ lại mọi hoạn nạn người phải chịu.2Xin Chúa nhớ lại người đã thề thốt thế nào với Đức Giê-hô-va, đã hứa nguyện ra sao với Đấng Toàn Năng của Gia-cốp. 3Người đã nói: “Con sẽ không vào nhà mình, cũng không đi ngủ,
4con sẽ không cho mắt mình được ngủ, không cho mí mắt mình được nghỉ ngơi5cho đến khi con tìm được một chỗ cho Đức Giê-hô-va, một nơi ngự cho Đấng Toàn Năng của Gia-cốp.”6Kìa, chúng con có nghe nói về nó tại Ép-ra-ta; chúng con tìm thấy nó trong các cánh đồng Gia-a.
7Chúng con sẽ vào nơi Chúa ngự; chúng con sẽ thờ phượng tại bệ chân Ngài.
8Hỡi Đức Giê-hô-va, xin hãy trỗi dậy; xin Chúa hãy đến nơi an nghỉ của Ngài. 9Nguyện các thầy tế lễ của Chúa mặc đồ bằng sự chánh trực; nguyện những người trung tín của Ngài reo mừng.
10Vì cớ tôi tớ Ngài là Đa-vít, xin Chúa đừng quay lưng lại với vua đã được xức dầu của Ngài. 11Đức Giê-hô-va thề hứa sẽ không để Đa-vít thất vọng; Ngài sẽ không rút khỏi lời thề mình, rằng: “Ta sẽ đặt một hậu tự con trên ngôi con.”
12Nếu con cái con vâng giữ giao ước Ta và các luật lệ mà Ta sẽ dạy chúng nó, thì con cháu con cũng sẽ ngồi trên ngôi con đến đời đời.” 13Hẳn là Đức Giê-hô-va đã chọn Si-ôn; Ngài muốn đặt ngai mình tại đó.
14Đây là nơi an nghỉ của Ta đời đời; Ta sẽ sống ở đây, vì Ta ưa thích nó. 15Ta sẽ ban cho nó dồi dào lương thực; Ta sẽ cho kẻ nghèo của nó được no đủ.
16Ta sẽ lấy sự cứu rỗi mặc cho các thầy tế lễ nó; các kẻ trung tín của nó sẽ lớn tiếng reo mừng. 17Ở đó Ta sẽ khiến sừng của Đa-vít mọc lên; Ta đã đặt một cây đèn tại đó cho kẻ chịu xức dầu của Ta.
18Ta sẽ lấy sự xấu hổ mặc cho các kẻ thù của người, còn vương miện người sẽ chiếu sáng. 1331Kìa, anh em cứ sống với nhau trong sự hiệp một thật tốt đẹp và thú vị biết bao!2Điều đó giống như dầu quý trên đầu chảy xuống râu, tức râu A-rôn, rồi chảy xuống áo người.
3Nó giống như sương móc núi Hẹt-môn sa xuống các núi Si-ôn. Vì tại đó Đức Giê-hô-va đã ban phước, tức sự sống luôn hằng còn. 1341Hỡi mọi tôi tớ của Đức Giê-hô-va, những người trong ban đêm phục vụ trong nhà Đức Giê-hô-va, hãy đến chúc tôn Đức Giê-hô-va.2Hãy đưa tay lên hướng về nơi thánh và tôn vinh Đức Giê-hô-va. 3Nguyện Đức Giê-hô-va, Đấng tạo dựng trời đất, từ Si-ôn ban phước cho anh em. 1351Hãy ca ngợi Đức Giê-hô-va. Hãy ca ngợi danh Đức Giê-hô-va. Hãy ca ngợi Ngài, hỡi các anh em là tôi tớ của Đức Giê-hô-va,2những người ứng trực trong nhà Đức Giê-hô-va, trong sân đền của nhà Đức Chúa Trời chúng ta.3Hãy ca ngợi Đức Giê-hô-va, vì Ngài là thiện lành; hãy hát ca ngợi danh Ngài, vì đó là việc làm đầy vui thích.
4Vì Đức Giê-hô-va đã chọn Gia-cốp cho mình, chọn Y-sơ-ra-ên làm sản nghiệp mình. 5Tôi biết Đức Giê-hô-va vĩ đại lắm, Chúa chúng tôi vượt hơn hết các thần.
6Điều gì Đức Giê-hô-va muốn thì Ngài làm ở trên trời, dưới đất, dưới biển và trong mọi vực sâu của đại dương. 7Ngài mang mây từ phương xa đến, khiến các tia chớp đi kèm theo mưa và đem gió từ trong kho Ngài ra. 8Ngài giết các con đầu lòng của cả người ta lẫn súc vật tại Ai Cập.
9Hỡi Ai Cập, Ngài đã thực hiện các dấu và phép lạ ở giữa ngươi, để phạt Pha-ra-ôn cùng quần thần người. 10Ngài đánh nhiều nước, giết chết các vị vua hùng mạnh,
11như Si-hôn, vua dân A-mô-rít, và Óc, vua Ba-san, cùng mọi nước tại Ca-na-an.12Ngài ban xứ của chúng cho dân Ngài là Y-sơ-ra-ên làm cơ nghiệp.
13Đức Giê-hô-va ôi, danh Ngài lưu lại đến đời đời; tiếng tăm Ngài còn mãi qua mọi thế hệ 14Vì Đức Giê-hô-va bảo vệ dân Ngài và thương xót các tôi tớ Ngài.15Tượng thần của các dân chỉ là bạc và vàng, là công việc của bàn tay người ta.
16Các tượng thần đó có miệng mà không nói; chúng có mắt mà không thấy;
17chúng có tai mà không nghe, cũng chẳng có hơi thở trong miệng chúng nó.18Những kẻ tạo ra chúng đều giống như chúng, mà kẻ nào nhờ cậy chúng cũng vậy. 19Hỡi các hậu tự Y-sơ-ra-ên, hãy tôn vinh Đức Giê-hô-va; hỡi các con cháu A-rôn, hãy tôn vinh Đức Giê-hô-va.
20Hỡi các con cháu Lê-vi, hãy tôn vinh Đức Giê-hô-va; anh em là kẻ tôn kính Đức Giê-hô-va, hãy tôn vinh Đức Giê-hô-va.
21Đáng ca ngợi Đức Giê-hô-va ở Si-ôn, Đấng ngự tại Giê-ru-sa-lem. Ngợi khen Đức Giê-hô-va. 1361Hãy cảm tạ Đức Giê-hô-va; vì Ngài là thiện lành, vì lòng thành tín Ngài còn đến đời đời.2Hãy cảm tạ Đức Chúa Trời của các thần, vì lòng thành tín Ngài còn đến đời đời.
3Hãy cảm tạ Chúa của các chúa, vì lòng thành tín Ngài còn đến đời đời. 4Hãy cảm tạ Đấng duy nhất làm các phép lạ diệu kỳ, vì lòng thành tín Ngài còn đến đời đời.
5Hãy cảm tạ Đấng bởi sự khôn ngoan mình đã tạo nên các tầng trời, vì lòng thành tín Ngài còn đến đời đời. 6Hãy cảm tạ Đấng đã trải đất ra trên nước, vì lòng thành tín Ngài còn đến đời đời.
7Hãy cảm tạ Đấng tạo ra các nguồn sáng lớn, vì lòng thành tín Ngài còn đến đời đời— 8mặt trời để cai quản ban ngày, vì lòng thành tín Ngài còn đến đời đời;9mặt trăng để cai quản ban đêm, vì lòng thành tín Ngài còn đến đời đời.10Hãy cảm tạ Đấng đã giết chết các con trưởng xứ Ai Cập, vì lòng thành tín Ngài còn đến đời đời.
11Ngài đem Y-sơ-ra-ên ra khỏi giữa vòng chúng nó, vì lòng thành tín Ngài còn đến đời đời,
12bởi bàn tay mạnh sức và cánh tay giơ lên, vì lòng thành tín Ngài còn đến đời đời.13Hãy cảm tạ Đấng đã chia đôi biển Sậy, vì lòng thành tín Ngài còn đến đời đời,
14và cho dân Y-sơ-ra-ên đi qua giữa biển, vì lòng thành tín Ngài còn đến đời đời;15nhưng Ngài tiêu diệt Pha-ra-ôn cùng đạo binh ông ta dưới biển Sậy vì lòng thành tín Ngài còn đến đời đời.16Hãy cảm tạ Đấng đã dẫn dắt dân mình đi qua hoang mạc, vì lòng thành tín Ngài còn đến đời đời.
17Hãy cảm tạ Đấng đã giết chết các vua lớn, vì lòng thành tín Ngài còn đến đời đời, 18và giết chết các vua nổi tiếng, vì lòng thành tín Ngài còn đến đời đời—19như Si-hôn, vua dân A-mô-rít, vì lòng thành tín Ngài còn đến đời đời,20và Óc, vua Ba-san, vì lòng thành tín Ngài còn đến đời đời.21Ngài ban đất của chúng cho họ làm sản nghiệp, vì lòng thành tín Ngài còn đến đời đời,
22tức sản nghiệp cho Y-sơ-ra-ên là tôi tớ Ngài, vì lòng thành tín Ngài còn đến đời đời.23Hãy cảm tạ Đấng đã nhớ đến chúng ta và cứu giúp chúng ta khi chúng ta bị sỉ nhục, vì lòng thành tín Ngài còn đến đời đời, 24và ban cho chúng ta chiến thắng quân thù, vì lòng thành tín Ngài còn đến đời đời,25Đấng ban lương thực cho mọi sinh vật, vì lòng thành tín Ngài còn đến đời đời.26Ồ, hãy cảm tạ Đức Chúa Trời trên trời, vì lòng thành tín Ngài còn đến đời đời. 1371Bên dòng sông Ba-by-lôn, chúng tôi ngồi xuống than khóc khi nghĩ đến Si-ôn.2Chúng tôi treo đàn hạt mình lên các cây dương tại đó. 3Ở đó, những kẻ đày ải chúng bắt chúng tôi ca hát, những kẻ nhạo cười chúng tôi bảo chúng tôi vui vẻ, rằng: “Hãy hát cho bọn tao nghe một bài ca xứ Si-ôn.”
4Làm sao chúng tôi có thể hát về Đức Giê-hô-va tại một xứ lạ? 5Hỡi Giê-ru-sa-lem, nếu tôi quên người, nguyện tay phải tôi quên đi tài khéo của nó.
6Nguyện lưỡi tôi dính vào vòm họng nếu tôi không còn nghĩ về người, nếu tôi không ưu ái Giê-ru-sa-lem với niềm vui thích. 7Hỡi Đức Giê-hô-va, xin hãy nhớ lại việc dân Ê-đôm đã làm vào ngày Giê-ru-sa-lem bị đổ. Chúng bảo: “Hãy phá đổ nó! Hãy san nó thành bình địa!” 8Con gái Ba-by-lôn phải sớm bị hủy diệt— phước cho người nào báo trả lại cho mày việc mày đã làm với chúng tao.
9Phước cho người nào bắt ném các con nhỏ mày vào đá. 1381Con sẽ hết lòng cảm tạ Chúa; trước mặt các thần, con sẽ hát ca ngợi Chúa.2Con sẽ sấp mình xuống hướng về đền thánh Chúa và cảm tạ danh Chúa vì lòng thành tín và lòng chân thật của Chúa. Chúa đã khiến lời Ngài và danh Ngài được tôn trọng hơn cả. 3Trong ngày con kêu cầu Chúa thì Ngài đã đáp lời con; Ngài khích lệ và thêm sức cho linh hồn con.
4Hỡi Đức Giê-hô-va, mọi vua trên đất sẽ cảm tạ Ngài, vì họ sẽ được nghe lời từ miệng Ngài. 5Thật, họ sẽ ca hát về các công việc của Đức Giê-hô-va, vì vinh quang của Đức Giê-hô-va thật vĩ đại.
6Vì dầu Đức Giê-hô-va cao trọng, nhưng Ngài quan tâm đến người thấp kém, còn kẻ kiêu ngạo thì Ngài nhận biết từ xa. 7Dầu con có bước đi giữa hiểm nguy thì Chúa cũng bảo tồn mạng sống con; Chúa sẽ giơ tay chống lại cơn giận của những kẻ thù nghịch con, và tay phải Ngài sẽ cứu con.
8Đức Giê-hô-va ở cùng con cho đến cuối cùng; Đức Giê-hô-va ôi, lòng thành tín Ngài còn đến đời đời; xin chớ từ bỏ những kẻ tay Chúa đã tạo ra. 1391Đức Giê-hô-va ôi, Chúa đã dò xét con, và Ngài biết con.2Chúa biết khi con ngồi xuống và khi con đứng dậy; Từ xa Chúa hiểu được các ý tưởng con. 3Chúa theo dõi đường con đi cũng như khi con nằm xuống; Chúa quen thuộc hết các nẻo của con.
4Vì, Đức Giê-hô-va ôi, chẳng có lời nào con nói ra mà Chúa không biết trọn.
5Chúa bao bọc con phía sau lẫn phía trước, và đặt tay Chúa trên con.
6Sự hiểu biết như vậy là quá sức con; nó cao quá, con không hiểu nổi. 7Con đi đâu để thoát khỏi Thần Linh Chúa? Con chạy đâu để tránh mặt Chúa đây?
8Nếu con lên trời, Chúa đang ở đó; nếu con nằm dưới âm phủ thì, kìa, Chúa cũng có ở đó. 9Nếu con chắp cánh ban mai bay đi rồi đến sống tại những chốn tận cùng bên kia biển,
10thì thậm chí tại đó tay Chúa cũng dẫn đưa con, bàn tay hữu Ngài sẽ nắm giữ con.11Nếu con bảo: “Hẳn bóng tối sẽ che giấu mình đi, và ánh sáng quanh mình sẽ thành ra đêm tối;”
12thì ngay cả bóng tối cũng không giấu được con. Ban đêm chiếu sáng như ban ngày, vì bóng tối và ánh sáng đối với Chúa đều như nhau.13Chúa đã làm nên con người bên trong của con; Chúa đã nắn nên con trong lòng mẹ con.
14Con sẽ cảm tạ Chúa, vì các việc Chúa làm thật đáng sợ và diệu kỳ. Chúa biết rất rõ cuộc đời con. 15Thể chất con không khuất mắt Chúa khi con được tạo nên trong chỗ riêng tư, khi con được tạo thành cách tinh xảo trong các vực sâu của đất.
16Chúa đã nhìn thấy con trong lòng mẹ con; toàn bộ số ngày định cho con đã được ghi vào sổ của Chúa thậm chí trước khi ngày đầu tiên khởi sự. 17Đức Chúa Trời ôi, các tư tưởng của Chúa đối với con thật quý báu biết bao! Gọp lại chúng nhiều vô kể!
18Nếu con cố đếm các tư tưởng ấy thì số chúng nó nhiều hơn cát. Khi con thức giấc thì con vẫn còn ở với Chúa. 19Đức Chúa Trời ôi, uớc gì Chúa giết chết bọn ác gian; hỡi những kẻ hung bạo kia, hãy tránh xa tôi đi.
20Chúng nổi loạn với Chúa và hành động cách dối trá; các kẻ thù của Chúa nói dối. 21Đức Giê-hô-va ôi, con chẳng ghét những kẻ ghét Chúa sao? Con không khinh miệt những kẻ nổi lên chống nghịch Ngài sao?
22Con thật ghét chúng; chúng đã trở nên kẻ thù của con. 23Đức Chúa Trời ôi, xin dò xét con và biết các ý nghĩ của con.
24Xin Chúa xem có lối ác nào trong con chăng, rồi dắt đưa con trong đường lối đời đời. 1401Đức Giê-hô-va ôi, xin giải cứu con khỏi bọn gian ác; xin hãy giữ gìn con khỏi những kẻ bạo hành.2Chúng toan mưu ác trong lòng; ngày ngày chúng khích động xung khắc gây chiến.
3Lưỡi chúng lươn lẹo như loài rắn; nọc rắn hổ lục ở trên môi chúng nó. Sê-la 4Đức Giê-hô-va ôi, xin giữ con khỏi tay của phường gian ác; xin bảo hộ con khỏi lũ hung bạo toan tính hạ gục con.5Những kẻ kiêu ngạo đã đặt bẫy hại con; chúng đã giăng lưới ra; chúng đã giăng bẫy chờ con. Sê-la 6Con thưa với Đức Giê-hô-va: “Ngài là Đức Chúa Trời con; xin hãy nghe tiếng con kêu xin ơn thương xót.”7Hỡi Đức Giê-hô-va, là Chúa của con, Chúa có quyền cứu; Chúa che chắn đầu con trong ngày chiến trận.
8Đức Giê-hô-va ôi, xin đừng ban cho kẻ ác điều chúng ước muốn; chớ để cho mưu đồ của chúng được thành. Sê-la 9Những kẻ vây hãm con ngóc đầu dậy; nguyện lời gian ác từ môi miệng chúng nó ập lại trên chúng nó.10Nguyện than lửa đỏ đổ xuống chúng nó; xin hãy ném chúng vào lửa, xuống các vực thẵm, không trở lên được.
11Nguyện kẻ nào nói ác về người khác sẽ không được vững an trên đất; nguyện điều dữ săn đuổi kẻ hung bạo để phá đổ nó. 12Tôi biết rằng Đức Giê-hô-va sẽ biện hộ cho kẻ khốn cùng, rằng Ngài sẽ thi hành công lý cho người thiếu thốn.
13Hẳn người công chính sẽ cảm tạ danh Chúa; người ngay thẳng sẽ sống trong sự hiện diện của Ngài. 1411Hỡi Đức Giê-hô-va, con đang kêu cầu Ngài; xin hãy mau đến với con. Xin hãy lắng tai nghe khi con kêu Chúa.2Nguyện lời cầu nguyện con sẽ như hương thơm trước mặt Ngài; nguyện đôi tay giơ lên của con giống như sinh tế lúc ban chiều. 3Đức Giê-hô-va ôi, xin hãy đặt một kẻ giữ miệng mồm con; xin hãy canh cửa môi con.
4Xin Chúa đừng để lòng con ước muốn điều gì xấu xa hoặc tham dự vào các việc tội lỗi của những kẻ hành xử gian ác. Nguyện con sẽ không ăn bất kỳ vật ngon gì của chúng nó. 5Hãy để kẻ công chính đánh con; đó sẽ như là việc nhân từ đối với con. Hãy để người sửa phạt con; đó sẽ như xức dầu trên đầu con; nguyện đầu con không từ chối nhận dầu đó. Nhưng lời cầu nguyện của con luôn nghịch với việc làm của kẻ ác.
6Giới lãnh đạo chúng nó sẽ bị ném xuống vách núi; chúng sẽ biết rằng lời của chính con dễ nghe.
7Chúng sẽ phải nói: “Người ta cày và vỡ đất thể nào thì xương cốt chúng tôi cũng bị rải ra ở miệng của âm ti thể ấy.” 8Ôi Đức Giê-hô-va, là Chúa, hẳn mắt con trông đợi Ngài; con nương náu mình nơi Ngài; xin đừng để linh hồn con xa cách Chúa.
9Xin bảo vệ con khỏi lưới mà chúng đã giăng để hại con, khỏi các bẫy của kẻ làm ác.
10Nguyện kẻ ác sa lại vào lưới của chính chúng, còn con thì thoát khỏi. 1421Con lên tiếng kêu cầu Đức Giê-hô-va; con cất tiếng cầu xin Đức Giê-hô-va.2Trước mặt Chúa, con dốc lòng than thở; con trình cho Chúa các nan đề mình. 3Khi tâm linh con yếu đuối trong con thì Chúa biết đường con đi. Trên con đường con tiến bước chúng đã đặt bẫy chực chờ.
4Con nhìn sang bên phải nhưng thấy chẳng có ai quan tâm đến mình. Con không có lối thoát; chẳng người nào quan tâm đến mạng sống con.
5Hỡi Đức Giê-hô-va, con đã kêu cầu với Ngài, rằng: “Chúa là nơi ẩn náu của con, là phần của con trong đất kẻ sống. 6Xin Chúa lắng tai nghe tiếng kêu của con, vì con đã kiệt sức. Xin giải cứu con khỏi những kẻ bức hại con, vì chúng mạnh hơn con.
7Xin đem linh hồn con khỏi chốn lao tù để con có thể cảm tạ danh Ngài. Người công chính sẽ nhóm lại quanh con vì Chúa đã nhân từ với con.” 1431Đức Giê-hô-va ôi, xin nghe lời con cầu nguyện; xin Chúa lắng tai nghe các điều con cầu xin. Xin hãy đáp lời con, vì cớ lòng thành tín và sự công chính của Chúa.2Xin Chúa đừng đoán xét tôi tớ Chúa, vì trước mặt Chúa chẳng có ai công chính cả. 3Kẻ thù đã săn đuổi linh hồn con; hắn đẩy con xuống đất; hắn buộc con sống trong bóng tối như người đã chết từ lâu rồi.
4Tinh thần con bị chao đảo trong con; lòng con mất hết hy vọng. 5Con hồi tưởng lại ngày trước; con suy gẫm về mọi việc Chúa đã làm; con ngẫm nghĩ về những điều Ngài đã thực hiện.
6Con dang tay hướng về Chúa mà cầu nguyện; linh hồn con khát khao Chúa trong một xứ khô khan. Sê-la 7Đức Giê-hô-va ôi, xin hãy mau đáp lời con, vì tinh thần con đã yếu mỏn. Xin đừng ẩn mặt khỏi con, kẻo con giống như kẻ đi xuống mộ huyệt.8Xin cho con buổi sáng nghe được sự thành tín Chúa, vì con tin cậy Ngài. Xin chỉ cho con con đường mình phải đi, vì linh hồn con hướng về Ngài. 9Đức Giê-hô-va ôi, xin giải cứu con khỏi quân thù mình; con chạy đến ẩn mình nơi Chúa.
10Xin dạy con làm theo ý Chúa, vì Ngài là Đức Chúa Trời của con. Nguyện Thần Linh thiện lành của Chúa dẫn con vào xứ sở người công chính. 11Đức Giê-hô-va ôi, xin hãy giữ cho con được sống, vì cớ danh Chúa; trong sự công chính của Chúa, xin hãy đem linh hồn con ra khỏi khó khăn.
12Trong sự thành tín của Ngài, xin hãy trừ khử các kẻ thù nghịch con và diệt hết các cừu địch của đời sống con, vì con là tôi tớ Ngài. 1441Ngợi khen Đức Giê-hô-va, là vầng đá của con, Đấng luyện đôi bàn tay con chiến đấu, tập các ngón tay con đánh trận.2Chúa là sự thành tín, là đồn lũy, là tòa tháp cao của con, Đấng giải cứu con, là thuẫn che con, trong Chúa con nương náu mình và Ngài khiến các dân phải suy phục con. 3Đức Giê-hô-va ôi, loài người là gì mà Chúa lưu ý đến, con loài người là chi mà Chúa lại quan tâm?
4Con người ta chẳng khác nào hơi thở; ngày tháng của họ chỉ như cái bóng thoáng qua. 5Đức Giê-hô-va ôi, xin hãy hạ bầu trời xuống và ngự giáng; xin Chúa chạm đến các ngọn núi và khiến chúng bốc khói.
6Xin Chúa giáng chớp nhoáng và đánh tan tác các kẻ thù của con; xin Ngài bắn tên và khiến chúng phải lùi lại vì rối loạn. 7Từ trên cao xin Chúa chìa tay xuống; xin giải cứu con ra khỏi vòng nguy hiểm từ tay của những người ngoại quốc này.
8Miệng chúng nói gian, tay phải chúng chỉ là giả dối. 9Đức Chúa Trời ôi, con sẽ hát cho Chúa một bài ca mới; con sẽ dùng đàn cầm mười dây mà đàn hát ca ngợi Ngài.
10Chúa ban sự cứu rỗi cho các vua; Chúa đã giải cứu đầy tớ Chúa là Đa-vít khỏi thanh gươm hiểm ác.
11Xin cứu con và giải thoát con khỏi tay của những người ngoại quốc này. Miệng chúng nói gian; tay chúng chỉ là giả dối. 12Nguyện con trai chúng con sẽ giống như cây phát triển đầy đặn lúc tuổi xuân, còn con gái thì như những trụ cột góc nhà được chạm trổ theo hình dạng của trụ cột trong cung đền.
13Nguyện kho vựa chúng con đầy tràn đủ thứ nông sản, nguyện đàn chiên chúng con sinh sản hàng ngàn, hàng vạn trong đồng ruộng. 14Rồi đàn bò chúng con sinh sôi thêm nhiều. Chúng con chẳng còn bị phá tường khoét vách; không còn cảnh lưu đày, cũng chẳng có tiếng kêu la ngoài đường phố.
15Phước thay cho dân nào được như vậy; hạnh phúc thay cho dân nào có Đức Giê-hô-va làm Đức Chúa Trời mình. 1451Hỡi Vua, là Đức Chúa Trời của con, con sẽ ca tụng Chúa; con sẽ ngợi khen Chúa đời đời, mãi mãi.2Hằng ngày, con sẽ chúc tán Chúa; con sẽ ca ngợi danh Ngài đời đời, mãi mãi.
3Đức Giê-hô-va thật vĩ đại, và đáng được ngợi khen; sự vĩ đại của Ngài không dò thấu được. 4Thế hệ này sẽ ca tụng công việc Chúa cho thế hệ kế tiếp và sẽ rao ra các việc quyền năng của Chúa.
5Con sẽ suy gẫm về sự oai nghi của vinh quang Chúa cũng như về những việc diệu kỳ của Ngài. 6Người ta sẽ nói về quyền năng của những việc lớn và đáng sợ của Chúa; con sẽ công bố sự vĩ đại của Ngài.
7Người ta sẽ rao ra đức nhân từ dư dật của Chúa, họ sẽ hát về đức công chính của Ngài. 8Đức Giê-hô-va thật bao dung, nhân từ, chậm giận và rất thành tín.
9Đức Giê-hô-va nhân hậu với mọi người; Chúa từ bi đối với mọi tạo vật của Ngài. 10Đức Giê-hô-va ôi, mọi vật Ngài tạo ra sẽ cảm tạ Ngài; những người trung thành với Chúa sẽ chúc tán Ngài.
11Những kẻ trung tín với Chúa sẽ nói về vinh quang của nước Chúa, họ cũng sẽ nói về quyền năng Ngài.
12Họ sẽ nói cho người ta biết các công việc quyền năng cùng sự rực rỡ vinh hiển của nước Chúa. 13Nước Chúa là nước đời đời, quyền thế Chúa trường tồn suốt mọi thế hệ. 14Kẻ ngã té Đức Giê-hô-va đỡ nâng, người cong khom Chúa khiến đứng ngay dậy.
15Mắt của mọi loài trông đợi Chúa; đúng thời điểm Chúa ban vật thực cho chúng.
16Chúa sè tay ra làm thỏa nguyện mọi vật sống. 17Đức Giê-hô-va là công chính trong mọi đường lối mình và bao dung trong mọi việc Ngài làm.
18Đức Giê-hô-va ở gần tất cả những ai kêu cầu Ngài, tức mọi người kêu cầu Ngài với lòng tin cậy.
19Ngài đáp ứng niềm khao khát của những kẻ tôn kính Ngài; Ngài nghe tiếng kêu xin của họ và cứu vớt họ. 20Đức Giê-hô-va canh giữ mọi người yêu mến Ngài, nhưng sẽ diệt hết kẻ gian ác.
21Miệng con sẽ nói ra lời ca ngợi Đức Giê-hô-va; nguyện toàn thể nhân loại ngợi khen danh thánh của Chúa đời đời, mãi mãi. 1461Hãy ngợi khen Đức Giê-hô-va. Hỡi linh hồn này, hãy ca tụng Đức Giê-hô-va.2Còn sống bao lâu thì tôi sẽ ca ngợi Đức Giê-hô-va bấy lâu. 3Đừng tin cậy vua chúa hoặc con người, là nơi không có sự cứu rỗi.
4Khi hơi sống tắt đi, người ta trở về với đất; trong ngày đó, các toan tính của họ cũng chấm dứt. 5Phước cho kẻ có Đức Chúa Trời của Gia-cốp giúp đỡ, tức kẻ đặt hy vọng nơi Đức Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình.
6Đức Giê-hô-va tạo dựng trời và đất, biển cùng mọi vật dưới biển; Ngài giữ lòng chân thật đến đời đời. 7Ngài thi hành sự công bình cho kẻ bị áp bức và ban lương thực cho người đói. Đức Giê-hô-va giải phóng người bị tù.
8Đức Giê-hô-va mở mắt người đui; Đức Giê-hô-va đỡ dậy những kẻ cong khom; Đức Giê-hô-va yêu mến người công chính. 9Đức Giê-hô-va che chở khách ngoại kiều trong xứ; Ngài nâng đỡ kẻ mồ côi và góa phụ, nhưng Ngài chống lại kẻ ác.
10Hỡi Si-ôn, Đức Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi sẽ cai trị đời đời, trải suốt mọi thế hệ. Hãy ca ngợi Đức Giê-hô-va. 1471Hãy ngợi khen Đức Giê-hô-va, vì hát ca ngợi Đức Chúa Trời chúng ta là việc tốt, thật vui thích, và hợp lẽ.2Đức Giê-hô-va tái thiết Giê-ru-sa-lem, Ngài tập họp lại con dân Y-sơ-ra-ên đang lưu lạc.
3Ngài chữa lành những tấm lòng tan vỡ và băng bó vết thương của họ. 4Ngài đếm số các ngôi sao, Ngài đặt tên cho hết thảy chúng nó.
5Vĩ đại thay Chúa của chúng ta, quyền năng Ngài thật đáng sợ, sự hiểu biết Ngài không dò được. 6Đức Giê-hô-va nâng đỡ người bị áp bức, nhưng Ngài hạ kẻ ác xuống đất.
7Hãy hát cho Đức Giê-hô-va kèm theo lời cảm tạ, hãy dùng đàn hạt hát ca ngợi Đức Chúa Trời chúng ta. 8Ngài dùng mây che phủ các tầng trời và sắm sửa mưa cho trái đất, khiến cỏ mọc trên núi đồi.
9Chúa ban thức ăn cho thú vật cũng như cho quạ con khi chúng kêu la. 10Chúa không thích sức mạnh của loài ngựa, Ngài chẳng vui về đôi chân khỏe của người ta.
11Đức Giê-hô-va vui thích về những kẻ biết tôn kính Ngài, đặt hy vọng nơi lòng thành tín Ngài. 12Hỡi Giê-ru-sa-lem, hãy ca ngợi Đức Giê-hô-va; hỡi Si-ôn, hãy ngợi khen Đức Chúa Trời ngươi.
13Vì Ngài làm vững chắc các then cửa ngươi, Ngài ban phước cho con cái ở giữa ngươi.
14Ngài đem sự thạnh vượng đến bên trong xứ ngươi, Ngài cho ngươi no đủ bằng lúa mì hảo hạng. 15Ngài ban lệnh cho đất, lệnh Ngài được truyền đi tức khắc.
16Chúa làm ra tuyết trắng như lông chiên, Ngài rải sương giá khác nào tro bụi. 17Chúa đổ mưa đá xuống như vụn bánh, ai có thể chịu nổi giá lạnh Ngài giáng xuống?
18Ngài ra lệnh làm chúng tan đi, Ngài khiến gió thổi và có nước chảy. 19Ngài công bố lời Ngài cho Gia-cốp, các luật lệ cùng các nghị định công chính Ngài cho Y-sơ-ra-ên.
20Ngài không làm vậy với dân tộc nào khác, nên các nghị định Ngài họ chẳng biết. Hãy ca ngợi Đức Giê-hô-va. 1481Hãy ngợi khen Đức Giê-hô-va. Trên các tầng trời, hãy ca ngợi Đức Giê-hô-va; trên các nơi cao, hãy ca ngợi Ngài.2Hỡi toàn thể các thiên sứ Ngài, hãy ca ngợi Ngài; hỡi tất cả các đoàn thiên binh của Chúa, hãy ca ngợi Ngài. 3Hỡi mặt trời, mặt trăng, hãy ca ngợi Ngài; hỡi mọi vì sao sáng, hãy ca ngợi Ngài.
4Hỡi tầng trời cao nhất, cùng với nước bên trên bầu trời, hãy ca ngợi Ngài. 5Nguyện tất cả đều ca ngợi danh Đức Giê-hô-va, vì Ngài ra lệnh thì chúng được tạo thành.
6Ngài cũng đã lập chúng vững bền đời đời, mãi mãi; Ngài ban hành một nghị định chẳng bao giờ thay đổi. 7Từ trái đất, tất cả hãy ca ngợi Đức Giê-hô-va, nào là các sinh vật biển cùng mọi vực thẳm của đại dương;
8lửa cùng mưa đá, tuyết và mây, cùng gió bão thi hành lời Ngài phán;9các núi cùng mọi ngọn đồi, cây ăn trái cùng mọi cây bá hương;10thú hoang cùng gia súc, côn trùng cùng chim chóc;11các vua trên đất cùng mọi dân tộc, các quan tướng cùng mọi kẻ cai trị trên đất;12thanh niên lẫn thiếu nữ, người cao tuổi lẫn trẻ em.13Nguyện tất cả đều ca ngợi danh Đức Giê-hô-va, vì chỉ danh Ngài được tôn cao và vinh quang Ngài trải khắp đất cũng như các tầng trời.
14Chúa đã nhấc cái sừng của dân Ngài lên để nhận được sự ca ngợi từ mọi kẻ tín trung của Ngài, tức người Y-sơ-ra-ên, là dân gần gũi với Ngài. Hãy ca ngợi Đức Giê-hô-va. 1491Hãy ca ngợi Đức Giê-hô-va. Hãy hát cho Đức Giê-hô-va một bài ca mới; hãy hát ca ngợi Ngài giữa hội người trung tín.2Nguyện Y-sơ-ra-ên hoan hỷ nơi Đấng đã khiến mình thành một dân; nguyện dân chúng Si-ôn vui mừng nơi vua mình.
3Nguyện họ nhảy múa ca ngợi danh Ngài; nguyện họ dùng trống lắc cùng đàn hạt mà hát ca ngợi Ngài. 4Vì Đức Giê-hô-va vui thích dân Ngài; Ngài lấy sự cứu rỗi tôn vinh kẻ khiêm cung.
5Nguyện những người tin kính Chúa hoan hỉ về chiến thắng; nguyện họ hoan ca trên giường mình. 6Nguyện lời ca ngợi Chúa ở trên môi miệng họ, và thanh gươm hai lưỡi ở trên tay họ
7thi hành sự báo thù trên các nước, sự hình phạt trên các dân.8Họ sẽ dùng xích mà trói các vua chúng nó, dùng cùm mà xiềng giới quyền quý của chúng nó.
9Họ sẽ thi hành án phạt đã chép. Đó là niềm vinh dự cho mọi kẻ trung tín. Hãy ca ngợi Đức Giê-hô-va. 1501Hãy ca ngợi Đức Giê-hô-va. Hãy ca ngợi Đức Chúa Trời trong nơi thánh Ngài; hãy ca ngợi Chúa trên các tầng trời hùng vĩ.2Hãy ca ngợi Chúa vì các việc quyền năng Ngài; hãy ca ngợi Chúa về sự vĩ đại trổi vượt của Ngài. 3Hãy dùng tiếng kèn mà ca ngợi Chúa; hãy dùng đàn luýt cùng đàn hạt mà ca ngợi Ngài.
4Hãy dùng trống lắc và nhảy múa mà ca ngợi Chúa; hãy dùng nhạc khí bằng dây cùng nhạc khí bằng hơi mà ca ngợi Ngài.
5Hãy dùng chập chỏa dội tiếng mà ca ngợi Ngài; hãy dùng chập chỏa vang rền mà ca ngợi Ngài. 6Nguyện mọi vật có hơi thở ca ngợi Đức Giê-hô-va. Hãy ngợi khen Đức Giê-hô-va.
Châm ngôn
11Châm ngôn của Sa-lô-môn, con trai Đa-vít, Vua Y-sơ-ra-ên:2Những câu châm ngôn nầy chép ở đây để dạy sự khôn ngoan, truyền bá kiến thức, và dạy dỗ các lời thông sáng;3để độc giả nhận lãnh sự chỉnh sửa để sống bằng cách làm theo điều phải, công bình, lý đoán, và chánh trực;4Những câu châm ngôn nầy cũng ban cho người nào chưa được dạy dỗ biết khôn khéo, ban tri thức và sự suy xét cho lứa tuổi thanh thiếu niên.5Nguyện người khôn lắng nghe và thêm lên sự học hỏi, và nguyện người nào biết phân biệt sẽ nhận được sự dẫn dắt,
6để hiểu biết châm ngôn, thí dụ, và lời lẽ của hạng người khôn ngoan, cùng câu đố bí ẩn của họ.7Sự kính sợ Đức Giê-hô-va là khởi đầu sự tri thức — còn kẻ ngu muội xem khinh sự khôn ngoan và sự kỷ luật.
8Con ơi, hãy nghe sự dạy dỗ của cha, và đừng bỏ phép tắc của mẹ con;
9chúng sẽ như một vòng hoa đội trên đầu con và như sợi dây chuyền đeo quanh cổ con.10Con ơi, nếu hạng tội nhân kiếm tìm cách dụ dỗ con bước theo tội lỗi của họ, hãy từ chối đừng theo họ.
11Nếu họ nói: “Hãy đến cùng chúng ta, chúng ta sẽ rình rập để giết người, chúng ta núp đợi rồi tấn công kẻ vô tội dù chẳng vì lý do nào hết; 12Chúng ta sẽ nuốt sống họ, y như âm phủ cuốn lấy những kẻ nào mạnh khoẻ, rồi khiến họ cứ thế mà xuống mồ mả;13Chúng ta sẽ tìm kiếm các thứ có giá trị; chúng ta sẽ chất đầy nhà chúng ta mọi thứ chúng ta cướp của người khác.14Hãy dự phần với chúng ta; hết thảy chúng ta có một túi bạc mà thôi.” 15Con ơi, đừng đi chung đường với chúng; đừng để cho chân con chạm vào lối chúng đang đi;
16chân chúng nó chạy đến sự ác và chúng lật đật làm đổ huyết ra.17Vì thật là vô ích khi giăng lưới ra bẫy một con chim đang khi nó cảnh giác. 18Hạng người nầy đang phục chờ để giết người ta, và giăng một cái bẫy để hại họ.
19Đó là đường của những kẻ chuyên làm giàu bằng sự bất công; lợi bất nghĩa tước đi mạng sống của những ai đang nắm giữ nó. 20Khôn ngoan kêu la lớn tiếng ở ngoài đường, nó cất tiếng vang dội ở những nơi rộng rãi;
21ở đầu những con đường lúc nào cũng náo nhiệt, nó cất tiếng nơi lối vào thành,22“Các ngươi là kẻ chẳng chút khôn ngoan, các ngươi ưa thích những điều các ngươi không hiểu cho đến bao giờ? Hỡi các ngươi là kẻ nhạo báng sẽ ưa sự nhạo báng, và hỡi kẻ dại dột, các ngươi sẽ ghét sự tri thức cho đến chừng nào?23Hãy chú ý vì ta trách các ngươi; Ta sẽ dốc đổ mọi tư tưởng của ta cho các ngươi; Ta sẽ làm cho các ngươi biết những lời của ta.
24Ta đã kêu gọi, mà các ngươi từ chối không chịu nghe; Ta giơ tay ra, mà chẳng có ai chịu chú ý.
25Nhưng các ngươi đã bất chấp sự dạy dỗ của ta không chú ý đến lời quở trách ta. 26Ta sẽ chê cười nơi hoạn nạn của các ngươi, ta sẽ chế giễu các ngươi khi kinh khủng đến —
27khi sự sợ hãi các ngươi xảy đến như giông bão và tai vạ xông vào các ngươi như cơn trốt, khi tai hoạ, đau khổ giáng trên các ngươi.28Khi ấy họ sẽ kêu cầu ta, và ta chẳng đáp lời; họ kêu cầu ta trong nổi thất vọng, nhưng họ sẽ không tìm gặp ta được.
29Vì họ ghét tri thức và không chọn sự kính sợ Đức Giê-hô-va,
30họ không làm theo sự dạy dỗ của ta, và họ xem khinh sự chỉnh sửa của ta.31Họ sẽ ăn bông trái của đường lối mình, và được no nê hậu quả toan tính của họ.
32Người nào chưa được dạy dỗ bị giết khi họ xây đi, và sự dửng dưng của kẻ dại sẽ huỷ diệt họ
33Nhưng ai chịu nghe theo ta sẽ sống trong sự an ninh và sẽ yên nghỉ mà chẳng sợ tai họa nào.” 21Con ơi, nếu con tiếp nhận lời ta và dành chứa các mạng lịnh ta với con,2lắng nghe theo sự khôn ngoan và lòng con xu hướng về sự thông sáng.3Nếu con cầu xin để có sự hiểu biết và cất tiếng lên kêu xin sự thông sáng,
4Nếu con tìm nó giống như con tìm bạc và tìm cách để có được sự hiểu biết giống như con tìm kiếm báu vật chôn kín,5khi ấy con sẽ hiểu biết sự kính sợ Đức Giê-hô-va và tìm được tri thức về Đức Chúa Trời.6Vì Đức Giê-hô-va ban ra sự khôn ngoan, từ miệng Ngài ra điều tri thức và sự thông sáng.
7Ngài chất chứa lời lẽ khôn ngoan cho người nào đẹp lòng Ngài, Ngài là thuẫn đỡ của người nào ăn ở trong sự ngay thẳng,
8Ngài canh chừng các lối công bình và Ngài sẽ giữ gìn đường lối của người nào trung tín với Ngài.9Khi ấy con sẽ hiểu biết sự ngay thẳng, sự công bình, và sự chánh trực, cùng từng nẻo tốt lành.
10Vì sự khôn ngoan sẽ ngự vào trong lòng con, và tri thức sẽ làm vui thích cho linh hồn con. 11Sự thận trọng sẽ canh chừng con, sự hiểu biết sẽ gìn giữ con.
12Chúng sẽ cứu con khỏi con đường dữ, khỏi kẻ nói ra những việc gian tà,
13khỏi kẻ từ bỏ đường ngay thẳng mà đi theo các lối tối tăm.14Họ vui mừng khi họ làm dữ và ưa thích sự ngoan cố của kẻ ác.
15Chúng nó lương lẹo trong đường lối mình, và dùng sự lừa đảo chúng nó che giấu mưu mẹo của mình. 16Sự khôn ngoan và sự thận trọng sẽ cứu con khỏi người đàn bà phi đạo đức, khỏi người nữ tìm cách phiêu lưu và khỏi lời nói vui tai của nàng.
17Nàng lìa bỏ bạn lúc đang thì mình và quên sự giao ước của Đức Chúa Trời mình. 18Vì nhà nàng xiêu qua sự chết và các lối nàng sẽ dẫn con đến với những kẻ ở trong mồ mả.
19Hết thảy ai vào nhà nàng sẽ chẳng trở về được và họ sẽ không tìm được con đường sự sống. 20Vậy, con nên ăn ở theo con đường của người thiện và bước theo các lối của người nào làm phải.
21Vì người nào làm sự ngay thẳng sẽ lập nhà cửa trên đất, và người nào ăn ở ngay thẳng sẽ còn trong đó luôn luôn.
22Nhưng kẻ gian ác sẽ bị dứt khỏi đất, và kẻ bất trung sẽ bị rứt ra khỏi đó. 31Con ơi, chớ quên các mạng lịnh ta và hãy giữ các sự dạy của ta,2vì chúng sẽ thêm cho con lâu ngày và nhiều năm sống, và sự bình an.3Chớ để sự trung tín và sự đáng tin mang tính giao ước lìa khỏi con, hãy đeo cả hai thứ ấy vào cổ, ghi nó nơi bảng lòng con.
4Khi ấy, con sẽ tìm được ơn và có tiếng tốt trước mặt Đức Chúa Trời và loài người. 5Hãy hết lòng tin cậy Đức Giê-hô-va và chớ nương cậy vào sự thông sáng của riêng con;
6trong mọi đường lối của con khá công nhận Ngài thì Ngài sẽ ban bằng các nẻo của con.7Chớ khôn ngoan theo mắt mình; hãy kính sợ Đức Giê-hô-va, và xây khỏi sự ác.
8Điều đó sẽ là sự chữa lành khoan khoái cho thân thể con. 9Hãy tôn vinh Đức Giê-hô-va với tài vật của con và hoa quả đầu mùa của con,
10và các kho chứa của con sẽ được dư dật và những thùng của con sẽ tràn đầy rượu mới.11Con ơi, chớ xem thường kỷ luật của Đức Giê-hô-va và chớ ghét bỏ sự quở trách của Ngài,
12vì Đức Giê-hô-va kỷ luật kẻ Ngài yêu, như một người cha đối xử với con cái nào làm đẹp lòng Ngài.13Người nào tìm kiếm sự khôn ngoan có phước thay, người cũng nhận lấy sự thông sáng nữa.
14Những gì con nhận được từ sự khôn ngoan thì tốt hơn những gì bạc cung ứng cho, ích lợi của nó thì tốt hơn cả vàng. 15Sự khôn ngoan quí báu hơn châu ngọc và chẳng một thứ chi con ao ước có thể sánh với nó được.
16Nó cầm sự lâu ngày nơi tay hữu; còn trong tay tả nó là sự giàu có và vinh hiển. 17Các đường nẻo nó đều là sự nhân từ và các lối nó thảy đều bình an.
18Nó là cây sự sống cho những ai nắm chặt lấy nó, người nào nắm giữ nó đều có phước. 19Bởi sự khôn ngoan Đức Giê-hô-va đã lập nên trái đất, bởi sự thông sáng mà lập nên các từng trời.
20Bởi sự thông sáng của Ngài, các vực sâu mở ra và các đám mây nhỏ sương móc xuống. 21Con ơi, hãy xét đoán và phân biện sao cho đúng đắn, và đừng lệch khỏi chúng.
22Chúng sẽ là sự sống cho linh hồn con và là đồ trang sức quấn quanh cổ con. 23Khi ấy con sẽ bước đi an toàn trong đường lối của con và chân con không vấp ngã;
24khi con nằm, con sẽ chẳng phải lo sợ; khi con nằm xuống, giấc ngủ con sẽ được ngọt ngào.25Chớ sợ sự kinh khiếp xảy đến thình lình hoặc sự tàn hại do kẻ ác gây ra, khi nó đến,
26vì Đức Giê-hô-va sẽ ở bên cạnh con và sẽ gìn giữ chân con khỏi sa vào bẫy rập.27Chớ rút sự làm lành lại đối với người nào xứng đáng khi con có quyền làm việc ấy.
28Chớ nói cùng kẻ lân cận con: “Hãy đi, rồi trở lại, thì ta sẽ trao cho”, khi con có tiền bạc bên mình. 29Chớ lập mưu hại kẻ lân cận con — những ai sống gần gũi và tin cậy con.
30Đừng tranh luận với ai mà không có lý do, khi người ấy chẳng làm gì hại con. 31Chớ ganh tỵ với kẻ hung dữ hay cũng đừng chọn lối nào của hắn.
32Vì kẻ đáng tởm bị gớm ghiếc đối với Đức Giê-hô-va, nhưng Ngài đưa người ngay thẳng vào trong sự tin cậy Ngài. 33Sự rủa sả của Đức Giê-hô-va giáng trên nhà kẻ ác, song Ngài chúc phước cho nhà cửa của người công bình.
34Ngài nhạo báng kẻ hay nhạo báng, nhưng Ngài ban sự ưu ái của Ngài cho người khiêm nhường. 35Người khôn ngoan sẽ hưởng được tiếng tốt, còn kẻ dại sẽ được nhấc lên trong sự xấu hổ của hắn. 41Hỡi các con, hãy nghe lời khuyên dạy của một người cha, và hãy chú ý hầu cho con biết đâu là sự thông sáng.2Ta ban cho các con những sự dạy dỗ tốt lành; chớ quên lời dạy dỗ của ta. 3Khi ta là con trai của cha ta, đứa con một của mẹ ta yêu mến.
4Cha ta có dạy ta rằng: “Nguyện lòng ghi chặt lấy các lời ta; hãy giữ lấy các mạng lịnh ta và sống theo. 5Khá cầu lấy sự khôn ngoan và sự thông sáng; chớ quên và chớ chối bỏ các lời của miệng ta;
6đừng lìa bỏ sự khôn ngoan thì nó sẽ quan phòng con; hãy yêu mến người, thì người sẽ giữ con được an toàn.7Sự khôn ngoan là việc quan trọng nhất, vậy, khá cầu lấy sự khôn ngoan và hãy dùng hết của con đã được mà mua sự thông sáng.
8Hãy ấp ủ sự khôn ngoan và sự khôn ngoan sẽ tôn con lên; sự khôn ngoan sẽ tôn vinh con khi con vòng tay ôm lấy sự khôn ngoan.
9Sự khôn ngoan sẽ đội trên đầu con một vòng hoa vinh dự; sự khôn ngoan sẽ ban cho con một mão triều thật đẹp.” 10Con ơi, hãy nghe và chú ý đến các lời ta, thì con sẽ có nhiều năm trong đời sống con.
11Ta dẫn dắt con trong đường khôn ngoan; ta dẫn con vào các lối ngay thẳng.
12Khi con bước đi, không một ai dám đứng cản lối con và nếu con chạy, con sẽ không vấp ngã.13Hãy nắm chắc phần kỷ luật, chớ buông ra; khá gìn giữ nó, vì đó là sự sống của con.
14Chớ bước theo lối của kẻ ác và đừng đi theo đường của kẻ làm ác.
15Hãy tránh đường ấy, chớ dẫm lên nó; hãy xây khỏi nó và cứ đi đường khác. 16Vì họ không thể ngủ cho đến khi họ làm ác và giấc ngủ bị tước khỏi họ cho đến khi họ gây cho ai đó phải vấp ngã.
17Vì họ ăn bánh của sự gian ác và uống rượu của sự hung bạo. 18Nhưng đường người làm việc ngay thẳng giống như tia sáng đầu tiên chiếu rạng, nó càng sáng thêm lên cho đến giữa trưa.
19Còn nẻo kẻ gian ác giống như bóng tối — họ chẳng biết mình vấp ngã vì đâu. 20Con ơi, hãy chú ý đến các lời ta; hãy lắng nghe lời giảng luận của ta.
21Chớ để các lời ấy xa khỏi mắt con, hãy giữ chúng trong tấm lòng của con. 22Vì các lời ta đều là sự sống cho người nào tìm được nó và sự khỏe mạnh cho toàn thân thể của họ.
23Khá cẩn thận giữ tấm lòng của con được an toàn và cẩn thận coi chừng nó, vì từ đó các nguồn sự sống sẽ tuôn tràn ra 24Hãy bỏ đi lối nói quanh co khỏi miệng con và bỏ lối nói hủ bại khỏi con.25Nguyện mắt con hãy ngó thẳng về đàng trước và mí mắt con khá nhìn thẳng trước mặt con. 26Hãy ban bằng cái nẻo của chân con; rồi mọi đường lối con sẽ được an ninh.
27Chớ xây qua bên phải hay bên trái; hãy dời chân con khỏi sự ác. 51Con ơi, hãy chú ý đến sự khôn ngoan ta; hãy cẩn thận lắng nghe sự thông sáng ta,2con biết thận trọng, và môi miệng con bảo tồn sự tri thức.3Vì môi kẻ dâm phụ nhỏ ra mật, và miệng nó dịu hơn dầu,
4nhưng đến cuối cùng nàng ta đắng như ngải cứu, bén như gươm hai lưỡi.5Chân nàng ta bước xuống chỗ chết; bước nàng ta nhắm suốt con đường dẫn tới âm phủ.
6Nàng ta không chút nghĩ suy gì đến đường sự sống. Các bước chân của nàng ta phiêu bạt, nàng ta chẳng biết mình đi về đâu. 7Vậy bây giờ, hỡi các con, hãy nghe theo ta; chớ xây khỏi việc nghe theo các lời của miệng ta.
8Hãy dời đường các con tránh xa nàng ta, và đừng lại gần cửa nhà nó. 9Trong đường đó các con sẽ không nhường danh dự mình cho kẻ khác hoặc số năm mạng sống các con cho kẻ hung bạo.
10Những người lạ sẽ chẳng tiệc tùng nơi sự giàu có của con; mọi điều con làm lụng được sẽ chẳng chạy vào nhà kẻ ngoại. 11Cuối đời các con sẽ rên siết khi xác thịt và thân thể các con đã bị hao mòn.
12Các con sẽ nói: “Cớ sao tôi ghét sự kỷ luật và lòng tôi khinh bỉ sự sửa phạt chớ? 13Tôi sẽ không vâng theo tiếng giáo sư tôi hoặc lắng nghe theo những người dưỡng dục tôi?
14Gần như là tôi bị sụp đổ hoàn toàn giữa hội chúng, giữa sự nhóm lại của dân sự.” 15Hãy uống nước hồ con chứa, và hãy uống nước chảy ra trong giếng của chính con.
16Các suối của con nên tràn ra khắp mọi nơi, và sông nước của con nên tràn ra nơi phố chợ sao?
17Nguyện nó khá về một mình con, và chớ đừng về các dân Ngoại ở với con. 18Nguyện dòng suối của con được chúc phước cho và nguyện con vui vẻ nơi vợ con cưới buổi đang thì.
19Vì nàng như nai cái dễ thương, và hoàng dương có duyên dáng. Nguyện ngực nàng làm thỏa lòng con luôn luôn, và ái tình nàng khiến cho con say mê mãi mãi. 20Con ơi, cớ sao con mê mệt người dâm phụ; cớ sao con cứ mãi ôm lấy ngực của người đàn bà lạ chứ?
21Vì Đức Giê-hô-va nhìn thấy mọi sự một người làm và nhìn thấy mọi nẻo đường người đang bước đi. 22Kẻ gian ác sẽ bị mọi lầm lỗi của hắn bắt lấy; các sợi dây tội lỗi của hắn vấn buộc lấy.
23Hắn sẽ chết vì thiếu kỷ luật; hắn lạc sai do sự dại dột quá quắt của hắn. 61Con ơi, nếu con biệt riêng tiền bạc như sự bảo đảm món nợ của kẻ lân cận mình, nếu con đưa ra lời hứa về món nợ của ai đó mà con không quen biết,2khi ấy con đã tự mình lọt vào bẫy do lời hứa của mình, và con mắc phải lời của miệng con.3Con ơi, trong trường hợp đó, hãy làm điều nầy và giải cứu mình, bởi vì con đang ở trong sự thương xót của kẻ lân cận con, hãy đi hạ mình xuống rồi nài kẻ lân cận xin tha cho con. 4Đừng nhắm mắt ngủ và mí mắt con đừng chợp lại.
5Hãy tự cứu mình giống như con hoàng dương thoát khỏi tay thợ săn, như con chim thoát khỏi tay kẻ đánh rập. 6Hãy nhìn xem loài kiến, hỡi con là kẻ biếng nhác, hãy xem xét cách ăn ở nó mà học khôn ngoan.
7Nó chẳng có hoặc quan tướng, hoặc cai đốc, hay là quan cai trị nào hết,
8tuy nhiên, nó sắm sửa thực phẩm cho mình lúc mùa hè, và trong mùa gặt nó chất chứa mọi thứ nó ăn được.9Hỡi kẻ biếng nhác, con sẽ nằm ngủ cho đến chừng nào? Khi nào thì con trở mình dậy khỏi giấc ngủ?
10Ngủ một chút, chợp mắt một chút, khoanh tay nghỉ một chút”—
11thì sự nghèo khổ của con sẽ đến như kẻ trộm, và mọi nhu cầu của con giống kẻ cầm binh khí vậy.12Một người không có giá trị — một kẻ gian ác — sống bởi miệng giả dối của hắn,
13con mắt láo liên, ra dấu bằng chân, và chỉ bằng ngón tay mình.14Hắn mưu ác với sự gian dối ở trong lòng; hắn luôn gieo ra sự tranh cạnh.
15Bởi cớ ấy, tai họa sẽ liền bắt lấy hắn; trong khoảnh khắc hắn bị bại hoại, không phương thế chữa được. 16Có sáu điều Đức Giê-hô-va thù ghét, và bảy điều Ngài lấy làm gớm ghiếc: 17Con mắt của kẻ kiêu ngạo, lưỡi hay nói dối, tay làm đổ huyết người vô tội,18lòng toan những mưu ác, chân chạy mau để làm ác,19kẻ làm chứng hà ra sự dối trá, và kẻ nào gieo sự tranh cạnh trong vòng các anh em.20Con ơi, hãy vâng theo mạng lịnh của cha, và chớ lìa bỏ sự dạy của mẹ con.
21Luôn luôn cột nó nơi lòng con, đeo nó quanh cổ con. 22Khi con đi, chúng sẽ dẫn dắt con; lúc con ngủ, chúng sẽ gìn giữ con; và khi con thức dậy, thì chúng sẽ dạy dỗ con.
23Vì điều răn là một cái đèn, và sự dạy dỗ là ánh sáng, các sự quở trách kỷ luật là con đường sự sống. 24Nó giữ con khỏi người đàn bà không có đạo đức, khỏi lời lẽ ngọt xớt của dâm phụ.
25Đừng nổi tư dục ở trong lòng theo sắc đẹp nó, và đừng để mí mắt nó bắt lấy con. 26Ngủ với gái điếm có thể trả cái giá của một miếng bánh; nhưng vợ của người khác có thể khiến con trả giá bằng chính mạng sống của con.
27Có người nào để lửa trước ngực mà không làm cháy áo của mình? 28Có ai đi trên than lửa hực mà chân mình lại chẳng bị phồng chăng?
29Cũng vậy, kẻ nào ngủ với vợ kẻ lân cận mình; người nào ngủ với nàng sẽ chẳng khỏi bị phạt. 30Người ta chẳng xem khinh kẻ trộm nếu nó ăn cắp đặng làm thoả mãn nhu cần mình khi nó đói khát.
31Tuy nhiên, nếu nó bị bắt, nó sẽ trả lại gấp bảy lần những gì nó lấy cắp; nó sẽ nộp hết tài sản của nhà nó. 32Kẻ nào phạm tội tà dâm mà chẳng biết chi hết; người nào làm vậy đang tự huỷ diệt mình.
33Nhiều thương tích và xấu hổ là những thứ hắn phải chịu, và tình trạng xấu hổ ấy sẽ chẳng được bôi xoá đi; 34Vì sự ghen ghét làm cho người ta giận dữ; người chẳng tỏ ra chút thương xót nào hết khi người có quyền báo thù.35Người sẽ chẳng nhận một sự bồi thường nào hết, và không thể mua chuộc được, dù con dâng cho người nhiều lễ vật. 71Con ơi, hãy giữ các lời ta và chất chứa ở trong con các mạng lịnh ta.2Hãy giữ lấy các mạng lịnh ta, hãy sống và giữ theo sự dạy dỗ của ta như con ngươi của mắt con.
3Hãy cột nó nơi các ngón tay con; hãy ghi nó trên bảng lòng con. 4Hãy nói với sự khôn ngoan rằng: “Ngươi là chị em ta”, và gọi sự thông sáng là bà con của con,
5để giữ con khỏi người nữ có sức cám dỗ kia, khỏi dâm phụ có lời ngọt xớt kia.6Nơi cửa sổ của nhà ta, Ta nhìn ngang qua lưới mắt cáo
7thì ta thấy nhiều thanh niên, chúng không được dạy dỗ. Ta nhìn thấy giữa vòng những thanh thiếu niên ấy có một thanh niên không trí hiểu.8Thanh niên ấy đi qua đường gần góc nhà nàng và anh ta đi hướng về nhà nàng —
9trời đã chạng vạng, vào lối chiều, vào thời điểm của ban đêm và trời tối.10Rồi ở đó một người nữ bước ra đón hắn, ăn mặc như gái điếm, và nàng biết lý do tại sao nàng có mặt ở đó.
11Nàng nói năng lớn tiếng, ngang ngạnh, hai chân nàng không ở trong nhà —
12lúc trên đường phố, lúc nơi phố chợ, nàng giả vờ chờ đợi tại các góc hẻm.13Thế là nàng chụp lấy hắn mà hôn, với mặt chai mày đá, nàng ta nói cùng hắn rằng:
14“Tôi có của lễ thù ân hôm nay, tôi đã trả xong các lời khấn nguyện tôi,15vậy tôi ra đây đón anh, muốn thấy mặt anh, và tôi đã tìm được.16Tôi đã trải ra bằng chỉ đủ màu của người Ai-cập trên giường.
17Tôi xức dầu thơm cho giường mình với một dược, lư hội, và quế bì.
18Hãy đến, chúng ta sẽ ân ái yêu đương cho đến sáng, chúng ta lấy làm khoái lạc với các kiểu làm tình khác nhau. 19Chồng tôi không có ở nhà; người luôn luôn có chuyến đi dài ngày,
20Người đem túi bạc theo với người; người sẽ trở về đúng vào ngày rằm.”21Với cách ăn nói có tính dụ dỗ nàng khích hắn, và với lối nói năng ngọt xớt ấy nàng thúc ép hắn. 22Hắn liền đi theo nàng giống như con bò đến với người làm thịt, hoặc như con nai bị lọt vào bẫy
23cho đến khi mũi tên xoi ngang qua gan nó — hay như con chim ùa vào lưới bẫy, mà không biết mình phải trả giá bằng mạng sống mình.24Vậy bây giờ, con ơi, hãy nghe ta; hãy chú ý những điều ta đang nói.
25Chớ để lòng con chớ xây vào đường nẻo của nàng ta; chớ đi lạc vào các lối của nàng. 26Nàng đã làm cho nhiều nạn nhân phải vấp ngã; họ chẳng còn được kể đến nữa.
27Nhà nàng nằm trên con đường dẫn đến âm phủ; nó dẫn xuống những gian phòng của sự chết. 81Có phải sự khôn ngoan không kêu lên sao? Có phải sự thông sáng không cất tiếng mình lên ư?2Sự khôn ngoan chiếm chỗ đứng ở nơi cao, bên ngã tư đường.
3Bên lối vào thành, gần cổng thành, sự khôn ngoan kêu lên. 4Hỡi mọi người, ta kêu gọi các ngươi và cất giọng nhắm vào con cái loài người!
5Hỡi các ngươi, những người không được dạy dỗ, các ngươi phải hiểu sự khôn ngoan và các ngươi những kẻ thù ghét tri thức, các ngươi phải có một tấm lòng thông sáng. 6Hãy lắng nghe và ta sẽ nói những điều cao thượng và khi môi miệng ta mở ra, ta sẽ dạy dỗ điều phải —
7vì miệng ta nói ra điều đáng tin, và môi ta ghét sự ác.8Mọi lời lẽ của miệng ta đều là công bình; chẳng có điều chi cong vạy hoặc gian tà trong đó.
9Mọi lời lẽ của ta đều là ngay thẳng cho người nào hiểu biết; lời lẽ của ta là ngay thẳng cho người nào tìm kiếm tri thức. 10Hãy chọn sự dạy dỗ của ta hơn chọn bạc và tri thức hơn là vàng ròng.
11Vì Ta, Đấng khôn ngoan, tốt hơn châu ngọc; chẳng có gì các ngươi ao ước có thể sánh với ta được. 12Ta, Đấng khôn ngoan, sống với sự thông sáng, và ta có tri thức và sự thận trọng.
13Sự kính sợ Đức Giê-hô-va là thù ghét điều ác — Ta ghét sự ngạo mạn và kiêu căng, đường lối gian ác, và miệng gian tà. 14Ta có lời khuyên tốt và sự khôn ngoan thật; Ta có sự thông sáng, năng lực vốn thuộc về ta.
15Bởi Ta, các vua cùng các quí tộc cai trị — và hết thảy những ai cai quản cách công bình.
16Bởi Ta, các vua cai trị, người tước vị và hết thảy những ai cai trị với sự công bình. 17Ta yêu mến những người nào yêu mến ta, và người nào tìm kiếm ta, ắt sẽ gặp ta.
18Sự giàu có, vinh dự, của cải bền lâu, và sự công bình, đều ở với ta. 19Bông trái ta tốt hơn vàng, thậm chí hơn vàng ròng; những thứ ta tạo ra tốt hơn bạc cao.
20Ta đi trong con đường ngay thẳng, trong các nẻo dẫn tới sự công bình,
21nhơn đó ta sẽ ban cơ nghiệp cho người nào yêu mến ta và làm cho các kho tàng họ được đầy dẫy.22Giê-hô-va đã dựng nên ta từ lúc sáng thế —việc thứ nhứt trong mọi việc làm của Ngài từ ngàn xưa.
23Ta đã được lập từ trước vô cùng — trong chỗ thứ nhứt, từ lúc dựng nên thế gian. 24Trước khi có đại dương, ta đã được sanh ra — trước khi có sông suối đầy tràn nước.
25Trước khi núi non được lập nên, và trước khi có đồi núi, ta đã sanh ra rồi. 26Ta đã sanh ra trước khi Đức Giê-hô-va dựng nên đất hay đồng ruộng, hoặc ngay cả bụi đất đầu tiên trong thế gian.
27Ta có mặt ở đó khi Ngài dựng nên các từng trời, khi Ngài rút đường chân trời lên khỏi mặt vực. 28Ta có mặt ở đó khi Ngài dựng nên các từng trời trên cao và khi Ngài dựng nên các dòng suối ở vực sâu.
29Ta có mặt ở đó khi Ngài định các giới hạn cho đại dương, để nước không tràn qua chỗ mà Ngài đã truyền cho chúng, và khi Ngài lập chỗ để làm nền của địa cầu. 30Ta ở bên cạnh Ngài, làm thợ cái, và Ta là sự khoái lạc Ngài mỗi ngày, luôn luôn vui vẻ trước mặt Ngài.
31Ta lấy làm vui vẻ trong cả thế giới của Ngài, và sự vui thích của ta đặt nơi con người. 32Rồi bây giờ, các con ơi, hãy lắng nghe ta, vì người nào giữ các đường lối của ta sẽ được phước.
33Hãy nghe theo sự dạy dỗ của ta và sống khôn ngoan; đừng chễnh mãng nó.
34Người nào nghe theo ta sẽ được phước — mỗi ngày canh chừng tại nơi cửa ta, chờ đợi ta bên cửa nhà ta. 35Vì hễ ai tìm được ta, tìm được sự sống, và người ấy sẽ được ơn của Đức Giê-hô-va.
36Nhưng ai không tìm được ta, tự làm hại cho mình; còn kẻ nào ghét ta, ắt ưa thích sự chết.” 91Sự khôn ngoan đã xây dựng nhà riêng mình; từ đá người tạc thành bảy cây trụ.2Sự khôn ngoan sắm sẵn vật thực dọn cho bữa tối; người pha rượu nho mình; và dọn bàn tiệc mình. 3Người đã gửi lời mời đi cùng các tớ gái mình và người kêu la từ chỗ cao của thành:
4“Nguyện người nào chưa được dạy dỗ, hãy đến đây!” người nói với kẻ thiếu trí hiểu.5“Hãy đến, hãy ăn bánh của ta, và uống rượu ta đã pha.
6Hãy để các lối ngây dại lại sau lưng, và hãy sống; hãy ăn ở trong con đường thông sáng. 7Hễ ai chỉnh sửa kẻ hay nhạo báng mời gọi điều sỉ nhục, còn ai quở trách kẻ gian ác bị tổn thương.
8Chớ quở trách kẻ nhạo báng, hoặc nó sẽ thù ghét con; hãy quở trách người khôn ngoan, thì người sẽ yêu mến con.
9Hãy cung ứng các sự dạy dỗ cho người khôn ngoan, thì người sẽ được nên khôn ngoan hơn; hãy dạy dỗ người công bình, thì người sẽ thêm lên sự học hỏi. 10Kính sợ Đức Giê-hô-va là khởi đầu sự khôn ngoan, và sự hiểu biết Đấng Thánh là sự thông sáng.
11Vì nhờ ta, các ngày con sẽ được thêm nhiều lên, và đời sống sẽ được gia thêm nhiều năm nữa.
12Nếu con khôn ngoan, con sống khôn ngoan cho bản thân mình, nhưng nếu con nhạo báng, một mình con sẽ gánh lấy nó.” 13Một người đàn bà dại dột hay ồn ào — người chưa được dạy dỗ và chẳng biết chi cả.
14Người ngồi nơi cửa nhà mình, trên chỗ ngồi tại các nơi cao của thành.
15Người kêu gọi những kẻ nào đi đường, những kẻ đi thẳng lối của họ. 16Nguyện kẻ nào chưa được dạy dỗ hãy vào đây!” người nói với kẻ thiếu trí hiểu.
17“Nước ăn cắp rất là ngọt ngào, và bánh ăn vụng là ngon thay.”
18Nhưng người chẳng biết rằng kẻ chết đang ở đó, những người khách của người đang ở dưới chốn sâu của âm phủ. 101Châm ngôn của Sa-lô-môn. Con trai khôn ngoan làm vui cha mình; Nhưng đứa con dại dột gây buồn cho mẹ nó.2Của cải tích luỹ bởi sự gian ác chẳng có chút giá trị nào cả, nhưng làm phải giữ con khỏi chết.
3Đức Giê-hô-va không để cho người làm phải bị đói khát, nhưng Ngài gạt bỏ sự ước ao của kẻ ác đi. 4Tay kẻ biếng nhác khiến cho một người phải nghèo khổ, còn tay người siêng năng kiếm được sự giàu có.
5Con khôn ngoan thâu trữ lương thực lúc mùa hè, nhưng kẻ ngủ lúc mùa gặt là đứa con làm cho xấu hổ. 6Có nhiều ơn phước giáng trên đầu người biết làm phải, nhưng miệng kẻ ác che đậy sự bạo lực.
7Người làm phải khiến cho chúng ta lấy làm vui khi nghĩ đến người, nhưng tên kẻ ác thì mục rửa đi. 8Người biết phải trái tiếp nhận những điều răn, nhưng kẻ dại có miệng bép xép phải bị sa ngã.
9Người nào theo sự ngay thẳng bước đi an toàn, còn kẻ nào làm cong vẹo đường lối mình, người ta sẽ nhận ra. 10Người nào nheo mắt tạo ra đau khổ, còn ai có miệng bép xép sẽ bị sa ngã.
11Miệng của người làm điều phải là một nguồn sự sống, nhưng miệng kẻ hung ác che giấu sự bạo lực. 12Sự ghen ghét dẫn tới đánh lộn, nhưng lòng thương yêu lấp hết các lỗi lầm.
13Khôn ngoan được thấy nơi môi miệng người biết phân biện, nhưng cây roi dành cho lưng kẻ không có ý thức. 14Người khôn ngoan chất chứa tri thức, nhưng miệng kẻ ngu muội đem sự huỷ diệt đến gần.
15Sự giàu có của người giàu là cái thành kiên cố của người; sự khốn khổ của người nghèo là sự huỷ diệt của họ. 16Tiền công của người nào làm phải dẫn đến sự sống; hoa lợi của kẻ hung ác dẫn họ đến với tội lỗi.
17Có một con đường dẫn đến sự sống cho người nào bước theo kỷ luật, nhưng ai chối bỏ sự quở trách phải lầm lạc. 18Hễ ai giấu sự ghen ghét có môi miệng dối trá, và ai rải điều nói hành là kẻ ngu dại.
19Hễ lắm lời, vi phạm nào có thiếu, nhưng ai cẩn thận trong điều mình nói là khôn ngoan. 20Lưỡi của người làm phải giống như bạc cao; có ít giá trị trong lòng của kẻ gian ác.
21Môi miệng của người làm phải giúp đỡ cho nhiều người, nhưng kẻ ngu dại chết vì thiếu trí hiểu. 22Phước lành của Đức Giê-hô-va đem lại sự giàu có và Ngài chẳng thêm đau khổ vào đó.
23Sự gian ác là trò chơi của kẻ dại, nhưng khôn ngoan là khoái lạc cho người có trí hiểu. 24Kẻ gian ác lo sợ sẽ xảy đến cho nó, nhưng ước ao của người công bình sẽ được nhậm.
25Kẻ ác giống như giông bão thổi ngang qua, và chúng không còn nữa, nhưng người làm phải là cái nền còn đến đời đời. 26Như giấm làm ghê răng và khói làm cay mắt, cũng vậy, kẻ biếng nhác cũng một thể ấy đối với người nào sai khiến nó.
27Sự kính sợ Đức Giê-hô-va làm cho sống lâu, còn năm tuổi của kẻ ác sẽ bị rút ngắn đi.28Sự trông mong của người làm phải là niềm vui của họ, nhưng năm tuổi của kẻ ác sẽ bị rút ngắn đi.
29Đường lối của Đức Giê-hô-va bảo hộ cho người nào sống ngay thẳng, nhưng sự bại hoại thì dành cho cho kẻ làm ác.
30Người nào làm phải chẳng hề bị rúng động, nhưng kẻ ác sẽ không tồn tại trên đất. 31Miệng người công bình toát ra bông trái của sự khôn ngoan, nhưng lưỡi của kẻ gian tà sẽ bị cắt mất.
32Môi miệng của người làm phải biết điều chi đáng nhận, nhưng miệng kẻ gian ác, chúng biết điều chi là gian tà. 111Giê-hô-va rất ghét thứ cân nào không chính xác, nhưng Ngài vui thích trái cân đúng.2Khi kiêu ngạo đến, thì sỉ nhục cũng đến nữa, nhưng sự khôn ngoan đến cùng với sự khiêm nhường. 3Sự thanh liêm của người ngay thẳng dẫn dắt họ, nhưng đường lối gian tà của kẻ bất trung hủy diệt chúng.
4Sự giàu có chẳng ích chi trong ngày thạnh nộ, nhưng làm phải giữ người khỏi chết. 5Cách cư xử phải lẽ của người trọn vẹn làm cho đường lối người ra ngay thẳng, nhưng kẻ ác sẽ sa ngã vì tánh gian ác mình.
6Cách ăn ở phải lẽ của người nào đẹp lòng Đức Chúa Trời giữ họ được an toàn, nhưng kẻ bất trung bị mắc trong mưu tính của chúng. 7Khi kẻ ác chết, sự trông mong nó mất đi, còn sự trông đợi vốn là sức lực của hắn đi đến chỗ hư vong.
8Người nào làm phải được giữ gìn khỏi hoạn nạn, còn kẻ ác sa vào đó thế cho người. 9Với cái miệng kẻ bất kính huỷ diệt người lân cận mình, nhưng nhờ tri thức người nào làm phải được giữ cho an toàn.
10Khi người làm phải được hanh thông, cả thành đều vui mừng; khi kẻ ác bị hư mất, có nhiều tiếng reo mừng.
11Nhờ các ơn lành của người đẹp lòng Đức Chúa Trời, cả thành được cao trọng; bởi miệng kẻ ác, cả thành bị đánh đổ. 12Kẻ nào khinh dể người lân cận mình thiếu trí hiểu, nhưng người khôn sáng thì làm thinh.
13Hễ ai đi lòng vòng tỏ ra điều kín đáo, nhưng người có lòng trung tín giữ kín sự việc. 14Khi chẳng có chỉ đạo khôn ngoan nào hết, một nước sa ngã, nhưng chiến thắng đến do cầu kiến các mưu sĩ. 15Hễ ai bảo lãnh nợ cho người ngoại chắc chắn sẽ bị hại, nhưng người nào ghét việc đưa ra lời thề thuộc loại hứa hẹn ấy được bình an vô sự.
16Người đàn bà có duyên được sự tôn trọng, nhưng người hung bạo chụp lấy sự giàu có. 17Một người tử tế làm ích cho bản thân mình, nhưng kẻ nào dữ dằn làm tổn thương mình.
18Kẻ dữ nằm đó để nhận lấy tiền công mình, nhưng người nào gieo ra điều phải nhận lấy tiền công đích thực. 19Một người chơn thật chuyên làm phải sẽ sống, nhưng kẻ nào đuổi theo điều ác sẽ chết.
20Đức Giê-hô-va ghét kẻ nào có lòng gian tà, nhưng Ngài vui thích người nào mà đường lối người không có tì vít chi hết. 21Phải biết chắc về việc nầy — kẻ ác chẳng hề khỏi bị phạt, nhưng dòng dõi người làm điều phải sẽ được giữ an toàn.
22Giống như chiếc nhẫn vàng đeo nơi mũi heo là người đàn bà đẹp đẽ mà thiếu thận trọng. 23Sự ao ước của người làm điều phải kết quả nơi điều thiện, nhưng kẻ ác chỉ có trông đợi cơn thạnh nộ mà thôi.
24Có người rải của mình ra — người ấy lại càng thêm nhiều lên; người kia không gieo ra — nghèo khổ sẽ đến với người ấy. 25Người có lòng rộng rãi sẽ được hanh thông, còn ai trao nước cho người khác sẽ có nước cho chính mình.
26Dân sự rủa sã kẻ nào từ chối không bán lúa ra; nhưng các ơn lành đội trên đầu người nào bán lúa ra. 27Người nào cẩn thận tìm kiếm sự lành cũng tìm kiếm ân điển, nhưng người nào tìm kiếm điều ác sẽ gặp nó.
28Người nào tin cậy nơi sự giàu có mình sẽ sa ngã, nhưng giống như chiếc lá kia, người nào làm điều phải sẽ được sum suê. 29Người nào đem rắc rối cho nhà mình sẽ được gió làm cơ nghiệp, còn kẻ dại dột làm tôi tớ cho người có lòng khôn ngoan. 30Người nào làm phải thì giống như cây sự sống, nhưng bạo lực tước đi nhiều sinh mạng.
31Nếu người nào làm phải nhận lãnh điều họ đáng được, huống hồ gì kẻ ác và tội nhân! 121Hễ ai thích kỷ luật ưa tri thức, nhưng kẻ nào ghét sự quở trách là ngu dại.2Đức Giê-hô-va ban ơn cho người nhơn đức, nhưng Ngài xét đoán người toan mưu ác. 3Một người không thể đứng vững do tánh gian ác, nhưng người nào làm phải không thể bị dứt bỏ.
4Người đàn bà nết na là mão triều thiên cho chồng nàng, còn vợ làm xấu hổ khác nào chứng mục trong xương cốt người. 5Mọi chương trình của người làm đều là công bình, nhưng mưu luận kẻ ác đều là giả dối.
6Các lời của kẻ ác rình rập chờ cơ hội để giết chóc, nhưng lời lẽ của người ngay thẳng giữ người được an toàn. 7Kẻ ác bị đánh đổ và hắn chẳng còn nữa, nhưng nhà của người chuyên làm phải sẽ đứng vững vàng.
8Một người được khen ngợi do có nhiều sự khôn sáng, nhưng kẻ đưa ra nhiều sự lựa chọn không tốt sẽ bị xem khinh. 9Thà có một địa vị không quan trọng — chỉ là tôi tớ — còn hơn khoe mình quan trọng mà lại thiếu ăn.
10Người nào làm phải quan tâm đến nhu cần của súc vật mình, nhưng dù là lòng thương xót của kẻ ác vẫn là hung bạo. 11Người nào cày đất mình sẽ có vật thực dư dật, nhưng ai theo đuổi các dự án vô giá trị đều thiếu trí hiểu.
12Kẻ hung ác ham muốn những thứ cướp đoạt của người khác, nhưng bông trái của người làm phải ra từ bản thân họ. 13Kẻ ác bị mắc kẹt bởi lối ăn nói gian tà, nhưng người làm phải thoát khỏi mọi rối rắm.
14Nhờ bông trái của lời lẽ mình, một người sẽ được no đầy những vật tốt, giống như công việc của tay người ban thưởng cho người. 15Lối kẻ ngu muội vốn ngay thẳng theo mắt nó, nhưng người khôn ngoan lắng nghe lời khuyên dạy.
16Kẻ dại tỏ ra ngay cơn giận, nhưng người nào bất chấp sự sỉ nhục là khôn ngoan. 17Kẻ nào nói ra lẽ chơn thật đang nói ra điều phải, nhưng kẻ làm chứng gian đang nói ra những lời giả dối.
18Lời lẽ của một người ăn nói vô độ đâm như lưỡi gươm, nhưng lưỡi người khôn ngoan đem lại sự chữa lành. 19Môi miệng chân thật còn cho đến đời đời, nhưng cái lưỡi chuyên nói dối chỉ có trong một lúc mà thôi.
20Có sự dối gạt ở trong lòng kẻ nào toan làm điều ác, nhưng sự vui vẻ đến với hạng người mưu cầu sự hòa bình. 21Chẳng một điều xấu nào xảy đến cho người biết làm phải, nhưng kẻ ác sẽ gặp phải nhiều khó khăn.
22Giê-hô-va vốn ghét môi dối trá, nhưng người nào sống trung tín là sự vui thích của Ngài. 23Người khôn ngoan giấu tri thức mình, nhưng lòng kẻ ngu muội xưng ra sự điên dại mình.
24Tay người siêng năng sẽ cai trị, nhưng kẻ biếng nhác sẽ là đối tượng cho lao động bắt buộc. 25Sự lo sợ trong lòng người nhận người xuống, nhưng một lời lành khiến cho người vui vẻ.
26Người nào làm phải là hướng dẫn viên cho bạn hữu mình, nhưng đường lối kẻ ác làm cho họ phải sai lạc. 27Kẻ biếng nhác không nung nấu với trò chơi của mình, nhưng người siêng năng sẽ nhận được của cải quí báu.
28Người nào ăn ở trong đường đúng đắn tìm được sự sống, và trong con đường ấy chẳng có sự chết. 131Con khôn ngoan nghe sự giáo huấn của cha, nhưng kẻ nhạo báng không nghe lời quở trách.2Nhờ bông trái của miệng mình, một người thưởng thức nhiều vật tốt, nhưng thứ kẻ gian ác sẽ ăn lấy là bạo lực. 3Kẻ nào canh giữ môi miệng bảo tồn được mạng sống mình, nhưng kẻ nào hở môi quá làm bại hoại cho thân mình.
4Kẻ biếng nhác mong ước song chẳng nhận được chi hết, nhưng ước ao của người siêng năng sẽ được thoả mãn. 5Người nào làm phải ghét lời dối trá, nhưng kẻ ác tự làm cho mình ra gớm và người làm điều xấu hổ.
6Sự công bình bảo hộ người nào không vít trong đường lối của họ, nhưng sự gian ác xây sang kẻ nào phạm tội. 7Có kẻ làm bộ giàu, song chẳng có gì hết, nhưng có người làm bộ nghèo, lại là người thực sự giàu có.
8Một người giàu có phải chuộc mạng sống mình với của cải mình, nhưng kẻ nghèo khó chẳng hề tiếp lấy lời hăm dọa đó. 9Sự sáng của người làm phải được rực rỡ, nhưng đèn kẻ ác lại bị tắt đi.
10Kiêu ngạo chỉ sanh ra xung đột, nhưng đối với người nào chịu nghe theo lời khuyên dạy có sự khôn ngoan. 11Của cải hao bớt khi có quá nhiều sự kiêu căng, nhưng người nào kiếm tiền bằng việc tay mình làm sẽ được thêm nhiều tiền bạc.
12Khi sự trông cậy bị trì hoãn, nó làm tan nát lòng, nhưng khi sự ước ao được thành, thì giống như một cây sự sống. 13Kẻ nào khinh dễ sự giáo huấn vẫn sẽ là đối tượng cho nó, nhưng người nào tôn trọng sự dạy sẽ được ban thưởng.
14Sự dạy của người khôn ngoan là một nguồn sự sống, khiến người ta tránh khỏi bẫy sự chết. 15Sự sáng suốt kiếm được ân điển, nhưng đường kẻ phạm tội không có chỗ kết thúc.
16Người khôn ngoan cứ theo sự hiểu biết mà hành động, nhưng kẻ dại tỏ ra sự dốt nát của mình. 17Sứ giả gian ác sa vào tai họa, nhưng khâm sai trung tín đem lại sự phục hoà.
18Người nào bất chấp kỷ luật sẽ gặp phải nghèo khổ và xấu hổ, nhưng vinh dự sẽ đến với người nào tiếp thu từ sự quở trách. 19Ước ao được thành lấy làm êm dịu cho linh hồn, nhưng kẻ dại ghét không muốn lìa bỏ điều dữ.
20Đồng đi với người khôn ngoan thì trở nên khôn ngoan, nhưng làm bạn với bọn điên dại sẽ gánh lấy thiệt hại. 21Tai họa đuổi theo kẻ có tội, nhưng người nào làm phải được phần thưởng với phước lành.
22Người nhơn đức để gia sản cho con cháu mình, nhưng của cải kẻ có tội được chất chứa cho người chuyên làm phải. 23Một thửa ruộng không cày cấy do người nghèo làm chủ có thể sanh nhiều lương thực, nhưng nó có thể bị quét sạch do sự bất công.
24Người nào không kỷ luật con cái mình là ghét nó, nhưng ai thương con mình cần phải cẩn thận kỷ luật nó. 25Người nào làm phải ăn cho tới khi phỉ dạ mình, nhưng bao tử của kẻ ác luôn luôn bị đói. 141Người nữ khôn ngoan xây cất nhà mình, nhưng người nữ dại dột lấy tay mình mà đập đổ nó.2Người nào ăn ở cách ngay thẳng kính sợ Đức Giê-hô-va, nhưng kẻ nào ăn ở không thành thật trong đường lối Ngài khinh bỉ Ngài. 3Từ miệng kẻ dại ra cây roi đánh phạt sự kiêu ngạo nó, nhưng môi người khôn ngoan giữ gìn người.
4Đâu không có bò, đó máng cỏ trống không, nhưng hoa lợi dư dật do nơi sức bò đực mà ra. 5Người chứng trung thành không nói dối, nhưng kẻ làm chứng gian buông ra lời dối trá.
6Kẻ nhạo báng tìm kiếm sự khôn ngoan, song chẳng gặp, nhưng tri thức dễ đến với người nào biết phân biệt. 7Hãy dan xa khỏi kẻ dại dột, vì con sẽ chẳng tìm được sự khôn ngoan nơi môi miệng nó.
8Sự khôn khéo của người khôn ngoan là hiểu rõ chính đường lối mình, nhưng sự dại dột của kẻ ngu muội là sự phỉnh gạt. 9Kẻ ngu dại chế giễu khi của lễ chuộc tội được dâng lên, nhưng giữa vòng người ngay thẳng ơn phước được chia sẻ.
10Tấm lòng biết sự cay đắng của chính nó, và không một người ngoại nào chia vui với nó được. 11Nhà kẻ ác sẽ bị huỷ diệt, nhưng trại người ngay thẳng sẽ được hưng thạnh.
12Có một con đường coi dường chánh đáng cho con người, nhưng cứu cánh của nó dẫn đến sự chết. 13Tấm lòng có thể cười cợt song vẫn buồn thảm, và sự vui mừng sẽ kết thúc chỗ buồn thảm đó.
14Người nào sống không trung tín sẽ nhận lấy những điều xứng đáng với đường lối mình, nhưng người nhơn đức sẽ nhận lấy mọi điều thuộc về người. 15Người nào chưa được truyền dạy tin hết mọi điều, nhưng người khôn ngoan xem xét các bước mình.
16Người khôn ngoan e sợ và tránh khỏi điều ác, nhưng kẻ ngu muội gạt bỏ lời cảnh cáo. 17Người nào mau giận làm ra những việc dại dột, và kẻ nào toan mưu ác sẽ bị ghét.
18Kẻ không được dạy dỗ hưởng lấy sự dại dột, nhưng người khôn ngoan có tri thức bao quanh. 19Người nào sống gian ác sẽ sấp mình xuống trước mặt người nhơn đức, và người nào sống gian ác sẽ sấp mình xuống nơi cửa nhà người công bình.
20Người nghèo khó bị ghét bỏ bởi bạn hữu mình, nhưng người giàu có rất nhiều bạn bè. 21Người nào tỏ ra khinh khi kẻ lân cận mình là phạm tội, nhưng người nào tỏ ra lòng thương xót đối với kẻ nghèo có phước thay.
22Có phải kẻ chuyên mưu ác há chẳng lầm lạc sao? Những người nào muốn làm điều lành sẽ nhận được sự thành tín của giao ước và sự được tin cậy. 23Công việc khó nhọc nào cũng có ích lợi, nhưng chỉ có nói thôi, nó sẽ dẫn đến sự nghèo khó.
24Mão triều thiên của người khôn ngoan là sự giàu có của họ, nhưng sự dốt nát của kẻ dại chỉ là thêm sự điên cuồng. 25Một nhân chứng chân thật giải cứu nhiều sanh mạng, nhưng kẻ làm chứng dối thốt ra sự phỉnh gạt. 26Khi một người kính sợ Đức Giê-hô-va, người ấy đặt nhiều sự tin cậy nơi Ngài; những việc đó sẽ giống như một nơi bảo hộ cho con cái của người nầy.
27Sự kính sợ Đức Giê-hô-va vốn một nguồn sự sống, đặng khiến một người xây khỏi bẫy sự chết. 28Sự vinh hiển của một vị vua là số đông dân sự người, nhưng dân sự ít, nhà vua sẽ bị sụp đổ.
29Một người kiên nhẫn có sự thông sáng rất lớn, nhưng người mau nóng nảy tôn sự điên cuồng lên. 30Lòng bình tịnh là sự sống cho thân thể, nhưng sự ganh tỵ làm mục cho xương cốt.
31Người nào bức hiếp người nghèo làm nhục Đấng Tạo Hóa mình, nhưng ai tỏ ra ưu ái với người khốn cùng tôn vinh Ngài. 32Kẻ ác bị đánh hạ bởi mọi việc làm gian ác của mình, nhưng người công bình có nơi nương náu, ngay cả trong sự chết.
33Sự khôn ngoan ngự ở trong lòng người biết phân biệt, nhưng ở giữa vòng những kẻ dại lại lộ ra sự dại dột đó. 34Làm theo điều phải tôn cao một quốc gia, nhưng tội lỗi là sự hổ thẹn cho bất kỳ dân tộc nào.
35Sự ưu ái của nhà vua có cho tôi tớ nào ăn ở khôn khéo, nhưng cơn thạnh nộ của vua nổi nghịch cùng kẻ nào hành động cách xấu hổ. 151Lời đáp dịu dàng làm cho cơn giận nguôi đi, nhưng lời xẳng xớm chọc giận thêm.2Lưỡi của người khôn ngoan gợi ra tri thức, nhưng miệng kẻ ngu dại thốt ra điều điên cuồng. 3Con mắt của Đức Giê-hô-va nhìn khắp mọi nơi, xem xét kẻ ác và người lành.
4Lưỡi hiền lành giống như một cây sự sống, nhưng lưỡi gian tà làm cho hư nát tâm thần. 5Kẻ ngu dại coi thường kỷ luật của cha mình, nhưng người nào học tập từ sự chỉnh sửa là khôn ngoan.
6Trong nhà người nào làm phải, có của cải quí báu, nhưng huê lợi kẻ ác làm cho họ phải bối rối. 7Môi miệng người khôn ngoan rải tri thức ra, nhưng lòng kẻ ngu muội chẳng làm được vậy.
8Đức Giê-hô-va ghét sinh tế của kẻ ác, nhưng lời cầu nguyện của người ngay thẳng là sự vui thích của Ngài. 9Giê-hô-va ghét đường lối của kẻ ác, nhưng Ngài thương mến người nào theo đuổi điều chi là phải.
10Kỷ luật nặng nề dành cho kẻ bỏ đường ngay, và kẻ nào ghét sự chỉnh sửa sẽ chết. 11Âm phủ và sự huỷ diệt còn mở ra trước mặt Đức Giê-hô-va, huống hồ gì tấm lòng của con cái loài người?
12Kẻ nhạo báng bực tức sự chỉnh sửa; hắn không muốn đến cùng người khôn ngoan. 13Lòng khoái lạc làm cho mặt mày vui vẻ, nhưng chứng nhức đầu đang chà nát tâm linh.
14Tấm lòng của người biết phân biệt tìm kiếm sự tri thức, nhưng cái miệng kẻ dại nuôi lấy mình bằng sự điên cuồng. 15Các ngày kẻ bị hoạn nạn đều rất nhọc nhằn, nhưng lòng vui mừng dự yến tiệc không dứt.
16Thà có ít của mà kính sợ Đức Giê-hô-va hơn là giàu có lớn gặp bối rối cặp theo. 17Thà một bữa rau ở chỗ có tình yêu thương hơn là ăn bò mập béo với sự ganh ghét cặp theo.
18Người hay giận tạo ra tranh cãi, nhưng người chậm giận làm cho tranh cãi phải thôi đi. 19Đường kẻ biếng nhác như một chỗ có hàng rào gai, nhưng nẻo người ngay thẳng là xa lộ thẳng tắp.
20Con khôn ngoan làm vui vẻ cho cha mình, nhưng đứa ngu muội làm cho mẹ mình bị xem khinh. 21Sự dại dột làm vui vẻ cho kẻ thiếu trí hiểu, nhưng người hiểu biết bước đi trong con đường ngay thẳng.
22Mọi toan tính rơi vào chỗ sai lầm khi chẳng có bàn bạc, nhưng nhờ có nhiều mưu sĩ, mưu định bèn được thành. 23Một người tìm gặp vui mừng khi người đưa ra lời đáp giỏi; lời nói phải thì lấy làm tốt biết bao!
24Con đường sự sống khiến người khôn ngoan luôn hướng thượng, để người tránh khỏi âm phủ ở bên dưới. 25Đức Giê-hô-va phá đổ di sản kẻ kiêu ngạo, nhưng Ngài bảo hộ tài sản của người góa bụa.
26Đức Giê-hô-va ghét tư tưởng của kẻ ác, nhưng lời lẽ của người tử tế đều là trong sạch. 27Kẻ trộm gây rối cho nhà mình, nhưng ai ghét của hối lộ sẽ được sống.
28Lòng người nào làm lành suy nghĩ trước khi đáp trả, nhưng miệng kẻ ác thốt ra sự ác của nó. 29Đức Giê-hô-va ở cách xa kẻ ác, nhưng Ngài lắng nghe lời cầu nguyện của người làm điều phải.
30Sự sáng con mắt đem sự vui vẻ cho tấm lòng; và những tin tức tốt lành là sức khoẻ cho thân thể. 31Kẻ nào chú ý khi có người chỉnh sửa cách mình sống, sẽ được ở giữa hạng người khôn ngoan.
32Người nào từ chối kỷ luật xem khinh bản thân mình, nhưng người nào nghe lời quở trách kiếm được sự thông sáng. 33Sự kính sợ Đức Giê-hô-va dạy dỗ điều khôn ngoan, và sự khiêm nhượng đi trước sự tôn trọng. 161Toan tính ở trong lòng thuộc về một người, nhưng sự đáp trả đến từ lưỡi của Đức Giê-hô-va.2Mọi đường lối của người đều là trong sạch theo mắt mình, nhưng Đức Giê-hô-va cân nhắc cái lòng. 3Hãy phó thác mọi việc làm cho Đức Giê-hô-va, thì những toan tính mình sẽ được thành công.
4Đức Giê-hô-va đã dựng nên muôn vật để dùng cho mục đích của Ngài, ngay cả kẻ ác dành cho ngày tai họa. 5Đức Giê-hô-va ghét người nào có lòng kiêu ngạo, dù có đoàn kết lại thì họ sẽ chẳng được khỏi bị phạt.
6Bởi sự thành tín với giao ước và sự đáng tin cậy tội lỗi mới được chuộc, và bởi sự kính sợ Đức Giê-hô-va người ta xây bỏ điều ác. 7Khi đường lối của một người đẹp lòng Đức Giê-hô-va, Ngài cũng khiến kẻ thù người ở hòa thuận với người.
8Thà ít của mà làm điều phải, hơn là thu nhập cao với sự bất công. 9Trong lòng của một người toan định đường lối mình, nhưng Đức Giê-hô-va chỉ dẫn các bước của người.
10Lời Chúa trên môi miệng của một vị vua, trong sự xét đoán, miệng người không nói ra cách giả dối. 11Cây cân thật đến từ Đức Giê-hô-va; các trái cân trong bao là công việc của Ngài.
12Khi các vua làm điều gian ác, việc ấy bị xem khinh, ngôi nước được lập vững bền bởi việc làm theo điều phải. 13Một vị vua vui thích nơi môi miệng nói ra điều phải và người ưa kẻ nào nói thẳng.
14Cơn thạnh nộ của vua khác nào sứ giả sự chết nhưng người khôn ngoan sẽ tìm cách làm cho cơn giận người nguôi đi. 15Mặt vua sáng láng thì đấy là sự sống, và sự ưu ái của người khác nào đám mây đem lại cơn mưa vào mùa xuân.
16Thà là được sự khôn ngoan quí hơn vàng ròng. Cần phải chọn được sự thông sáng, đáng hơn bạc biết bao! 17Con đường của người ngay thẳng xây khỏi điều ác; người nào bảo hộ sự sống mình canh giữ đường lối mình.
18Sự kiêu ngạo đi trước sự huỷ diệt, và tánh tự cao đi trước sự sụp đổ 19Thà khiêm nhượng mà ở giữa người nghèo hơn là chia của cướp với kẻ kiêu ngạo.20Ai giữ lấy điều họ được truyền dạy tìm được ích, và người nào tin cậy nơi Đức Giê-hô-va sẽ được phước. 21Người nào có sự khôn ngoan ở trong lòng được gọi là biết phân biệt, và sự dịu dàng trong lời nói trau dồi khả năng truyền đạt.
22Thông sáng là dòng sông sự sống cho người nào có nó, nhưng sự trừng phạt kẻ dại là sự dại dột của họ. 23Lòng người khôn ngoan cung ứng khẫu tài cho miệng mình và thêm sức thuyết phục cho môi miệng người.
24Lời lành giống như tàng ong — ngọt ngào cho linh hồn và chữa lành cho xương cốt. 25Có một con đường dường chánh đáng cho một người, song cứu cánh của nó là con đường dẫn đến sự chết.
26Sự thèm ăn của người lao động tác động người; sự đói khát thúc giục người phải chịu khổ. 27Một gã chẳng ra gì hết đào sâu thứ quỉ quái, và lời nói nó giống như ngọn lửa hừng.
28Kẻ gian tà tạo ra xung đột, và kẻ thèo lẻo làm chia rẽ bạn bè thân thiết. 29Kẻ hay bạo lực nói dối với bạn bè mình khiến người đi xuống con đường không được tốt.
30Kẻ nào nháy mắt toan việc gian tà; kẻ nào bặm môi mình đang muốn làm thành việc ác. 31Tóc bạc là chiếc mão vinh hiển; có được mão ấy do sống theo đường phải.
32Thà là chậm giận hơn là làm một chiến binh, và ai nắm chắc tinh thần mình thì mạnh hơn kẻ chiếm lấy thành. 33Có nhiều thăm trong vạt áo, nhưng quyết định ra từ Đức Giê-hô-va. 171Thà yên ắng với một miếng bánh khô hơn là nhà đầy tiệc tùng với sự tranh cạnh.2Tôi tớ khôn ngoan sẽ quản trị con trai làm xấu hổ và được hưởng phần cơ nghiệp như một trong các anh em. 3Lò nung để luyện bạc và lò lửa để luyện vàng, nhưng Đức Giê-hô-va luyện lọc tấm lòng.
4Kẻ nào làm ác nghe theo người nói năng cách gian ác; kẻ nói dối chú ý nghe người nói ra những việc phỉnh gạt. 5Ai chế nhạo người nghèo sỉ nhục Đấng Tạo Hóa mình, và người nào lấy làm vui về tai họa sẽ chẳng thoát khỏi bị phạt.
6Con cháu là vương miện của người cao tuổi, và cha mẹ là vinh quang cho con cái của họ. 7Tài hùng biện không xứng với kẻ ngu; môi miệng dối trá chẳng xứng cho hoàng gia.
8Của hối lộ giống như viên ngọc quí cho người ban nó ra; dầu người xây trở phía nào, người thành công ngay. 9Kẻ nào bỏ qua sự xúc phạm tìm kiếm tình cảm, nhưng người nào lặp đi lặp lại một việc gây chia rẽ bạn bè thân thiết.
10Lời quở trách thấm sâu vào người nào có sự hiểu biết hơn là trăm roi đánh vào kẻ ngu dại. 11Kẻ gian ác chỉ tìm điều phản nghịch, vì vậy một sứ giả dữ tợn sẽ được sai đi nghịch cùng nó.
12Thà là gặp gấu cái bị cướp con nó hơn là gặp kẻ dại trong sự dốt nát nó. 13Khi ai đó lấy ác báo thiện, điều ác sẽ không hề lìa khỏi nhà nó.
14Khởi đầu tranh cạnh giống như người ta mở đường nước chảy, vậy đừng cãi lẫy nữa trước nó nổ ra. 15Người nào tha thứ cho kẻ ác hoặc xét đoán người làm phải, — cả hai người nầy đều gớm ghiếc cho Đức Giê-hô-va.
16Tại sao kẻ ngu muội trả tiền để học sự khôn ngoan, khi hắn chẳng có khả năng để tiếp thu sự ấy? 17Bạn hữu thương cảm mọi lúc mọi khi, và anh em sanh ra để giúp đỡ trong lúc hoạn nạn.
18Một người thiếu trí hiểu lập các lời hứa bắt buộc rồi chịu trách nhiệm các món nợ của kẻ lân cận mình. 19Hễ ai thích tranh cạnh ưa tội lỗi; người nào xây nền cửa mình quá cao khiến cho xương cốt phải gãy.
20Kẻ nào có lòng không thật thà chẳng tìm được điều gì là phước hạnh; người nào có lưỡi gian tà sẽ sa vào trong tai vạ. 21Hễ ai sanh con dốt nát đem lại buồn khổ cho bản thân mình; cha của kẻ dốt ấy chẳng được vui vẻ.
22Lòng vui mừng là một phương thuốc hay, song một tâm linh nao sờn làm khô héo xương cốt. 23Kẻ gian ác tiếp lấy của hối lộ để làm sai lệch các lối công bình.
24Người nào có sự hiểu biết chường mặt mình ra hướng tới sự khôn ngoan, nhưng con mắt kẻ ngu muội đặt ở các đầu cùng đất. 25Con ngu muội là một điều buồn rầu cho cha nó và sự cay đắng cho người đàn bà đã sanh ra nó.
26Chẳng có gì là hay cả khi phạt người làm điều phải; cũng chẳng tốt đẹp gì khi đánh người tước vị vì họ có lòng ngay thẳng. 27Người nào có tri thức sử dụng ít lời, và người nào có sự hiểu biết thì tỏ ra điềm đạm.
28Dầu người dại, được kể là khôn ngoan nếu người giữ im lặng; khi người ngậm miệng lại, người được kể là thông sáng. 181Kẻ nào cô lập mình tìm kiếm sở thích riêng của mình, và nó hay tranh cãi với sự xét đoán chân thật.2Kẻ ngu muội không lấy làm vui nơi sự hiểu biết, nhưng chỉ muốn tỏ ra điều có ở trong lòng nó. 3Khi kẻ ác đến, sự khinh bỉ cùng đến với nó — cùng với sự xấu hổ và sự quở trách.
4Lời lẽ trong miệng của một người giống như chỗ nước sâu; suối khôn ngoan là dòng nước đang tuôn chảy. 5Thật chẳng hay ho gì khi thiên vị kẻ ác, cũng chẳng hay ho gì khi chối bỏ sự công bình cho người làm điều phải.
6Môi kẻ dại đưa người vào cuộc tranh cạnh, và miệng nó mời mọc sự đánh đập. 7Miệng kẻ dại là sự bại hoại của nó, và nó gài bẫy bản thân nó với môi miệng của mình.
8Lời kẻ ngồi lê đôi mách vốn là vật thực ngon, và chúng thấu xuống đến các chi thể trong thân. 9Kẻ thả trôi trong công việc mình cũng là anh em của người nào phá hại nhiều nhất.
10Danh Đức Giê-hô-va là ngọn tháp kiên cố; người nào làm phải chạy vào trong đó và được an ninh. 11Của cải người giàu có là cái thành kiên cố của người, và trong suy tưởng của người, đó là một bức tường cao.
12Trước sự bại hoại, lòng người vẫn tự cao, nhưng sự khiêm nhượng đi trước sự tôn trọng. 13Người nào trả lời trước khi nghe — ấy là sự điên dại và hổ thẹn của người.
14Tâm linh của một người sẽ làm cho cơn bịnh vơi đi, nhưng tâm linh đỗ vỡ ai có thể chịu được? 15Lòng người khôn khéo có được tri thức, và việc nghe của người khôn ngoan tìm kiếm tri thức đó.
16Quà tặng của một người nào mở lối đưa người đến trước mặt một nhân vật quan trọng. 17Người đứng bào chữa vụ việc mình nghe như đúng đắn cho đến khi đối tác người đến và tra hỏi người.
18Sự bắt thăm ổn định mọi tranh tụng và biệt những kẻ có quyền thế riêng ra. 19Một anh em bị mích lòng khó lấy lòng lại hơn là đánh chiếm một thành kiên cố, và sự tranh cãi dường ấy khác nào các chấn song của một cái ngục.
20Từ bông trái của cái miệng bụng người sẽ được no đầy; với hoa lợi của môi miệng mình, người được no nê. 21Sống và chết nằm ở nơi quyền của lưỡi, và người nào ưa thích nó sẽ ăn bông trái của nó.
22Người nào tìm được một người vợ tức là tìm được một việc tốt lành và lãnh lấy sự ưu ái đến từ Đức Giê-hô-va. 23Người nghèo nài xin sự thương xót, nhưng kẻ giàu đáp lại cách xẳng xớm.
24Người nào xưng mình có nhiều bạn bè bị họ làm hại cho, nhưng có một người bạn thân cận hơn anh em ruột. 191Thà người nghèo khổ ăn ở thanh liêm hơn là kẻ có môi miệng gian tà và là một kẻ ngu dại.2Chẳng hay ho gì khi mong muốn mà chẳng có tri thức, và kẻ nào chạy quá nhanh sẽ quên đường. 3Sự ngu dại của một người làm bại hoại đời sống mình, và lòng người cưu giận nghịch cùng Đức Giê-hô-va.
4Người giàu có kết nhiều bạn hữu, nhưng người nghèo bị tách ra khỏi bạn hữu mình. 5Kẻ làm chứng dối sẽ chẳng khỏi bị phạt, và kẻ buông điều giả dối không sao thoát khỏi được.
6Có nhiều kẻ tìm sự ưu ái nơi người có tánh rộng rãi, và mỗi người đều là bạn hữu của kẻ hay ban bố lễ vật. 7Hết thảy anh em ruột của kẻ nghèo đều ghét người; huống hồ chi bạn bè sẽ lìa xa khỏi người! Người gọi mời họ, song họ đã lánh đi khỏi rồi!
8Người nào có sự khôn ngoan yêu mến chính sự sống mình; người nào giữ lấy sự hiểu biết tìm được điều tốt lành. 9Kẻ làm chứng dối sẽ chẳng khỏi bị phạt, nhưng kẻ nào thốt ra sự dối trá sẽ bị hư mất.
10Chẳng thích hợp cho kẻ ngu dại sống trong xa hoa — huống chi kẻ nô lệ lên cai trị các vương tử! 11Sự khôn ngoan khiến cho một người chậm giận, và bỏ qua tội phạm ấy là sự vinh hiển của người.
12Cơn giận của vua giống như sư tử tơ gầm thét, nhưng sự ưu ái của người giống như sương móc sa xuống trên cỏ. 13Con trai ngu muội là bại hoại cho cha nó, và người vợ hay tranh cãi là một máng xối hằng chảy luôn.
14Nhà cửa và tài sản được hưởng từ cha mẹ, nhưng một người vợ khôn ngoan thì đến từ Đức Giê-hô-va. 15Sự biếng nhác khiến cho một người rơi vào giấc ngủ mê, nhưng người không chịu lao động sẽ bị đói khát.
16Người nào vâng theo điều răn gìn giữ lấy sự sống của mình, nhưng kẻ nào không suy nghĩ về đường lối mình sẽ chết. 17Ai đối đãi tử tế với kẻ nghèo cho Đức Giê-hô-va mượn, và Ngài sẽ báo lại cho người về những gì người đã làm.
18Hãy kỷ luật con cái ngươi đang khi còn có hy vọng, và đừng ước ao muốn nó phải chết. 19Người có tánh nóng giận sẽ phải trả giá án phạt; nếu con giải cứu hắn, ắt con sẽ phải làm lại lần thứ nhì.
20Hãy nghe lời khuyên dạy và tiếp nhận sự giáo huấn, để con được khôn ngoan lúc cuối đời. 21Có nhiều việc trong lòng của một người, nhưng chính ý đồ của Đức Giê-hô-va mới được thành.
22Lòng trung thành là thứ một người ao ước, và người nghèo thì tốt hơn là kẻ nói dối. 23Sự tôn kính dành cho Đức Giê-hô-va dẫn người ta đến với sự sống; còn người nào có sự ấy sẽ được thỏa lòng và không bị tai vạ lâm đến.
24Kẻ biếng nhác thò tay mình vào dĩa; hắn sẽ không đưa nó lên miệng mình nữa. 25Nếu con đánh kẻ hay chế giễu, thì người không học vấn sẽ trở nên khôn khéo; hãy chỉnh sửa người biết phân biệt, thì người sẽ có được tri thức. 26Kẻ nào moi móc cha mình rồi xô đuổi mẹ mình là một đứa con đem lại sự xấu hổ và sỉ nhục.
27Nếu con thôi không nghe sự giáo huấn, con sẽ lầm lạc cách xa các lời tri thức. 28Kẻ làm chứng gian chế giễu sự công bình, và miệng kẻ ác nuốt lấy tội ác.
29Sự xét đoán sẵn có cho kẻ nhạo báng, và roi vọt dành cho lưng kẻ ngu muội. 201Rượu là kẻ nhạo báng và đồ uống say là kẻ hay tranh cãi; hễ ai loay hoay bởi rượu chẳng phải là khôn ngoan.2Sự kinh sợ của nhà vua giống như sư tử tơ gầm hét; người nào chọc giận người sẽ nguy cho mạng sống mình. 3Người nào tránh sự tranh cạnh là đáng tôn trọng, nhưng chỉ kẻ điên cuồng mới nhảy vào đó thôi.
4Kẻ biếng nhác chẳng cày đất vào mùa thu; hắn kiếm cơm lúc mùa gặt nhưng chẳng được gì. 5Ý đồ ở trong một người giống như nước sâu, nhưng người thông sáng sẽ múc lấy nước tại đó.
6Phần nhiều người xưng mình là trung thành, nhưng ai sẽ tìm được người trung thành? 7Người nào làm điều phải ăn ở trong sự thanh liêm mình, và con cháu noi theo người lấy làm có phước thay!
8Một vị vua ngồi trên ngôi thi hành vai trò quan xét với mắt mình phân biệt mọi sự ác ở trước mặt mình. 9Ai dám nói: “Ta đã luyện sạch lòng mình; ta đã trong sạch tội ta rồi?
10Trái cân khác nhau, và thước đo không bằng nhau — Đức Giê-hô-va ghét cả hai. 11Người ta nhận ra một thanh niên theo hành vi, theo cách ứng xử của người là trong sạch hoặc chánh đáng.
12Tai để nghe và mắt để thấy — Đức Giê-hô-va đã dựng nên cả hai. 13Chớ ưa ngủ hoặc con sẽ trở nên nghèo khổ; hãy mở mắt con ra thì con sẽ có nhiều thứ để mà ăn.
14Kẻ mua nói rằng: “Không tốt, không tốt”, nhưng khi hắn đi hắn lại lên tiếng khoe. 15Có vàng và nhiều châu ngọc đắt tiền, nhưng môi miệng tri thức là bửu vật quí giá.
16Hãy cầm lấy áo hắn nếu chủ áo đó đặt tiền bảo lãnh nợ cho người lạ, và hãy cầm lấy áo đó nếu hắn bảo lãnh cho người đàn bà tà dâm. 17Bánh kiếm được nhờ dối gạt nếm thật ngọt ngào, nhưng kế sau miệng người sẽ đầy sạn.
18Ý đồ được lập nên do bàn bạc, và chỉ với sự dẫn dắt khôn ngoan con hãy tuyên chiến. 19Kẻ ngồi lê đôi mách tỏ ra điều kín đáo, và vì thế, con chớ hiệp với kẻ nào nói quá nhiều.
20Nếu một người rủa sã cha hay mẹ mình, đèn nó sẽ tắt ngúm đi giữa chỗ tăm tối. 21Sản nghiệp kiếm được nhanh chóng lúc ban đầu sẽ chẳng ích chi lúc sau cùng.
22Chớ nói: “Ta sẽ lấy ác trả ác.” Hãy chờ đợi Đức Giê-hô-va thì Ngài sẽ giải cứu con. 23Giê-hô-va ghét hai trái cân, và cây cân giả đúng là chẳng tốt gì cả.
24Các bước của một người được dẫn dắt bởi Đức Giê-hô-va; làm sao người hiểu được đường lối mình? 25Nói năng hấp tấp là cái bẫy cho một người: “Vật nầy là vật thánh”, rồi khởi sự suy nghĩ về vật ấy sau khi đưa ra lời thề.
26Một vị vua khôn ngoan xua kẻ ác đi, và người điều khiển xe đạp lúa cán lên chúng. 27Tâm linh của một người là ngọn đèn của Đức Giê-hô-va, nó dò thấu các nơi sâu kín nhất của lòng.
28Sự thành tín theo giao ước và sự đáng tin cậy giữ gìn nhà vua; ngôi của người được lập lên chắc chắn bởi sự nhân từ. 29Sự vinh hiển của người tuổi trẻ là sức lực của người, và sự tôn trọng của ông già là mái tóc bạc.
30Những cú đấm gây ra thương tích, rửa sạch đi điều ác, và sự đánh đập khiến cho các chi thể bên trong được sạch. 211Lòng của vua là dòng nước ở trong tay Đức Giê-hô-va; Ngài điều khiển nó chảy vào chỗ nào Ngài muốn.2Đường lối của mỗi người đều đúng trong mắt họ, nhưng chính Đức Giê-hô-va là Đấng cân nhắc cái lòng. 3Làm theo điều phải và công bình được Đức Giê-hô-va chấp nhận hơn là của tế lễ.
4Mắt cao ngạo và lòng kiêu căng — ngọn đèn của kẻ ác — đều là tội lỗi. 5Mọi việc làm của người siêng năng dẫn đến sự thịnh vượng, nhưng kẻ nào hành động quá nhanh chỉ dẫn đến sự nghèo khổ.
6Giàu có do cái lưỡi nói dối là thứ hơi nước phù du và là cái bẫy chết chóc. 7Tánh bạo lực của kẻ dữ sẽ đùa chúng nó đi, vì chúng từ chối không chịu làm theo điều phải.
8Con đường của kẻ hay phạm tội là quanh quẹo, nhưng người nào trong sạch làm theo điều phải. 9Thà ở nơi xó góc nhà còn hơn là ở trong một ngôi nhà chung với một người đàn bà hay tranh cạnh.
10Tánh kẻ dữ hướng vào điều ác; mắt nó chẳng chút tử tế gì với người lân cận nó. 11Khi kẻ nhạo báng bị phạt, người không có học vấn trở nên khôn ngoan, và khi người khôn ngoan được hướng dẫn, người thêm lên sự tri thức.
12Người nào làm theo điều phải quan sát nhà của kẻ ác; người thấy kẻ ác bị hư hoại. 13Người nào không khứng nghe tiếng kêu la của kẻ nghèo, khi người kêu la, chẳng có ai đáp lại.
14Quà cáp trao kín nhiệm làm nguôi cơn giận, và quà biếu kín đáo gạt bỏ cơn giận dữ tợn. 15Khi người ta làm điều công bình, nó đem lại sự vui vẻ cho người làm phải, nhưng nó đem sự kinh khiếp đến cho những kẻ làm ác.
16Người nào phiêu bạt xa khỏi con đường của sự hiểu biết, hắn sẽ yên nghỉ trong hội của kẻ chết. 17Ai ưa vui chơi ắt sẽ bị nghèo khó; người nào ưa rượu với dầu sẽ chẳng được giàu.
18Kẻ ác là giá chuộc cho người làm theo điều phải, và kẻ dối gạt là giá chuộc cho người ngay thẳng. 19Thà ở nơi vắng vẻ hơn là ở với một người đàn bà hay tranh cạnh và cứ than vãn mãi.
20Có bửu vật và dầu trong nhà của người khôn ngoan, nhưng kẻ ngu muội phung phí nó. 21Người nào biết làm phải và sống tử tế — người nầy sẽ tìm được sự sống, sự công bình, và sự tôn trọng.
22Người khôn ngoan đi lên nghịch cùng thành của kẻ mạnh sức, và người đánh hạ đồn luỹ che chở cho nó. 23Ai canh giữ miệng lưỡi mình, người giữ thân mình khỏi rối rắm.
24Kẻ kiêu ngạo và cao kỳ cư xử với sự kiêu ngạo và cao kỳ — “nhạo báng” là tên của hắn. 25Sự ước ao của kẻ biếng nhác giết nó chết, vì hai tay nó từ chối không chịu lao động.
26Có người suốt ngày càng ham muốn nhiều thứ, nhưng người nào làm phải cứ bố thí mà không cầm lại. 27Sinh tế của kẻ ác là một vật gớm ghiếc; còn gớm ghiếc hơn nữa khi hắn đem dâng sinh tế ấy với động lực gian ác.
28Kẻ làm chứng dối sẽ hư mất đi, nhưng người nào nghe theo sẽ nói suốt cả đời. 29Kẻ ác tự cho mình ra mạnh, nhưng người ngay thẳng cẩn thận về mọi hành động của mình. 30Chẳng có sự khôn ngoan nào, sự hiểu biết nào, hay mưu kế nào có thể đứng nghịch cùng Đức Giê-hô-va cho được.
31Ngựa sắm sửa về ngày chiến trận, nhưng chiến thắng thuộc về Đức Giê-hô-va. 221Thà chọn danh tiếng tốt còn hơn chọn giàu có lớn, và sự ưu ái quí hơn bạc và vàng.2Kẻ giàu và người nghèo có điểm nầy chung — Đức Giê-hô-va là Đấng dựng nên cả hai. 3Người khôn ngoan thấy điều tai vạ, rồi ẩn mình, nhưng kẻ thiếu kinh nghiệm cứ đi tới rồi chịu khổ vì cớ nó.
4Phần thưởng của sự hạ mình và sự kính sợ Đức Giê-hô-va, ấy là sự giàu có, sự tôn trọng, và sự sống. 5Gai chông và bẫy rập nằm trên đường của kẻ ngoan cố; ai giữ lấy mạng sống mình sẽ tránh xa nó.
6Hãy dạy cho trẻ thơ con đường nó phải theo, rồi khi nó trở về già sẽ không xây khỏi sự dạy đó. 7Người giàu cai trị trên kẻ nghèo, và kẻ đi mượn là tôi tớ của người cho mượn.
8Người nào gieo sự bất công sẽ gặt rắc rối, và cây roi thạnh nộ nó sẽ ra vô dụng. 9Người nào có con mắt từ bi sẽ được phước, vì người chia bánh mình cho kẻ nghèo.
10Hãy đuổi kẻ chế nhạo ra, thì tranh cạnh sẽ thôi; cãi cọ và sỉ nhục sẽ dứt. 11Người nào ưa thích tấm lòng thanh sạch và lời nói người giàu ơn, sẽ được vua làm bạn hữu mình.
12Mắt của Đức Giê-hô-va canh giữ người có tri thức, nhưng Ngài đánh đổ lời kẻ gian tà. 13Kẻ làm biếng nói: “Có sư tử ở ngoài đường! Tôi sẽ bị giết ở chỗ trống trải.
14Miệng của dâm phụ vốn là một cái hố sâu; cơn giận của Đức Giê-hô-va sẽ dấy lên nghịch cùng ai sa ngã vào đó. 15Sự dại dột bó quanh tấm lòng con trẻ, nhưng cây roi kỷ luật sẽ gỡ nó xa khỏi.
16Kẻ nào ức hiếp người nghèo sẽ thêm sự giàu có cho nó, hay nghèo khổ sẽ được dành cho người giàu. 17Hãy chú ý và lắng nghe lời lẽ của kẻ khôn ngoan, và áp dụng tri thức của ta cho tấm lòng của con.
18Vì nếu con muốn được khen ngợi, hãy giữ nó trong lòng con, nếu hết thảy chúng sẵn sàng trên môi miệng con.
19Vậy, con hãy đặt sự tin cậy mình nơi Đức Giê-hô-va, ngày nay ta đã dạy chúng cho con — thậm chí dạy dỗ con. 20Phải chăng ta chẳng có chép cho con ba mươi câu dạy về tri thức và dặn dò sao,
21dạy cho con biết lẽ thật trong những lời đáng tin cậy nầy, đặng con có thể đưa ra những câu trả lời đúng đắn với những kẻ hay thắc mắc kia?22Chớ tước đoạt kẻ nghèo, bởi vì họ nghèo, hay đừng hà hiếp người khốn khổ nơi cửa thành,
23vì Đức Giê-hô-va sẽ binh vực duyên cớ của họ, và Ngài sẽ tước lấy mạng sống của kẻ có cướp lột họ.24Chớ làm bạn với người bị cơn giận cai trị, và con chớ qua lại với kẻ có tánh cường bạo,
25hoặc con sẽ học theo đường lối nó, và con sẽ bị sa vào bẫy dò chăng.26Chớ hiệp cùng kẻ đưa ra lời thề về tiền bạc, hoặc đừng đưa ra lời bảo đảm các món nợ của người khác.
27Nếu con không có phương tiện để chi trả, điều gì ngăn ai đó đoạt lấy cái giường dưới lưng con chớ? 28Chớ dời đi các mộc giới cũ mà tổ phụ con đã dựng.
29Con có thấy người nào siêng năng trong công việc mình chăng? Người ấy hẳn sẽ đứng ở trước mặt các vua, chớ chẳng phải ở trước mặt dân thường đâu. 231Khi con ngồi ăn bữa với một vị quan, hãy quan sát cẩn thận điều chi có ở trước mặt con,2và hãy kề con dao nơi cổ họng con nếu con thích ăn nhiều thứ đồ ăn.3Chớ thèm các món ngon của người, vì đó là đồ ăn của sự dối gạt. 4Con chớ chịu khổ quá đặng con được giàu có; hãy khôn ngoan đủ để nhìn biết lúc nào phải dừng lại.
5Khi mắt con chiếu theo tiền bạc, nó đi mất rồi, và thình lình nó chắp cánh rồi bay lên trên trời như chim ưng vậy. 6Chớ ăn thứ đồ ăn của kẻ gian ác — là kẻ nhìn chăm vào thức ăn của con — và thèm muốn thứ cao lương mỹ vị của hắn,
7vì hắn là loại người lượng tính cái giá của thức ăn. Hắn nói với con rằng: “Hãy ăn uống đi”, nhưng trong lòng hắn chẳng hiệp cùng con.8Con sẽ mửa ra một chút thứ con đã ăn, và con sẽ phí mất những lời khen tặng của con. 9Chớ nói vào lỗ tai kẻ dại dột, vì nó sẽ khinh dể sự khôn ngoan trong lời nói của con.
10Chớ dời đi hòn đá xưa làm mộc giới hay vào trong đồng ruộng của kẻ mồ côi,
11vì Đấng cứu chuộc của họ vốn mạnh sức, và Ngài sẽ binh vực duyên cớ của họ nghịch cùng con.12Hãy áp dụng sự khuyên dạy vào tấm lòng con và tai con hãy lắng nghe lời lẽ có tri thức. 13Chớ cầm sự sửa phạt đối với trẻ thơ, vì nếu con đánh nó bằng roi, nó chẳng chết đâu.
14Nếu con đánh nó bằng roi, con sẽ giải cứu linh hồn nó khỏi âm phủ. 15Con ơi, nếu lòng con khôn ngoan, thì lòng ta cũng sẽ được vui mừng;
16lòng ta sẽ hớn hở khi môi miệng con thốt ra điều chi là ngay thẳng.17Chớ để lòng con ganh tỵ với hạng tội nhân, nhưng cả ngày hãy kính sợ Đức Giê-hô-va.
18Vì chắc chắn có một tương lai và sự trông cậy của con sẽ chẳng luống công đâu. 19Con ơi, hãy lắng nghe và sống khôn ngoan, hãy hướng lòng con vào đấy.
20Chớ hiệp với những kẻ say xỉn, hoặc với những kẻ ham ăn thịt,
21vì kẻ say xỉn và ham ăn sẽ trở nên nghèo, và kẻ ham ngủ sẽ quấn mình bằng giẻ rách.22Hãy nghe lời cha đã sanh ra con và chớ coi thường mẹ con khi người trở nên già yếu.
23Hãy mua lẽ thật, đừng bán nó đi; hãy mua sự khôn ngoan, kỷ luật, và sự thông sáng. 24Cha của người làm theo điều phải sẽ có sự vui vẻ lớn, và người nào sanh con khôn ngoan sẽ khoái lạc nơi nó.
25Nguyện cha mẹ của con được hớn hở và nguyện người đã sanh ra con được vui vẻ. 26Con ơi, hãy dâng lòng con cho cha, và nguyện mắt con luôn theo đuổi đường lối của cha.
27Vì gái điếm là một cái hố sâu, và vợ của người khác là một cái hầm hẹp.
28Nàng rình đợi như kẻ trộm, và nàng gia thêm số kẻ phản bội giữa vòng loài người. 29Ai bị sự khốn khổ? Ai phải buồn thảm? Ai có sự tranh cạnh? Ai than xiết? Ai bị thương tích vô cớ? Ai có con mắt đỏ?
30Người nào bám lấy chai rượu, những kẻ nếm thứ rượu pha. 31Chớ xem ngó rượu khi nó đỏ hồng, lúc nó chiếu sao trong ly, và tuôn chảy dễ dàng.
32Đến cuối cùng, nó cắn như rắn, chích như rắn lục.
33Hai mắt con sẽ nhìn những vật lạ, và lòng con sẽ nói điều gian tà. 34Con sẽ như người nằm giữa đáy biển hoặc nằm trên chót cột buồm vậy.
35Con sẽ nói rằng: “Họ đánh tôi, nhưng tôi không đau. Họ đập tôi, nhưng tôi không cảm nhận được gì hết. Khi tôi tỉnh dậy, tôi sẽ tìm uống thứ khác.” 241Chớ ganh ghét kẻ làm ác cũng đừng ước ao hiệp cùng chúng nó,2vì lòng chúng nó toan sự bạo lực, và môi miệng chúng nói ra điều rối rắm.3Nhờ sự khôn ngoan, cửa nhà được xây cất nên và do hiểu biết nhà ấy được vững bền.
4Nhờ sự tri thức, phòng ốc đầy ắp các thứ tài vật quí báu và đẹp đẽ. 5Người khôn ngoan có sức mạnh, và người nào hiểu biết thì tốt hơn người có sức mạnh.
6Vì nhờ mưu khôn ngoan con mới lượng được chiến trận, và với nhiều mưu sĩ thì mới có chiến thắng. 7Sự khôn ngoan quá cao đối với kẻ dại; nơi cửa thành nó không dám mở miệng mình ra. 8Có kẻ toan làm điều ác — người ta sẽ gọi hắn là kẻ sắp xếp bậc thầy.
9Toan tính của kẻ dại là tội lỗi, và người ta xem khinh kẻ hay chế giễu. 10Nếu con ngã lòng trong ngày hoạn nạn, thế thì sức lực con nhỏ mọn thay. 11Hãy giải cứu kẻ bị đùa đến sự chết, và chớ níu lại kẻ đi xiêu tó tới chỗ khổ hình.
12Nếu con nói: “Chúng tôi chẳng biết gì về việc nầy.” Có phải Đấng chuyên cân nhắc tấm lòng hiết biết con đang nói điều gì sao? Và Đấng gìn giữ sanh mạng con, có phải Ngài không biết đến nó sao? Và có phải Ngài sẽ chẳng báo cho mỗi người những gì họ đáng được sao? 13Con ơi, hãy ăn mật, vì nó ngon lành, vì tàng ong lấy làm ngọt ngào cho miệng con.
14Đấy là sự khôn ngoan cho linh hồn con — nếu con tìm được nó, sẽ có một tương lai và sự trông cậy của con sẽ chẳng hề luống công đâu. 15Đừng có nằm đó mà đợi giống như kẻ ác tấn công nhà của người làm theo điều phải. Đừng huỷ diệt nhà người ấy.
16Vì người công bình dầu sa ngã bảy lần, người cũng chổi dậy, nhưng kẻ hung ác bị tai vạ đánh đổ. 17Khoái chí khi kẻ thù con sa ngã, và nguyện lòng con chớ vui mừng khi nó vấp ngã,
18kẻo e Đức Giê-hô-va nhìn thấy và chẳng đẹp lòng rồi cất cơn thạnh nộ Ngài ra khỏi nó.19Chớ lo lắng vì cớ kẻ làm ác, và đừng ganh tỵ với nó,
20vì kẻ làm ác sẽ chẳng có tương lai chi hết, và ngọn đèn kẻ dữ sẽ tắt đi.21Con ơi, hãy kính sợ Đức Giê-hô-va và tôn kính vua; chớ hiệp cùng kẻ nào phản nghịch với họ,
22vì tai họa của chúng xảy đến thình lình và ai biết phạm vi sự huỷ diệt sẽ xảy đến cho cả hai kẻ ấy?23Đây cũng là lời lẽ của người khôn ngoan: Thiên vị trong sự xét đoán một vụ án chẳng phải tốt lành.24Ai nói với kẻ ác rằng: “Ngươi làm phải”, sẽ bị dân sự rủa sả, và các nước lấy làm gớm ghiếc.
25Còn người nào quở trách kẻ ác ắt sẽ được sự vui thích, và nhiều ơn phước sẽ giáng trên họ. 26Người nào đưa ra câu trả lời thành thật cung ứng nụ hôn nơi môi miệng vậy.
27Hãy sửa soạn công việc ở ngoài của con, và sắm sẵn cho mình trong đồng ruộng của con; sau đó hãy cất nhà của con. 28Chớ làm chứng vô cớ nghịch kẻ lân cận, và chớ dùng môi miệng mình mà nói dối.
29Chớ nói: “Tôi sẽ làm cho hắn những gì hắn đã làm cho tôi; tôi sẽ báo người tùy việc người đã làm.” 30Ta có đi ngang qua gần ruộng kẻ biếng nhác, ngang qua gần vườn nho của kẻ thiếu trí hiểu.
31Gai góc mọc lên khắp chỗ, cỏ khô che khuất mặt đất, và tường đá của nó bị phá hư rồi. 32Khi ấy, ta thấy rồi xem xét nó; ta thấy và nhận được sự dạy dỗ.
33Ngủ một chút, chợp mắt một chút, khoanh tay ngủ một chút, —
34thì sự nghèo khổ đến trên con như kẻ trộm, và mọi nhu cần của con sẽ áp tới như một kẻ cầm binh khí. 251Đây cũng là châm ngôn của Sa-lô-môn, người của Ê-xê-chia, vua Giu-đa sao chép.2Chính sự vinh hiển của Đức Chúa Trời khi che giấu một việc nào đó, nhưng tìm tòi việc ấy là vinh quang của các vị vua.
3Giống như các từng trời thì thật cao và đất thì thật thấp, người ta không thể dò được tấm lòng của các vị vua. 4Hãy tách cáu cặn khỏi bạc, và thợ bạc có thể sử dụng bạc ấy tạo ra đồ đáng dùng.
5Cũng một thể ấy, hãy dẹp bỏ kẻ ác ra khỏi sự hiện diện của nhà vua, và ngôi người sẽ được lập bền vững do làm theo điều phải. 6Chớ tự cao trong sự hiện diện của nhà vua, và chớ đứng ngay chỗ dành cho hạng người cao trọng. 7Vì thà người ta nói cùng con rằng: “Hãy lên đây”, hơn là con bị hạ xuống trong sự hiện diện của một nhà quí tộc. Là điều con đã chứng kiến.
8Chớ vội đưa ra toà. Vì rốt cuộc con sẽ làm gì, khi kẻ lân cận con khiến con phải xấu hổ? 9Hãy bàn bạc trường hợp của con giữa con và kẻ lân cận, song chớ tỏ ra sự kín đáo của kẻ khác,
10hoặc khi có ai nghe con nói sẽ khiến con phải xấu hổ và một báo cáo xấu về con không thể im bặt được.11Thốt ra lời lẽ đã được chọn lọc, khác nào khuôn vàng có cẩn bạc.
12Giống như chiếc nhẫn hay đồ trang sức được làm bằng vàng ròng là một lời quở trách khôn ngoan cho lỗ tai biết lắng nghe. 13Giống như tuyết giá lạnh vào lúc mùa gặt là một sứ giả trung tín cho người sai đi; người lo làm ích cho chủ mình.
14Giống như các đám mây và gió mà không có mưa là kẻ khoe khoang về ân tứ mà mình không ban ra được. 15Với sự kiên nhẫn có thể khuyên dỗ một vị quan trưởng, và cái lưỡi mềm dịu có thể bẻ gãy xương cốt. 16Nếu con tìm được mật, hãy ăn vừa phải — nếu không, sau khi ăn mật quá nhiều, con mửa nó ra.
17Chớ thường xuyên tra chân con vào nhà kẻ lân cận, người sẽ lấy làm mệt vì con, rồi đâm ghét con chăng. 18Một người làm chứng dối nghịch cùng kẻ lân cận mình thì khác nào một cái dùi cui, hay gươm, hoặc mũi tên nhọn dùng trong chiến trận.
19Một kẻ bất trung mà con tin cậy trong thời hoạn nạn thì giống như cái răng hư hay cái chân bị trặt. 20Giống như người nào lột áo mình ra khi trời lạnh, hoặc giống như giấm đổ trên diêm tiêu là kẻ hát lên những bài ca cho tấm lòng nặng nề nghe vậy. 21Nếu kẻ thù con có đói, hãy cho nó ăn, và nếu hắn có khát, hãy cho hắn uống,
22vì con sẽ chất than cháy đỏ trên đầu hắn, và Đức Giê-hô-va sẽ thưởng cho con.23Gió bắc chắc chắn đem mưa đến, người nào nói ra điều kín nhiệm tạo nét giận dữ trên nhiều khuôn mặt.
24Thà là sống trong xó nóc nhà hơn là ở chung nhà với người đàn bà hay tranh cạnh. 25Giống như nước lạnh cho kẻ nào khát, cũng một thể ấy, tin lành đến từ xứ xa.
26Giống như dòng suối có nhiều rong rêu hay nước sông bị đục là người nhơn đức chao đảo trước mặt kẻ ác. 27Chẳng tốt lành chi khi ăn quá nhiều mật; giống như tìm kiếm hết vinh quang nầy đến vinh quang khác.
28Một người không kiểm soát mình được giống như một cái thành có những bức tường hư lũng không có chỗ kín vậy. 261Giống như tuyết rơi vào mùa hè hay mưa trong lúc mùa gặt, cũng vậy, sự vinh hiển không xứng cho kẻ ngu muội2Giống như chim sẻ bay liệng và chim én lượn lờ khi chúng bay, cũng một thể ấy lời rủa sả vô cớ chẳng hề xảy đến bao giờ.3Cây roi dùng cho ngựa, hàm thiết dùng cho lừa, và roi vọt dành cho lưng kẻ ngu muội.
4Chớ đáp lời với kẻ dại và chớ hiệp vào sự ngu dại nó, hoặc con sẽ trở nên giống như nó. 5Hãy đáp trả kẻ dại rồi hiệp vào sự ngu dại nó, thế là nó sẽ không được khôn ngoan theo mắt nó.
6Kẻ nào gửi sứ điệp do tay kẻ dại chặt chính chân mình và uống lấy bạo lực. 7Hai chân người bị tê liệt đong đưa vô đụng giống như câu châm ngôn ở trong miệng kẻ dại.
8Buộc hòn đá vào cái trành thì y như trao vinh dự cho kẻ dại. 9Cái gai đâm vào tay kẻ say xỉn thì giống như câu châm ngôn trong miệng kẻ dại.
10Một cung thủ gây thương tích cho mọi người thì giống như người thuê kẻ dại hay khách qua đường. 11Giống như con chó mửa ra rồi liếm lại, cũng vậy kẻ dại làm lại việc ngu dại mình.
12Có phải con thấy người nào khôn ngoan theo mắt nó chăng? Còn có sự trông cậy cho kẻ ngu muội hơn là cho người ấy. 13Kẻ biếng nhác nói: “Có con sư tử ở ngoài đường! Có con sư tử ở giữa nơi khoảng khoát!”
14Giống như cánh cửa xoay quanh bản lề, cũng vậy kẻ biếng nhác lăn trở trên giường mình. 15Kẻ biếng nhác thò tay mình vào trong dĩa, dù vậy hắn chẳng có chút sức lực gì để nhấc đưa bánh lên miệng mình.
16Kẻ biếng nhác là người khôn ngoan trong mắt mình hơn bảy người biết phân biệt. 17Giống như người nào nắm lấy tai con chó, khác nào kẻ qua đường nổi giận về cuộc cãi lẫy không can đến mình. 18Giống như kẻ dại chuyên bắn tên lửa,
19là kẻ nói dối với người lân cận mình như sau: “Có phải tôi không nói đùa sao?”20Vì thiếu củi nên lửa tắt, rồi ở chỗ nào chẳng có kẻ thèo lẻo nào hết, cuộc tranh cạnh bèn nguôi.
21Giống như than mồi cho than đỏ lên và củi để chụm lửa, cũng vậy đối với kẻ hay tranh cạnh nhen lên sự tranh cạnh. 22Lời lẽ của kẻ thèo lẻo giống như vật thực ngon; chúng xuống đến các chi thể tận cùng của thân.
23Môi miệng sôi sụt và tấm lòng độc ác, khác nào bình gốm bọc vàng bạc pha. 24Kẻ nào ghen ghét người ta, môi miệng nó tỏ ra cảm xúc giả trá, và sự dối gạt chất chứa trong người nó.
25Người nào nói năng ngọt ngào, đừng tin hắn, vì có bảy sự gớm ghiếc ở trong lòng hắn.
26Dầu sự thù hận của hắn được che đậy với sự giả trá, sự gian ác hắn sẽ bị lộ ra nơi chỗ đông người. 27Ai đào hầm sẽ lọt xuống đó, và hòn đá sẽ trở đè lên kẻ đã xô nó.
28Lưỡi giả dối ghét những kẻ nó đã chà nát, và cái miệng dua nịnh gây ra bại hoại. 271Chớ khoe khoang về ngày mai, vì con chẳng biết ngày mai sẽ đưa đến việc gì.2Hãy để cho người khác khen ngợi con, chớ chẳng phải chính miệng con; người lạ chớ không phải chính môi con. 3Đá thì nặng, cát cũng nặng; Nhưng cơn tức giận của kẻ ngu dại còn nặng hơn cả hai.
4Có sự tàn nhẫn khi giận dữ, và cơn lũ thạnh nộ, nhưng ai có thể đứng nổi trước sự ghen ghét? 5Thà là quở trách công khai hơn là thương yêu giấu kín.
6Bạn hữu gây thương tích cho là do lòng trung thành, nhưng kẻ thù có thể hôn bạn cách thừa thãi. 7Một người ăn no nê thậm chí chối bỏ cả mật ong, nhưng đối với kẻ đói khát ngay cả đắng cũng trở làm ngọt.
8Chim bay từ tổ nó đến chỗ nầy chỗ kia thì giống như kẻ lưu lạc xa cách nơi ở của mình vậy. 9Dầu và thuốc thơm làm cho lòng vui mừng, nhưng sự êm dịu của người bạn thì tốt hơn lời khuyên của người.
10Chớ lìa bạn mình, hay là bạn của cha mình, và chớ đi đến nhà anh em mình trong ngày tai vạ: Một người xóm giềng gần còn hơn anh em đang ở xa. 11Con ơi, hãy khôn ngoan, và làm cho lòng cha được vui vẻ, khi ấy cha có thế đáp lại cùng kẻ nào chế nhạo cha.
12Người khôn nhìn thấy rắc rối và lo ẩn mình, nhưng người thiếu kinh nghiệm cứ đi tới và chịu khổ vì cớ nó. 13Hãy cầm cái áo nếu chủ nó bảo lãnh cho kẻ lạ; và hãy cầm lấy cái áo đó nếu người bảo lãnh cho dâm phụ.
14Hễ ai dậy sớm trao cho kẻ lân cận mình ơn phước với giọng nói lớn tiếng, ơn phước ấy sẽ bị xem là một sự rủa sả. 15Một người vợ hay tranh cạnh giống như cái máng xối dột luôn trong ngày mưa lớn.
16Kiềm chế nàng giống như kiềm chế gió, giống như tìm cách nắm lấy dầu trong tay hữu mình vậy. 17Sắt mài nhọn sắt; cũng một thể ấy, một người lo trau dồi bạn hữu mình.
18Ai săn sóc cây vả sẽ ăn trái nó, và người nào lo bảo hộ chủ mình ắt sẽ được tôn trọng. 19Giống như nước phản ảnh mặt của một người, cũng vậy, tấm lòng của một người phản ảnh con người.
20Giống như âm phủ và vực sâu không hề đầy, cũng vậy, mắt của con người không hề thấy thoả mãn. 21Cái lò để thử bạc và cái nồi dót để thử vàng, và người ta bị thử khi họ được khen ngợi.
22Dầu con dùng chày giã kẻ ngu dại — chung với gạo — thì sự điên dại nó sẽ không lìa khỏi nó. 23Con phải biết chắc tình trạng bầy của con, và phải quan tâm đến gia súc của con,
24vì sự giàu có không còn mãi được. Có phải chiếc vương miện còn đến đời đời không?25Cỏ già cổi đi thì cỏ mới mọc ra và người ta thâu thập cỏ cho gia súc ở trên núi. 26Chiên con sẽ cung ứng y phục cho con, và bầy dê sẽ cung ứng giá của đồng ruộng.
27Sẽ có sữa dê dùng làm đồ ăn cho con — đồ ăn cho người nhà con — và thực phẩm cho các tớ gái của con. 281Kẻ ác chạy trốn khi chẳng có ai truy đuổi, nhưng người nào làm phải có can đảm như sư tử tơ.2Vì có sự quá phạm trong xứ nên có nhiều vua chúa, nhưng với một người thông sáng và hiểu biết, xứ sẽ được lâu dài. 3Người nghèo nầy ức hiếp người nghèo khác thì giống như trận mưa chẳng để lại chút đồ ăn nào cả.
4Người nào bỏ luật pháp ngợi khen kẻ ác, nhưng người giữ theo luật pháp chiến đấu chống lại chúng. 5Kẻ ác chẳng hiểu sự công bình, nhưng ai tìm cầu Đức Giê-hô-va hiểu biết mọi sự.
6Thật lấy làm tốt cho người nghèo bước đi cách ngay thẳng, còn hơn là kẻ giàu có theo đường tà vậy. 7Người nào giữ theo luật pháp là đứa con có sự hiểu biết, nhưng kẻ nào làm bạn với thứ hoang đàng làm xấu hổ cho cha nó.
8Kẻ nào phát đạt bằng cách ăn lời quá mức đang tóm thâu của cải mình dành cho người khác, là người có lòng thương xót kẻ nghèo khổ. 9Nếu một người xây tai mình đi không khứng nghe theo luật pháp, ngay cả lời cầu nguyện của người cũng là một sự gớm ghiếc.
10Hễ ai làm cho người ngay thẳng lạc vào đường xấu, chính kẻ đó sẽ sa vào hố mình đã đào, nhưng người không tì vít sẽ có một cơ nghiệp tốt lành. 11Người giàu có mắt xem mình là khôn ngoan, nhưng kẻ nghèo là kẻ có sự hiểu biết sẽ tìm gặp người.
12Khi có sự thắng hơn cho người làm theo điều phải, có sự vinh hiển lớn, nhưng khi kẻ ác dấy lên, dân sự đi ẩn mình. 13Người nào giấu tội lỗi mình sẽ không được thịnh vượng, nhưng ai xưng chúng ra rồi lìa bỏ nó sẽ được thương xót.
14Phước cho người nào luôn luôn sống với sự kỉnh kiền, nhưng hễ ai cứng lòng mình sẽ sa vào rối rắm. 15Giống như sư tử đang gầm rống hay gấu đang giận dữ là một vị vua gian ác cai trị trên dân nghèo.
16Quan trưởng nào thiếu trí hiểu là kẻ áp bức nghiệt ngã, nhưng người nào ghét sự bất lương sẽ được trường thọ. 17Nếu một người phạm tội vì làm đổ huyết ai đó, người ấy sẽ đào tẩu cho đến chết, và không có ai vùa giúp nó!
18Hễ ai ăn ở cách ngay thẳng sẽ được giữ an toàn, nhưng người nào có đường lối mình cong vạy sẽ thình lình sa ngã. 19Người nào cày ruộng mình sẽ có nhiều bánh, nhưng kẻ nào theo đuổi điều vô giá trị sẽ bị nghèo thiếu nhiều.
20Một người trung thành sẽ có nhiều phước lớn, nhưng kẻ nào vội làm cho giàu ắt sẽ chẳng khỏi bị phạt. 21Thật lấy làm không tốt khi thiên vị, nhưng vì một miếng bánh, người sẽ phạm sai lầm.
22Kẻ keo kiệt vội chạy theo giàu có, nhưng người chẳng biết rằng sự nghèo khó sẽ giáng trên mình nó. 23Ai quở trách người nào rồi về sau tìm được nhiều ơn từ người ấy hơn từ kẻ nịnh mình bằng lưỡi của hắn.
24Kẻ nào ăn cắp của cha hay mẹ mình rồi nói: “Có tội tình gì đâu”, kẻ ấy đồng bạn với kẻ hay huỷ diệt. 25Một kẻ tham lam khuấy động sự tranh cạnh, nhưng người nào tin cậy Đức Giê-hô-va sẽ được hanh thông.
26Người nào tin cậy chính lòng mình là kẻ dại dột, nhưng ai ăn ở trong sự khôn ngoan sẽ tránh được hiểm nguy. 27Ai bố thí cho người nghèo sẽ chẳng thiếu thốn gì, nhưng ai khép mắt mình lại đối với họ sẽ nhận lãnh nhiều sự rủa sả.
28Khi kẻ ác dấy lên, người ta đều ẩn mình, nhưng khi kẻ ác hư mất đi, người làm theo điều phải sẽ thêm nhiều lên. 291Người nào nhận lãnh nhiều quở trách lại cứng cổ mình, sẽ bị gãy cổ trong phút chốc không phương cứu chữa.2Khi người làm theo điều phải thêm nhiều lên, thì dân sự vui mừng, nhưng khi kẻ ác ngồi cai trị, dân sự rên siết. 3Người ưa mến sự khôn ngoan làm vui vẻ cho cha mình, nhưng kẻ nào bạn bè với gái điếm phá tan của cải mình.
4Vua nhờ sự công bình làm cho nước vững bền, nhưng kẻ nào đòi hối lộ làm băng hoại xứ. 5Người nào nịnh bợ kẻ lân cận mình đang giăng lưới cho chơn mình.
6Kẻ ác có cái bẫy bởi tội lỗi của hắn, nhưng người làm phải ca hát vui mừng. 7Người nào làm theo điều phải xét duyên cớ của kẻ nghèo; kẻ ác không hiểu biết được như thế.
8Kẻ nhạo báng lo châm lửa đốt thành, nhưng người nào khôn ngoan bỏ cơn giận đi. 9Khi một người khôn ngoan có tranh luận với kẻ dại dột, người giận rồi cười, và chẳng thấy yên tâm được.
10Kẻ làm đổ huyết ghét người nào sống không tì vít và tìm kiếm mạng sống của người ngay thẳng. 11Kẻ dại dột tỏ ra cơn giận mình, nhưng người khôn ngoan cầm giữ nó và nguôi lòng mình xuống.
12Nếu quan trưởng chú ý đến lời dối trá, mọi kẻ dưới quyền người sẽ trở nên gian ác. 13Kẻ nghèo và người ức hiếp đều giống nhau, vì Đức Giê-hô-va ban ánh sáng cho mắt cả hai.
14Nếu một vị vua xét đoán kẻ nghèo bằng lẽ thật, ngôi của người sẽ được vững bền đời đời. 15Roi vọt và sự quở trách cung ứng sự khôn ngoan, nhưng đứa con không cần biết đến kỷ luật làm xấu hổ cho mẹ nó.
16Khi kẻ ác nắm lấy quyền lực, thêm lên sự quá phạm, nhưng người làm theo điều phải sẽ thấy sự sa ngã của kẻ ác. 17Hãy kỷ luật con cái của con thì nó sẽ khiến con được yên nghỉ, nó sẽ đem lại sự vui thích trong cuộc sống của con.
18Không có mặc khải tiên tri dân sự bèn phóng túng, nhưng người nào giữ theo luật pháp thì được phước. 19Tôi tớ sẽ chẳng bị chỉnh sửa bằng lời nói, vì dù nó hiểu biết, sẽ chẳng có đáp trả nào hết.
20Con có thấy kẻ hấp tấp trong lời nói mình chăng? Có nhiều hy vọng cho một kẻ dại dột hơn là cho hắn. 21Người nào nuông chìu kẻ tôi tớ mình từ thuở nhỏ, đến cuối cùng sự nuông chìu ấy sẽ gặp nhiều rối rắm.
22Một người hay giận khuấy đảo sự tranh cạnh và người cưu giận phạm tội nhiều thay. 23Sự kiêu ngạo của một người sẽ hạ người xuống thấp, nhưng ai có tinh thần khiêm nhượng sẽ được tôn vinh.
24Kẻ nào dự phần với trộm cướp ghét chính mạng sống mình; nó nghe lời rủa sã và chẳng nói gì hết. 25Kẻ sợ hãi người ta lo giăng bẫy, nhưng người nào tin cậy nơi Đức Giê-hô-va được bảo hộ.
26Nhiều người tìm kiếm mặt vua, nhưng sự công bình người ấy có cần đều từ Đức Giê-hô-va mà đến. 27Kẻ gian tà là một sự gớm ghiếc cho người làm theo điều phải, nhưng ai có đường lối mình là ngay thẳng bị kẻ ác gớm ghiếc. 301Lời của A-gu-rơ, con trai Gia-kê — Châm ngôn: người nầy nói ra cho Y-thi-ên và U-canh.2Quả thật ta giống với con thú hơn là người nào, và Ta không có sự hiểu biết của một con người.
3Ta không học sự khôn ngoan, và ta cũng không có tri thức của Đấng Thánh. 4Ai đã lên trời, rồi lại xuống? Ai đã góp gió trong lòng tay mình? Ai đã bọc nước trong áo mình? Ai lập các giới hạn của đất? Danh người là chi, và tên con trai người là gì? Nếu ngươi biết, hãy nói đi. 5Từng lời của Đức Chúa Trời đều đã được thử nghiệm, Ngài là cái thuẫn đỡ cho người nào nương cậy nơi Ngài.
6Chớ thêm chi vào các lời Ngài, hoặc Ngài sẽ quở trách ngươi, và ngươi bị cho là kẻ nói dối. 7Tôi cầu xin Chúa hai điều, xin chớ cầm chúng lại trước khi tôi qua đời:
8Xin khiến cho sự kiêu căng và lời dối trá dan xa khỏi tôi. Chớ cho tôi nghèo khổ, hoặc giàu có, hãy nuôi tôi đủ vật thực cần dùng.9Vì nếu tôi có quá nhiều, tôi sẽ chối Ngài rồi nói: “Ai là Đức Giê-hô-va”? Hoặc nếu tôi nghèo khó, tôi sẽ trộm cắp và báng bổ danh của Đức Chúa Trời tôi.10Chớ phao vu kẻ tôi tớ trước mặt chủ nó, hoặc nó sẽ rủa sả ngươi, và ngươi mắc tội chăng. 11Có một dòng dõi rủa sả cha mình và không chúc phước cho mẹ mình,
12là một dòng dõi thanh sạch theo chính mắt họ, nhưng họ chưa rửa sạch nhơ bẩn mình.13Đấy là một dòng dõi — mắt họ kiêu hãnh thay và mí mắt họ nhướng cao dường nào!
14Họ là một dòng dõi có răng tựa gươm, hàm của họ là dao, để họ có thể nuốt lấy kẻ nghèo khỏi đất và người có cần khỏi loài người. 15Con đỉa có hai con gái, chúng kêu lên: “Hãy cho và hãy cho!” Có ba thứ chẳng hề lấy làm thoả mãn, bốn điều chẳng nói rằng: “Đủ rồi!”
16Âm phủ, người đàn bà son sẻ, đất không no đủ nước, và lửa không hề nói: “Đủ rồi!”
17Con mắt nhạo báng cha mình và xem khinh sự vâng lời đối với mẹ mình, loài quạ sẽ móc con mắt ấy, và kên kên sẽ ăn nó. 18Có ba việc lấy làm diệu kỳ cho ta, bốn thứ mà ta chẳng hiểu được:
19đường chim ưng bay trên trời; lối con rắn bò trên hòn đá; lằn tàu chạy giữa biển, và đường người nam giao hợp với người nữ.20Đây là tánh nết của người nữ tà dâm — nàng ăn, rồi nàng lau miệng, rồi nói: “Tôi có làm gì sai đâu.” 21Trái đất rúng động dưới ba việc nầy, và bốn điều, nó chẳng chịu nổi:
22một tôi tớ khi hắn lên làm vua; kẻ dại khi hắn no nê đồ ăn;23người nữ có lòng thù hận khi lấy chồng; và con đòi chiếm lấy chỗ bà chủ mình.24Bốn vật trên đất là nhỏ bé, và tuy nhiên, chúng rất là khôn khéo:
25Con kiến là tạo vật không có sức, nhưng chúng lo sắm sẵn vật thực mình trong mùa hè;26Con thỏ không phải là tạo vật có sức mạnh, nhưng chúng lập nơi ở mình trong vầng đá.27Loài cào cào dầu không có vua chúa, nhưng bay ra có đội hình.
28Con thằn lằn, con có thể bắt lấy nó trong tay, thế mà chúng được thấy có trong cung điện của vua. 29Có ba vật điệu đi tốt đẹp, bốn vật nước bước xem sang trọng:
30con sư tử, mạnh nhất trong loài vật hoang dã — nó chẳng tránh bất cứ thứ gì;31Con ngựa chiến; con dê đực; và vị vua với binh lính bên cạnh người.32Nếu ngươi từng dại dột, tự tôn mình, hoặc nếu ngươi có ác tưởng — hãy lấy tay che miệng mình lại.
33Vì ép sữa làm ra bơ, và đánh đập lỗ mũi bèn làm cho phun máu, cũng vậy, các việc được làm ra trong cơn giận làm nẩy ra điều tranh cạnh. 311Lời của vua Lê-mu-ên - châm ngôn mà mẹ người dạy cho người.2Con ơi, sao chứ? Và hỡi con của tử cung ta, ta phải nói gì đây? Hỡi con của sự khấn nguyện ta, ta nên nói điều gì với con?
3Chớ phó sức lực con cho phụ nữ, hay đừng bước theo những kẻ có đường lối hòng tiêu diệt các vua. 4Hỡi Lê-mu-ên, chẳng xứng hiệp cho các vua, chẳng xứng hiệp cho các vua uống rượu, cũng không xứng hiệp với các quan trưởng nói rằng: “Rượu mạnh ở đâu?”
5Vì nếu họ uống, họ quên những điều đã được quy định, và đảo lộn quyền sống của mọi kẻ khốn khổ. 6Hãy ban rượu mạnh cho người gần chết, và rượu uống say cho kẻ nào có lòng bị cay đắng.
7Họ sẽ uống rồi quên nỗi nghèo khổ mình, và người ấy sẽ chẳng nhớ đến rối rắm của mình nữa.8Hãy nói thay cho kẻ không thể nói được, nói thay duyên cớ của hết thảy những người đang hư mất.
9Hãy nói đi và xét đoán theo lượng nhơn đức, và phân xử đúng đắn duyên cớ của người khốn cùng nghèo thiếu. 10Ai sẽ tìm được người nữ tài đức? Giá trị nàng trổi hơn châu ngọc.
11Lòng người chồng tin cậy nơi nàng, và người sẽ chẳng sống khó nghèo.
12Nàng làm nhiều việc ích cho chàng và chẳng hề gây tổn hại trong cả đời nàng. 13Nàng chọn lấy lông chiên và gai sợi, rồi lao động với sự vui thích của tay mình.
14Nàng giống như các chiếc tàu buôn kia; nàng đem bánh mình về từ chỗ xa.
15Nàng thức dậy khi trời còn tối cung cấp đồ ăn cho người nhà mình, và nàng phân phối công việc cho các tớ gái mình. 16Nàng xem qua thửa ruộng rồi mua nó, với sự cần cù của hai tay mình nàng trồng một vườn nho.
17Nàng tự mặc lấy với sức lực và làm hai cánh tay mình ra mạnh mẽ. 18Nàng lường trước điều chi có ích cho mình; suốt đêm đèn nàng chẳng tắt.
19Nàng đặt tay vào con quay, và các ngón tay nàng cầm con cúi. 20Nàng chìa tay ra với kẻ nghèo; nàng chìa tay ra tiếp kẻ có cần.
21Nàng không sợ tuyết giá cho người nhà mình, vì cả nhà nàng đều mặc áo bằng lông chiên màu đỏ sặm. 22Nàng chế các tấm đắp cho giường mình, và nàng mặc trang phục bằng vải gai mịn màu đỏ điều.
23Chồng nàng được người ta biết đến tại cửa thành, khi chàng ngồi chung với các trưởng lão của xứ. 24Nàng chế áo lót rồi bán chúng, và nàng cung cấp đai lưng cho con buôn.
25Nàng mặc lấy sức lực và sự tôn trọng, và nàng vui cười nơi buổi sau hầu đến. 26Nàng mở miệng ra với sự khôn ngoan, và phép tắc nhân từ ở nơi lưỡi nàng.
27Nàng để ý đến mọi nẻo của nhà mình và không ăn bánh bị thiêu. 28Con cái nàng chổi dậy và chúc phước cho nàng; chồng nàng khen ngợi nàng như sau:
29“Có nhiều người nữ làm lụng rất giỏi, nhưng nàng trổi hơn hết thảy.”30Duyên là giả dối, sắc lại hư không, nhưng người nữ nào kính sợ Đức Giê-hô-va, nàng sẽ được khen ngợi.
31Hãy ban cho nàng bông trái của tay nàng, và hãy để các công việc nàng ngợi khen nàng tại nơi cửa thành. Ê-sai
11Khải tượng mà Ê-sai con trai A-mốt đã thấy liên quan đến Giu-đa và Giê-ru-sa-lem trong thời các vua Ô-xia, Giô-tham, A-cha và Ê-xê-chia của nước Giu-đa.2Hỡi các tầng trời, hãy nghe; hỡi đất, hãy lắng tai; vì Giê-hô-va phán: “Ta đã nuôi nấng và dưỡng dục con cái, nhưng chúng lại phản loạn với Ta.3Bò biết chủ mình, lừa biết máng của chủ, nhưng Y-sơ-ra-ên không biết, Y-sơ-ra-ên chẳng hiểu. 4Khốn cho đất nước phạm tội, một dân tộc trĩu nặng lỗi lầm, dòng giống của kẻ làm dữ, những đứa con làm chuyện đồi bại! Chúng đã từ bỏ Giê-hô-va, chúng đã khinh dễ Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên, chúng đã xa lánh Ngài. 5Vì sao các ngươi vẫn còn chịu bị đánh? Vì sao các ngươi lại cứ mãi phản loạn? Cả cái đầu đều ốm, cả tấm lòng đều yếu mỏn.
6Từ gang bàn chân cho đến đỉnh đầu chẳng có chỗ nào không bị tổn thương; chỉ toàn là thương tích, vết bầm, và vết thương mới còn để hở; chúng vẫn chưa được rịt lại, chưa được rửa sạch, chưa được băng bó, chưa được bôi dầu. 7Xứ sở các ngươi bị tàn hại; thành quách các ngươi bị đốt cháy; ruộng đồng các ngươi thì — những kẻ xa lạ hủy phá chúng ngay trước mặt các ngươi — bị bỏ phế, bị người ngoại quốc phá sạch.
8Con gái Si-ôn bị bỏ lại như túp lều trong vườn nho, như nhà kho trong vườn dưa, như thành bị vây hãm. 9Nếu Giê-hô-va của các đạo binh không chừa cho chúng ta một ít người sót lại thì chúng ta đã giống như Sô-đôm, chúng ta đã giống như Gô-mô-rơ. 10Hỡi giới cai trị Sô-đôm, hãy nghe lời Giê-hô-va; hỡi dân chúng Gô-mô-rơ, hãy lắng tai nghe luật pháp của Đức Chúa Trời chúng ta:
11Giê-hô-va phán: “Muôn vàn sinh tế của các ngươi có ý nghĩa gì đối với Ta? Ta đã chán ngấy các của lễ thiêu bằng chiên đực, và mỡ của thú được vỗ béo; Ta cũng chẳng vui thích máu của bò đực, chiên con hoặc dê.12Khi các ngươi đến ra mắt Ta, ai đòi các ngươi phải làm vậy, để rồi giẫm đạp lên sân đền của Ta?
13Hãy thôi đem các của lễ vô nghĩa đó đi; Ta ghê tởm mùi hương rồi; còn các cuộc nhóm họp vào ngày trăng mới và ngày Sa-bát — Ta không chịu được các dịp hội họp đó. 14Ta ghét ngày trăng mới cùng các lễ hội đã được ấn định của các ngươi; chúng chỉ là gánh nặng đối với Ta; Ta đã chán chê chúng rồi.
15Cho nên khi các ngươi giơ tay cầu nguyện, thì Ta che mắt lại; cho dù các ngươi có dâng lên nhiều lời cầu khẩn thì Ta cũng chẳng nghe; tay các ngươi đã vấy máu. 16Hãy tắm rửa và làm sạch mình đi; hãy loại bỏ các việc ác của các ngươi khỏi trước mặt Ta; hãy thôi làm dữ;
17hãy học làm lành; hãy tìm kiếm sự công bình, giúp đỡ người bị áp bức, cư xử công bình với kẻ côi cút, bênh vực giới quả phụ.”18Giê-hô-va phán: “Hãy đến, rồi chúng ta cùng nhau tranh luận; dầu tội lỗi các ngươi như hồng điều cũng sẽ trắng như tuyết; dầu nó có như màu đỏ thẳm thì cũng sẽ giống như lông chiên. 19Nếu các ngươi sẵn lòng và vâng lời thì các ngươi sẽ được ăn vật tốt của xứ.
20Nhưng nếu các ngươi từ chối và nổi loạn thì gươm sẽ ăn nuốt các ngươi,” vì miệng của Giê-hô-va đã phán lời ấy. 21Thể nào thành trung tín đã trở thành gái điếm! Lúc trước nó thật công bình — nó vốn công chính, nhưng giờ thì nó toàn là bọn sát nhân.
22Bạc các ngươi đầy tạp chất, rượu ngươi bị lẫn với nước. 23Giới quan tướng các ngươi là kẻ phản nghịch và bạn của kẻ trộm; ai cũng thích được hối lộ và tìm kiếm của đút lót. Chúng không bênh vực kẻ côi cút, lời khẩn xin của quả phụ cũng chẳng đến được trước mặt chúng nó. 24Vậy nên đây là tuyên bố của Chúa là Giê-hô-va của các đạo binh, Đấng Năng Quyền của Y-sơ-ra-ên: “Bất hạnh thay cho chúng nó! Ta sẽ báo thù các cừu địch Ta, và báo trả các kẻ thù mình;
25Ta sẽ trở tay chống lại ngươi, luyện lọc hết cặn bã của ngươi, và cất đi mọi tội lỗi ngươi.26Ta sẽ lập lại các quan xử án ngươi giống như lúc trước, phục hồi lại các trạng sư của ngươi như lúc ban đầu; sau đó ngươi sẽ được gọi là thành công chính, thị trấn trung tín.” 27Si-ôn sẽ được chuộc bởi sự công bình, những kẻ biết ăn năn của nó sẽ được cứu bởi sự công chính.
28Kẻ phản loạn cùng kẻ phạm tội sẽ cùng bị tiêu diệt, và kẻ lìa bỏ Giê-hô-va sẽ bị trừ khử. 29“Vì ngươi sẽ xấu hổ về các cây sồi linh thiêng mình ước muốn, ngươi sẽ bị mất mặt vì những khu vườn mình đã chọn.
30Vì ngươi sẽ như cây sồi khô lá, như khu vườn thiếu nước. 31Người mạnh sức sẽ như bùi nhùi, công việc nó giống như tia lửa; cả hai sẽ cùng cháy mà chẳng ai dập tắt được.” 21Những điều Ê-sai con trai A-mốt đã thấy trong một khải tượng, về nước Giu-đa và Giê-ru-sa-lem.2Vào những ngày về sau này, núi của nhà Giê-hô-va sẽ được lập cao hơn tất cả các núi, và sẽ được tôn cao lên trên các đồi; tất cả các dân sẽ đổ về đó. 3Nhiều dân sẽ đến nói: “Hãy đến, chúng ta sẽ đi lên núi của Giê-hô-va, lên nhà Đức Chúa Trời của Gia-cốp, để Ngài dạy chúng ta một số đường lối Ngài, rồi chúng ta bước đi trong các nẻo Ngài.” Vì luật pháp sẽ ra từ Si-ôn, lời của Giê-hô-va ra từ Giê-ru-sa-lem.4Ngài sẽ phân xử giữa các quốc gia và sẽ đưa ra phán quyết cho nhiều dân tộc; họ sẽ lấy gươm của họ rèn thành lưỡi cày, và lấy cái giáo rèn thành lưỡi liềm; nước này sẽ không vung gươm chống lại nước kia, cũng không còn luyện tập chinh chiến nữa. 5Hỡi nhà Gia-cốp, hãy đến, chúng ta sẽ bước đi trong ánh sáng của Giê-hô-va.
6Vì Chúa đã từ bỏ dân Ngài, là nhà của Gia-cốp, do họ đầy dẫy các thói tục từ đông phương, làm những người giải điềm như dân Phi-li-tin, và giao kết với con cái người ngoại quốc. 7Xứ chúng đầy bạc, vàng, và của cải chúng thì vô kể; xứ chúng cũng đầy dẫy ngựa, còn xe ngựa thì vô số.
8Xứ chúng cũng đầy dẫy tượng thần; chúng phụng thờ sản phẩm của chính tay mình, những thứ do chính các ngón tay chúng tạo ra. 9Con người ta sẽ phải cúi mình, các cá nhân sẽ suy vi; vậy nên đừng chấp nhận họ.
10Hãy đi vào những nơi có đá và ẩn mình trong đất mà tránh sự kinh khiếp của Giê-hô-va cùng vinh quang của sự oai nghiêm Ngài.
11Trong ngày đó, cái nhìn cao kỳ của người ta sẽ bị hạ xuống, lòng kiêu ngạo của con người sẽ bị hạ bệ, và chỉ có Giê-hô-va được tôn lên. 12Vì sẽ có một ngày Giê-hô-va của các đạo binh sẽ chống lại mọi kẻ kiêu ngạo và lên mình, cùng mọi kẻ ngạo mạn, và họ sẽ bị hạ xuống —
13cùng mọi cây bá hương của Li-ban cao kỳ và lên mình, cùng mọi cây sồi của Ba-san,14cùng mọi ngọn núi cao, cùng mọi quả đồi ngạo nghễ,15cùng mọi ngọn tháp cao, cùng mọi tường thành kiên cố,16cùng mọi tàu bè Ta-rê-si, cùng mọi thuyền buồm đẹp đẽ.17Lòng kiêu ngạo của người ta sẽ bị hạ xuống, tính cao kỳ của con người sẽ đổ sập; chỉ Giê-hô-va được tôn lên trong ngày đó.
18Tượng thần sẽ hoàn toàn qua đi.
19Người ta sẽ vào trong các hang đá, vào các hầm dưới đất để tránh sự kinh khiếp của Giê-hô-va, cùng vẻ rực rỡ của sự oai nghiêm Ngài, khi Ngài trổi dậy để làm khiếp hãi đất. 20Trong ngày đó, người ta sẽ cất bỏ các tượng thần bằng bạc, bằng vàng mà họ đã làm ra cho mình để phụng thờ — họ sẽ ném chúng cho chuột chũi và dơi.
21Người ta sẽ vào hang đá và vào kẽ đá để tránh sự kinh khiếp của Giê-hô-va cùng vinh quang của sự oai nghiêm Ngài, khi Ngài chỗi dậy để làm kinh hãi đất.
22Hãy thôi nhờ cậy con người, là loài có hơi sống trong lỗ mũi, vì những gì họ làm có được gì đâu? 31Này, Chúa là Giê-hô-va của các đạo binh sắp rút đi trụ chống đỡ lẫn cây trượng khỏi Giê-ru-sa-lem và Giu-đa, tức toàn bộ nguồn cung cấp bánh, mọi nguồn cung cấp nước,2trang anh hùng, người chiến binh, quan xử án, nhà tiên tri, kẻ giải điềm, trưởng lão;3quan cai đội, thân hào, mưu sĩ, nghệ nhân, thuật sĩ.4“Ta sẽ cắt đặt các thanh niên lãnh đạo họ, và giới trẻ sẽ cai trị họ.
5Dân chúng bị áp bức, người này áp bức người kia, láng giềng áp bức lẫn nhau; trẻ con sẽ lên mặt xem thường người cao tuổi, kẻ chẳng ra gì sẽ thách thức người đáng kính. 6Người ta thậm chí nắm lấy người anh em trong nhà cha mình và nói: ‘Người còn áo choàng; hãy cai quản chúng tôi, và giải quyết tình trạng tồi tệ này.’
7Trong ngày đó, người kia sẽ lớn tiếng bảo: ‘Tôi không cứu chữa được đâu; tôi chẳng còn bánh hoặc quần áo gì cả. Các ngươi đừng chọn tôi lãnh đạo dân chúng.' 8Vì Giê-ru-sa-lem bị tan hoang, Giu-đa đã sụp đổ, vì lời nói lẫn việc làm của chúng chống nghịch lại Giê-hô-va, xem thường thẩm quyền rất lớn của Ngài.
9Vẻ mặt của chúng làm chứng chống lại chúng; chúng nói về tội lỗi mình chẳng khác nào Sô-đôm, chẳng cần giấu giếm. Bất hạnh thay cho chúng! Vì chúng đã tự chuốc lấy thảm họa cho mình. 10Hãy nói cho người công chính biết họ sẽ bình an vô sự; vì người sẽ ăn trái của việc mình làm.
11Bất hạnh thay cho kẻ ác! Hắn sẽ không được hanh thông, vì hắn sẽ nhận lấy những gì tay hắn đã gây ra.
12Ôi dân Ta — trẻ con áp chế chúng, phụ nữ cai trị chúng. Hỡi dân Ta, giới lãnh đạo dẫn dắt các người đi lạc lối, khiến các người bị lầm đường. 13Giê-hô-va trỗi dậy để xét xử; Ngài chờ dậy để xét đoán dân Ngài.
14Giê-hô-va sẽ tuyên phạt giới trưởng lão và các quan chức trong dân Ngài: “Các ngươi đã ăn sạch vườn nho; đồ cưỡng chiếm của dân nghèo ở trong nhà các ngươi.
15Sao các ngươi chèn ép dân Ta và áp bức người nghèo khó?” Đó là tuyên bố của Chúa, là Giê-hô-va của các đạo binh. 16Giê-hô-va phán các con gái Si-ôn kiêu kỳ, bước đi đầu ngẫng cao, liếc mắt đưa tình, dáng đi ỏng ẹo, chân khua lẻng kẻng.17Vậy nên Chúa sẽ khiến đầu của con gái Si-ôn đóng vảy bệnh, và Giê-hô-va sẽ khiến chúng bị hói. 18Trong ngày đó, Chúa sẽ lột hết nữ trang đẹp đẽ trên mắt cá chúng nó, cùng với đồ cài tóc, các món trang sức hình lưỡi liềm,19bông tai, vòng đeo tay, khăn voan; khăn20trùm đầu, chuyền mắt cá, thắt lưng, hộp hương, và bùa may mắn.21Ngài sẽ lột mất nhẫn và đá quý đeo mũi;22áo hội hè, áo khoác, mạng che mặt, túi xách;23gương soi, đồ bằng vải lanh mỏng, vật đội đầu.24Sẽ có mùi hôi thay vì hương thơm; dây thừng thay vì nịt lưng; hói đầu thay vì tóc kiểu; vải thô quấn mình thay vì áo choàng; dấu sắt nung thay vì vẻ đẹp.
25Giới nam nhi các ngươi sẽ ngã chết vì gươm, những kẻ trai tráng các ngươi sẽ tử trận.
26Các cổng Giê-ru-sa-lem sẽ than vãn, khóc thương; nó sẽ ngồi trơ trọi một mình dưới đất. 41Trong ngày đó bảy phụ nữ sẽ nắm lấy một người đàn ông và bảo: “Bọn em sẽ tự lo bánh ăn, tự sắm đồ mặc, chỉ cần cho chúng em mang danh của anh để khỏi bị xấu hổ.”2Trong ngày đó, nhánh của Giê-hô-va sẽ đẹp đẽ và rực rỡ, trái cây trong xứ thì ngon ngọt và thú vị đối với những kẻ sống sót tại Y-sơ-ra-ên.3Khi đó, ai còn sót lại tại Si-ôn, ai còn ở lại Giê-ru-sa-lem, sẽ được gọi là thánh, tức mọi kẻ được ghi nhận đang sống tại Giê-ru-sa-lem,4khi Chúa đã rửa sạch sự ô uế của các con gái Si-ôn, và thanh tẩy các vết máu khỏi giữa vòng Giê-ru-sa-lem, bởi thần linh công bình, bởi thần linh thiêu đốt.5Rồi Giê-hô-va sẽ phủ lên toàn vùng núi Si-ôn cùng chỗ nhóm hội của nó mây với khói vào ban ngày, ngọn lửa soi sáng vào ban đêm; một cái vòm che phủ mọi vinh quang.6Nó sẽ là chỗ trú nóng làm bóng che ban ngày, nơi ẩn náu được bảo vệ khỏi bão táp, mưa sa. 51Hãy để ta hát tặng người rất yêu dấu ta, một bài ca của bạn yêu dấu ta về vườn nho người. Bạn rất yêu dấu của ta có một vườn nho trên một ngọn đồi mầu mỡ.2Người đào xới, dọn sạch sỏi đá, rồi trồng lên đó giống nho thượng hảo hạng. Người xây một cái tháp ngay chính giữa vườn, và cũng xây một bàn ép rượu. Người trông đợi nó sẽ sinh ra trái nho tốt, nhưng nó lại sinh trái nho dại. 3Thế thì giờ đây, hỡi dân cư Giê-ru-sa-lem và người Giu-đa, hãy phân xử giữa Ta và vườn nho Ta.
4Còn điều gì có thể làm được cho vườn nho Ta mà Ta chưa làm cho nó chăng? Vì sao khi Ta trông mong nó sinh trái nho ngon thì nó lại sinh trái nho dại? 5Bây giờ Ta sẽ cho các ngươi biết việc Ta sẽ làm cho vườn nho mình; Ta sẽ bứng hàng rào đi; Ta sẽ biến nó thành đồng cỏ; Ta sẽ phá sập tường nó, và nó sẽ bị người ta giẫm đạp lên.
6Ta sẽ bỏ hoang nó, và nó sẽ không được cắt tỉa, cuốc xới. Rồi tầm xuân và gai gốc sẽ mọc lên; Ta cũng sẽ ban lệnh cho mây đừng đổ mưa xuống trên nó. 7Vì vườn nho của Giê-hô-va chính là nhà Y-sơ-ra-ên, và người của Giu-đa là cây mà Ngài ưa thích; Ngài trông đợi sự công bình nhưng thay vào đó lại có giết chóc; Ngài trông đợi sự công chính, nhưng thay vào đó là tiếng kêu cứu. 8Bất hạnh thay cho kẻ thêm nhà vào nhà, thêm ruộng vào ruộng, cho đến khi chẳng còn chỗ, và chỉ còn lại mình ở trong xứ! 9Giê-hô-va của các đạo binh đã cho ta biết là nhiều ngôi nhà sẽ trống trơn chẳng có ai ở, kể cả những ngôi nhà to lớn, nguy nga.10Vì mười mẫu vườn nho sẽ chỉ sinh được một vại, và một ô-me hạt giống chỉ sinh được một ê-pha. 11Bất hạnh thay cho những kẻ thức dậy lúc sáng sớm để tìm đến thức uống say, nấn ná đến tối cho đến khi rượu đốt cháy mình!
12Chúng tiệc tùng với đàn hạt, đàn luýt, trống lắc, sáo và rượu, nhưng lại không nhận biết công việc của Giê-hô-va, chẳng suy xét các việc tay Ngài làm. 13Cho nên dân ta đã bị lưu đày vì thiếu trí hiểu; giới lãnh đạo chúng nó phải nhịn đói, còn dân chúng thì chịu khát.
14Vì vậy sự chết càng thèm khát hơn và đã há miệng thật lớn; thành phần ưu tú, dân chúng, giới lãnh đạo, các tay ăn chơi và những kẻ sung sướng giữa vòng họ đều xuống âm phủ. 15Người ta bị hạ bệ, kẻ quyền thế bị hạ xuống, mắt cao kỳ bị đánh hạ.
16Giê-hô-va của các đạo binh được tôn lên trong sự công bình Ngài, và Đức Chúa Trời là Đấng Thánh cho thấy Ngài là thánh bởi sự công chính của Ngài.
17Rồi chiên sẽ ăn như ăn trong đồng cỏ mình, chiên con sẽ gặm cỏ trong chốn hoang tàn của kẻ giàu. 18Bất hạnh thay cho kẻ dùng dây kiêu căng kéo theo việc sai trái mình, dùng dây kéo xe kéo theo tội lỗi mình;
19là kẻ nói: “Đức Chúa Trời hãy mau đi, Chúa hãy sớm hành động đi, để chúng tôi thấy việc xảy ra; nguyện các chương trình của Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên thành hình và được thực hiện để chúng tôi biết chúng ra sao!”20Bất hạnh thay cho kẻ gọi dữ là lành, lành là dữ; xem tối là sáng, sáng là tối; xem đắng là ngọt, ngọt là đắng!
21Bất hạnh thay cho kẻ khôn ngoan theo mắt mình, kẻ khôn khéo theo sự hiểu biết riêng của mình! 22Bất hạnh thay cho kẻ giỏi uống rượu, có tài pha thức uống say;
23nhận tiền để miễn tội cho kẻ ác, và tước đoạt quyền của người vô tội!24Vì vậy, như ngọn lửa thiêu nuốt gốc rạ, như cỏ khô cháy rụi trong lửa thì cũng vậy, rễ chúng sẽ mục rữa, và hy vọng của chúng cũng bay đi như tro bụi, vì chúng đã khước từ luật pháp của Giê-hô-va của các đạo binh và khinh dễ lời Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên. 25Vậy nên cơn giận của Giê-hô-va nổi lên cùng dân Ngài, và Ngài đã đưa tay ra nghịch lại họ, trừng phạt họ; các núi run rẩy và các thây họ khác nào rác rưởi trên đường phố. Dầu vậy, cơn giận của Ngài vẫn không nguôi đi, Ngài vẫn giáng tay lên để đánh họ nữa. 26Ngài sẽ giương lên một cờ hiệu cho một dân ở xa và sẽ huýt sáo gọi chúng từ tận cùng trái đất. Kìa, chúng sẽ vội đến ngay tức thì. 27Giữa vòng chúng không ai mệt mỏi, vấp ngã; chẳng ai chợp mắt, ngủ nghỉ; chẳng có ai nới thắt lưng hoặc bị đứt quai dép;
28các mũi tên chúng đều nhọn, tất cả cung đều giương sẵn; móng ngựa chúng giống đá lửa, bánh xe thì như bão tố.29Tiếng rống của chúng giống sư tử, chúng sẽ gầm thét như sư tử tơ. Chúng sẽ gầm rống và vồ lấy mối rồi lôi đi mà chẳng ai giải cứu được.
30Trong ngày đó chúng sẽ gầm lên trước con mồi của mình như biển cuồng nộ. Nếu người nào đảo mắt nhìn qua xứ này, họ sẽ thấy tối tăm và hoạn nạn, vì ánh sáng đã bị mây che tối. 61Vào năm vua Ô-xia qua đời, tôi thấy Chúa ngồi trên ngôi; Ngài cao cả và oai nghi, vạt áo Ngài đầy khắp đền thờ.2Bên trên Ngài là các sê-ra-phin; mỗi đấng có sáu cánh; hai cánh che mặt, hai cánh che chân, hai cánh để bay.3Các sê-ra-phin nói lớn với nhau: “Thánh thay, thánh thay, thánh thay Giê-hô-va của các đạo binh! Cả trái đất đầy vinh quang Ngài.”4Các cửa cùng ngạch cửa đều rúng động vì những tiếng kêu lớn đó, còn ngôi đền thì đầy khói.5Lúc đó, tôi nói: “Bất hạnh cho tôi! Tôi tận số rồi vì tôi là người có môi uế tục, tôi sống giữa một dân có môi uế tục, vì mắt tôi đã thấy Vua, là Giê-hô-va, tức Giê-hô-va của các đạo binh!”6Khi ấy, một sê-ra-phin bay đến chỗ tôi; tay người cầm than lửa đỏ mà người đã dùng cái gắp lấy từ bàn thờ.7Người để than chạm vào miệng tôi và nói: “Này, than này đã chạm vào môi anh; lỗi anh đã được cất đi, tội anh đã được chuộc.”8Tôi nghe tiếng của Chúa phán: “Ta sẽ sai phái ai đây; ai sẽ đi cho chúng ta?” Tôi thưa: “Con đây; xin Chúa sai con.”9Ngài bảo: “Hãy đi nói với dân này rằng hãy nghe nhưng đừng hiểu; hãy thấy, nhưng đừng nhận biết.10Hãy khiến lòng của dân này nên chai đá, khiến tai chúng bị điếc, mắt chúng bị mù, kẻo mắt chúng thấy được, tai chúng nghe được, lòng chúng hiểu được, và chúng sẽ trở về để được chữa lành.” 11Tôi thưa: “Trong bao lâu nữa, thưa Chúa?” Chúa đáp: “Cho đến khi các thành điêu tàn, không còn dân cư, nhà không còn người ở, và đất trở nên hoang vu,12cho đến khi Giê-hô-va đã đưa dân chúng đi xa và tình trạng hiu quạnh của xứ lan rộng.13Thậm chí nếu chỉ một phần mười số dân còn lại trong xứ thì họ cũng sẽ lại bị tiêu diệt; như cây dẻ, cây sồi bị đốn mà vẫn còn lại thân, thì hạt giống thánh cũng ở trong gốc nó.” 71Vào thời của A-cha, con trai Giô-tham, cháu Ô-xia, vua nước Giu-đa, Rê-xin, vua xứ A-ram, và Phê-ca, con trai Rê-ma-lia, vua Y-sơ-ra-ên, kéo lên Giê-ru-sa-lem gây chiến, nhưng không thắng được.2Có tin báo cho nhà Đa-vít rằng A-ram liên minh với Ép-ra-im. A-cha lẫn dân chúng đều kinh hãi trong lòng, như cây trong rừng bị gió lay động.3Lúc đó, Giê-hô-va bảo Ê-sai: “Hãy cùng con trai ngươi là Sê-a Gia-súp đi gặp A-cha tại cuối kênh dẫn nước của hồ thượng, trên đường đến cánh đồng thợ giặt.4Hãy bảo người: ‘Hãy cẩn thận, cứ bình tĩnh, đừng sợ hãi hay kinh khiếp vì hai khúc gỗ đang âm ỉ này, tức cơn thạnh nộ của Rê-xin và A-ram, cũng như của Phê-ca, con trai Rê-ma-lia.5A-ram, Ép-ra-im và con trai của Rê-ma-lia đã lập mưu ác đối với ngươi; chúng bảo:6“Chúng ta hãy tiến đánh Giu-đa và khiến chúng khiếp đảm, rồi chúng ta sẽ vào đó và lập người của chúng ta làm vua, tức con trai của Ta-bê-ên.”7Chúa Giê-hô-va phán: “Sẽ không có chuyện đó. Việc ấy sẽ không xảy ra,8vì đầu của A-ram là Đa-mách, đầu của Đa-mách là Rê-xin. Trong sáu mươi năm nữa, Ép-ra-im sẽ tan tành và không còn là một dân nữa.9Đầu của Ép-ra-im là Sa-ma-ri, đầu của Sa-ma-ri là con trai Rê-ma-lia. Nếu các ngươi không kiên định trong đức tin thì các ngươi hẵn sẽ không đứng vững được.” 10Chúa lại phán với A-cha:11“Hãy xin Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi ban cho một dấu hiệu; hãy cầu xin dấu đó ở dưới vực sâu hoặc trên trời cao.”12Nhưng A-cha- nói: “Ta sẽ không xin, cũng chẳng thử Giê-hô-va.”13Vì vậy, Ê-sai đáp: “Hỡi nhà Đa-vít, hãy nghe đây. Các ngươi thử lòng kiên nhẫn của dân chúng vẫn chưa đủ sao mà nay lại cũng thử lòng kiên nhẫn của Đức Chúa Trời ta nữa?14Vậy nên chính Chúa sẽ ban cho các ngươi một dấu hiệu: này, một thiếu nữ sẽ thụ thai, sinh một con trai, và sẽ đặt tên cho nó là Em-ma-nu-ên.15Nó sẽ ăn sữa đông và mật khi biết từ chối điều dữ và chọn điều lành.16Vì trước khi đứa trẻ biết từ chối điều dữ và chọn điều lành thì xứ của hai vua mà các người sợ đó sẽ bị tan hoang.17Giê-hô-va sẽ khiến xảy đến trên các người, trên dân chúng các ngươi, và trên nhà cha các ngươi những ngày như chưa từng có kể từ khi Ép-ra-im ly khai khỏi Giu-đa — Ngài sẽ đưa vua A-si-ri đến.18Lúc đó, Giê-hô-va sẽ huýt gọi con ruồi từ các dòng suối xa xăm của Ai Cập, và gọi con ong từ xứ A-si-ri.19Tất cả chúng sẽ đến đậu trong mọi hẽm núi, trong mọi kẽ đá, trên mọi bui gai cùng mọi đồng cỏ.20Khi ấy, Chúa sẽ dùng lưỡi dao cạo thuê mướn bên kia sông Ơ-phơ-rát — tức vua A-si-ri — Ngài sẽ cạo đầu các ngươi, lông chân các ngươi; Ngài cũng sẽ cạo sạch râu các ngươi.21Vào ngày đó, mỗi người sẽ nuôi một bò cái tơ và hai con cừu,22và nhờ lượng sữa dồi dào do chúng cung cấp, nên họ sẽ ăn sữa đông, vì mọi người còn lại trong xứ sẽ ăn sữa đông và mật ong.23Lúc đó, những nơi có cả ngàn gốc nho đáng giá một ngàn siếc-lơ bạc sẽ chẳng còn gì ngoài tầm xuân và gai gốc.24Người ta sẽ đến đó dùng cung mà săn bắn, vì toàn xứ chỉ có tầm xuân và gai gốc.25Người ta sẽ tránh xa mọi ngọn đồi lúc trước đã được cuốc xới, vì sợ tầm xuân và gai gốc; mà đó sẽ là nơi bò, cừu gặm cỏ. 81Giê-hô-va phán với tôi “Hãy lấy một tấm bảng rồi viết lên đó tên ‘Ma-he Sa-la Hát Bát.’2Ta sẽ triệu tập các nhân chứng đáng tin cậy để chứng thực cho Ta, đó là U-ri, thầy tế lễ, và Xa-cha-ri, con trai Giê-bê-rê-kia.”3Tôi đi đến nhà nữ tiên tri; người thụ thai và sinh một bé trai. Rồi Giê-hô-va phán với tôi “Hãy đặt tên nó là ‘Ma-he Sa-la Hát Bát.’4Vì trước khi đứa bé biết kêu ‘Cha ơi’ và ‘Mẹ ơi,’ thì của cải của Đa-mách và chiến lợi phẩm của Sa-ma-ri sẽ bị vua A-si-ri đem đi hết.”5Giê-hô-va lại phán với tôi:6“Vì dân này đã khước từ dòng nước êm đềm của Si-lô-ê, mà lại vui sướng về Rê-xin và con trai Rê-ma-lia,7nên Chúa sẽ dẫn nước sông lớn đến trên chúng, mạnh mẽ, cuồn cuộn, tức vua của A-si-ri cùng mọi vinh quang người. Nước sẽ dâng cao khắp mọi kênh rạch nó và tràn lên bờ sông,8rồi tràn đến Giu-đa, khiến ngập lụt và tiếp tục cho đến khi dâng đến cổ các ngươi. Này, Em-ma-nu-ên, các cánh dang rộng của nó sẽ phủ kín toàn xứ ngươi.”9Các dân sẽ bị đập tan. Hãy nghe đây, hỡi các ngươi là những xứ ở xa: hãy tự trang bị cho chiến tranh và bị đập nát; hãy tự vũ trang và bị đập nát vụn.
10Hãy cứ lên kế hoạch nhưng sẽ chẳng thực hiện được; hãy ban lệnh để rồi lệnh sẽ chẳng được thi hành, vì Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta. 11Đặt bàn tay mạnh sức của Ngài lên tôi, Giê-hô-va phán với tôi và cảnh báo tôi không được bước đi trong đường lối của dân này.12Điều gì mà dân này gọi là âm mưu thì các ngươi đừng gọi đó là âm mưu; các ngươi không cần sợ điều chúng nó sợ, và cũng đừng kinh hãi.
13Giê-hô-va của các đạo binh thì các ngươi phải tôn thánh, các ngươi phải kính sợ Ngài, và Ngài là Đấng các ngươi phải kinh khiếp. 14Ngài sẽ trở nên nơi thánh; nhưng Ngài sẽ là hòn đá đập chúng, một tảng đá khiến chúng té ngã — đối với cả hai nhà Y-sơ-ra-ên. Ngài sẽ là cái bẫy và cái lưới cho dân thành Giê-ru-sa-lem.
15Nhiều kẻ sẽ vấp lên đó mà té ngã và nát thây, bị sập bẫy và bị bắt. 16Hãy buộc chặt lời chứng của tôi, hãy niêm phong bản ghi chép chính thức rồi trao nó lại cho các môn đệ tôi.
17Tôi sẽ chờ đợi Giê-hô-va, Đấng ẩn mặt khỏi nhà Gia-cốp; tôi sẽ trông đợi Ngài.
18Này, tôi cùng các con trai mà Đức Chúa Trời đã ban cho tôi — chúng tôi là dấu hiệu và điềm lạ trong Y-sơ-ra-ên bởi Giê-hô-va của các đạo binh, Đấng ngự trên núi Si-ôn. 19Người ta sẽ nói với các ngươi: “Hãy hỏi ý ông đồng, bà cốt và các pháp sư,” tức những kẻ cứ lẩm nhẩm, thì thầm các câu thần chú. Nhưng một dân tộc lại không nên hỏi ý Đức Chúa Trời của mình sao? Họ phải thay mặt người sống mà cầu hỏi kẻ chết sao?20Cho nên các ngươi phải lưu ý luật pháp và lời chứng! Nếu chúng không nói những lời như vậy thì đó là vì chúng không có ánh sáng ban mai.21Chúng sẽ đi qua xứ này, thật khốn khổ, đói khát. Khi chúng đói, chúng sẽ nổi thạnh nộ và rủa vua mình cùng Đức Chúa Trời của mình, vì chúng ngửa mặt lên trời.22Chúng sẽ nhìn đất và thấy hoạn nạn, bóng tối, và tình trạng ảm đạm ngột ngạt. Chúng sẽ bị đuổi vào một xứ tối tăm. 91Đối với kẻ đã chịu đau đớn thì sẽ được xua tan ảm đạm. Trước đó Ngài đã làm bẻ mặt vùng Sa-bu-lôn và vùng Nép-ta-li, nhưng về sau này Ngài sẽ khiến rạng rỡ con đường đi ra biển, bên kia sông Giô-đanh, tức vùng Ga-li-lê của các dân.2Những kẻ đi trong bóng tối đã thấy ánh sáng huy hoàng; những kẻ đã sống trong xứ thuộc bóng sự chết thì ánh sáng đã chiếu rọi trên họ. 3Chúa đã khiến dân tộc đông lên gấp bội, Chúa đã tăng thêm niềm hân hoan của họ; họ vui mừng trước mặt Chúa như vui mừng lúc gặt hái, như người ta vui mừng khi chia nhau chiến lợi phẩm. 4Vì cái ách gánh nặng của nó, cây đòn gán trên đôi vai nó, cây roi của kẻ áp bức nó, thì Chúa đã đập nát như trong ngày Ma-đi-an.
5Vì mọi chiếc giày đã giẫm đạp trong lúc hỗn độn cùng quần áo đã vấy máu sẽ bị đốt cháy, làm mồi cho lửa. 6Vì một con trẻ đã sinh ra cho chúng ta, một con trai được ban cho chúng ta; quyền cai trị sẽ ở trên vai người; danh người sẽ được gọi là Mưu Sĩ Kỳ Diệu, Đức Chúa Trời Quyền Năng, Cha Đời Đời, Hoàng Tử Bình An.
7Quyền cai trị và sự bình an của Ngài sẽ gia tăng không dứt, khi Ngài ngồi trên ngôi Đa-vít cai trị nước, dùng sự công bình, chính trực khiến nước vững chắc, dài lâu từ nay cho đến đời đời. Lòng nhiệt thành của Giê-hô-va của các đạo binh sẽ làm việc đó. 8Chúa đã truyền phán một lời kết án Gia-cốp, và nó giáng xuống Y-sơ-ra-ên.
9Mọi người sẽ biết, kể cả Ép-ra-im và dân cư Sa-ma-ri, là kẻ kiêu hãnh nói với tấm lòng ngạo mạn, rằng:
10“Gạch đã đổ, nhưng chúng ta sẽ xây lại bằng đá đẽo; cây sung đã bị đốn, nhưng chúng ta sẽ dùng bá hương thay vào đó.”11Vậy nên Giê-hô-va sẽ đưa Rê-xin, kẻ địch của nó lên, và khích động các kẻ thù nghịch nó,
12tức dân A-ram ở phía đông, và dân Phi-li-tin ở phía tây. Chúng sẽ há hoắc miệng ngoạm lấy Y-sơ-ra-ên. Vì đang lúc thạnh nộ Giê-hô-va sẽ không dừng lại, mà tay Ngài sẽ vẫn giáng đánh.13Thế nhưng dân chúng vẫn không quay lại với Đấng đã đánh mình, cũng chẳng tìm kiếm Giê-hô-va của các đạo binh.
14Vì vậy, Giê-hô-va trong một ngày sẽ chặt đứt khỏi Y-sơ-ra-ên cả đầu và đuôi, cả cành cọ lẫn cây sậy.
15Đầu là giới lãnh đạo cùng giới quyền quý; đuôi là bọn tiên tri dạy điều dối trá. 16Những kẻ lãnh đạo dân này khiến họ lầm lạc, còn người dân được lãnh đạo thì bị nuốt chửng.
17Vậy nên Chúa sẽ chẳng vui về giới trai trẻ họ, Ngài cũng chẳng thương xót kẻ côi cút và các góa phụ, vì ai cũng vô đạo và làm dữ, miệng nào cũng nói toàn lời xuẩn ngốc. Do mọi điều đó nên cơn thạnh nộ Ngài không nguôi đi, mà tay Ngài vẫn sẽ giáng đánh. 18Sự gian ác đốt cháy như lửa; nó thiêu nuốt tầm xuân và gai gốc; nó thậm chí thiêu cháy bụi rậm trong rừng, khiến bốc lên thành trụ khói.
19Vì cơn thạnh nộ trào dâng của Giê-hô-va của các đạo binh mà xứ bị thiêu đốt, còn dân chúng thì giống như củi dành cho lửa. Chẳng ai dung thứ anh em mình. 20Chúng sẽ lóc lấy thịt từ bàn tay phải mình những vẫn cứ đói; chúng sẽ ăn thịt trên bàn tay trái mình những vẫn chẳng no. Mỗi người thậm chí ăn thịt cánh tay mình.
21Ma-na-se ăn nuốt Ép-ra-im, Ép-ra-im ăn nuốt Ma-na-se; chúng cùng nhau tiến đánh Giu-đa. Vì mọi điều này nên cơn thạnh nộ của Giê-hô-va sẽ không nguôi đi, mà tay Ngài vẫn sẽ giáng đánh. 101Bất hạnh thay cho kẻ ban hành các phép tắc bất công, đưa ra những sắc luật không hợp lẽ.2Chúng tước mất công lý của người thiếu thốn, cướp đi quyền của kẻ nghèo trong dân Ta, cưỡng chiếm đồ đạc của các góa phụ, và biến kẻ mồ côi thành miếng mồi của mình! 3Các ngươi sẽ làm gì vào ngày phán xét khi sự hủy diệt từ xa ập đến? Các ngươi sẽ chạy đến với ai để cầu cứu, và sẽ để của cải mình ở đâu?
4Chẳng còn lại gì, khi các ngươi luồn cúi giữa các tù nhân hoặc ngã xuống giữa vòng những kẻ bị giết. Vì mọi điều này nên cơn thạnh nộ của Giê-hô-va không nguôi đi, mà tay Ngài vẫn giáng đánh. 5Bất hạnh thay cho dân A-si-ri, là gậy tày của cơn thạnh nộ Ta, là cây roi Ta dùng để thể hiện cơn giận của mình!
6Ta sai nó tiến đánh một đất nước ngạo mạn, một dân tộc đang chịu cơn giận trào sôi của Ta. Ta ra lệnh cho nó chiếm đoạt chiến lợi phẩm, bắt đi các nạn nhân, và giẫm đạp lên chúng như bùn ngoài đường phố. 7Nhưng đó không phải là ý định nó, cũng chẳng phải là lối suy nghĩ của nó. Ý định trong lòng nó là tiêu diệt và loại bỏ nhiều dân tộc.
8Vì nó nói: “Chẳng phải mọi quan tướng của ta đều là vua cả sao?
9Chẳng phải Ca-nô cũng giống như Cạt-kê-mít, Ha-mát cũng giống như Ạt-bát, Sa-ma-ri cũng giống như Đa-mách, sao? 10Vì tay ta đã thắng hơn các nước thờ hình tượng với những tượng chạm khắc còn lớn hơn các tượng thần ở Giê-ru-sa-lem và Sa-ma-ri,
11cho nên, ta lại chẳng làm cho Giê-ru-sa-lem và các tượng thần nó như đã làm cho Sa-ma-ri cùng các hình tượng vô tích sự ở đó sao?12Khi Chúa đã làm thành công việc Ngài đối với núi Si-ôn và Giê-ru-sa-lem, Ngài sẽ phán: “Ta sẽ phạt lời nói từ lòng ngạo mạn của vua A-si-ri cùng những ánh mắt cao ngạo của nó.”13Vì nó nói: “Ta đã hành động bởi sức mạnh và bởi sự khôn ngoan của mình. Ta có hiểu biết, và ta đã di dời ranh giới giữa các dân. Ta đã lấy đi các kho báu của chúng và, như một kẻ mạnh sức, ta đã phế bỏ những kẻ đang ngự trị trên ngai. 14Tay ta đã đoạt lấy của cải của các dân như bắt tổ chim, ta đã thâu tóm toàn cõi đất như người đi lượm trứng bị bỏ rơi. Chẳng có chim nào đập cánh, hay mở mỏ kêu la.” 15Cái rìu lại đi khoe khoang về mình trước kẻ múa rìu sao? Cái cưa lại tự tâng bốc mình lên cao hơn kẻ dùng cưa sao? Làm thế khác nào cây roi nâng được kẻ giơ nó lên, hoặc gậy tày đỡ được người ta lên vậy.
16Vậy nên Chúa Giê-hô-va của các đạo binh sẽ khiến các chiến binh tinh nhuệ nó bị gầy mòn và dưới vinh quang nó sẽ nhóm lên một đám cháy giống như lửa. 17Ánh sáng của Y-sơ-ra-ên sẽ trở nên đám cháy, và Đấng Thánh của nó sẽ thành ngọn lửa; lửa đó sẽ đốt cháy và thiêu hủy các gai gốc cùng các bụi tầm xuân nó.
18Giê-hô-va sẽ thiêu đốt vinh quang của rừng cây nó và đất đai phì nhiêu của nó, cả linh hồn lẫn thể xác nó sẽ giống như khi cuộc đời của người đau yếu bị mai một đi.
19Số cây trong rừng của nó sẽ còn lại rất ít, đến nỗi một đứa trẻ cũng đếm được. 20Trong ngày đó, dân sót lại của Y-sơ-ra-ên, là gia đình Gia-cốp đã thoát nạn, sẽ không còn lệ thuộc vào kẻ đã đánh bại mình, mà sẽ nhờ vào Giê-hô-va, Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên.
21Một phần sót lại của Gia-cốp sẽ trở về với Đức Chúa Trời quyền năng. 22Vì cho dù số dân các ngươi đông như cát trên bờ biển, thì cũng chỉ một phần sót lại sẽ trở về. Sự hủy diệt đã được định, theo như sự công chính dư dật đòi hỏi.
23Vì Chúa Giê-hô-va của các đạo binh sắp thi hành sự hủy diệt đã định trên khắp xứ. 24Vì vậy, Chúa Giê-hô-va của các đạo binh phán: “Hỡi dân Ta đang sống tại Si-ôn, chớ sợ người A-si-ri. Chúng sẽ dùng roi đánh các ngươi và giáng gậy nghịch cùng các ngươi, như người Ai Cập đã làm.25Đừng sợ nó, vì chỉ sau một thời gian ngắn cơn giận của Ta đối với các ngươi sẽ chấm dứt, và cơn thạnh nộ của Ta sẽ khiến nó bị hủy diệt.” 26Rồi Giê-hô-va của các đạo binh sẽ cầm roi đánh chúng nó, như khi Ngài đánh bại dân Ma-đi-an tại vầng đá Ô-rép. Ngài sẽ giáng roi trên biển và giơ nó lên như Ngài đã làm tại Ai Cập.
27Trong ngày đó, gánh nặng của Ngài được đỡ khỏi vai ngươi, ách Ngài gỡ xuống khỏi cổ ngươi, và ách đó sẽ bị hủy diệt, vì cổ các ngươi sẽ to béo quá đối với nó. 28Kẻ thù đã đến A-giát và đã đi qua Mi-gơ-rôn; nó tàng trữ đồ tiếp tế tại Mích-ma.
29Chúng nó đã vượt qua đèo và đóng tại Ghê-ba. Ra-ma run sợ, còn Ghi-bê-a của Sau-lơ đã trốn chạy. 30Hãy la lớn lên, hỡi con gái Ga-lim! Hãy lưu ý, hỡi La-ít! A-na-tốt các ngươi thật tội nghiệp!
31Mát-mê-na đang chạy trốn, dân cư Ghê-bim cũng chạy tìm chỗ an toàn.
32Chính ngày này nó sẽ dừng quân tại Nóp và đưa nắm đấm dọa dẫm núi của con gái Si-ôn, tức đồi Giê-ru-sa-lem. 33Kìa, Giê-hô-va của các đạo binh sẽ dùng cú giáng kinh hãi chặt đứt các cành cây; các cây cao lớn nhất sẽ bị đốn hạ, những kẻ kiêu kỳ sẽ bị hạ xuống.
34Ngài sẽ dùng rìu chặt cây cối rậm rạp trong rừng, và Li-ban trong sự oai nghi của nó sẽ sụp đổ. 111Sẽ có một cái chồi mọc lên từ gốc Y-sai, và một nhánh từ gốc rễ ấy sẽ sinh trái.2Thần Linh của Giê-hô-va sẽ ngự trên người, là linh khôn ngoan và am hiểu, linh dạy dỗ và sức mạnh, linh hiểu biết và kính sợ Giê-hô-va. 3Kính sợ Chúa là niềm vui thích của người; người sẽ không đánh giá theo điều mắt mình thấy, cũng không phân định theo điều tai mình nghe.
4Thay vào đó, người sẽ lấy sự công chính phán xét kẻ nghèo và đoán định cách công bằng cho kẻ khiêm nhường trên đất. Ngài sẽ đánh trái đất bằng cây roi nơi miệng Ngài, và dùng hơi thở của môi Ngài mà giết chết kẻ ác.
5Sự công chính sẽ làm nịt lưng Ngài, sự thành tín sẽ làm đai ràng hông Ngài. 6Muông sói sẽ sống cùng chiên con, báo đốm sẽ nằm với dê con, còn bò con, sư tử tơ và bê được vỗ béo sẽ ở cùng nhau. Một đứa bé sẽ dắt chúng.
7Bò và gấu sẽ cùng gặm cỏ, và các con chúng sẽ nằm chung với nhau. Sư tử sẽ ăn cỏ khô như bò. 8Trẻ con đang bú sẽ chơi bên hang rắn, trẻ vừa dứt sữa sẽ đặt tay lên ổ rắn độc.
9Chúng sẽ không làm hại hay giết chết ai trên toàn núi thánh Ta; vì đất sẽ tràn đầy sự hiểu biết Giê-hô-va, như nước tràn ngập biển. 10Trong ngày đó, gốc Y-sai sẽ đứng vững làm ngọn cờ cho các dân. Các nước sẽ tìm kiếm người, và nơi an nghỉ người sẽ vẻ vang.11Trong ngày đó, Chúa sẽ lại đưa tay ra phục hồi lại phần sót lại của dân Ngài vẫn còn ở tại A-si-ri, Ai Cập, Pha-trô, Cút, Ê-lam, Si-nê-a, Ha-mát, cùng các hải đảo. 12Ngài sẽ dựng lên một ngọn cờ cho các dân và sẽ nhóm lại từ bốn góc đất những kẻ bị xua đuổi của Y-sơ-ra-ên cũng như những kẻ lưu lạc của Giu-đa.
13Ngài sẽ chấm dứt lòng ganh tị của Ép-ra-im, và những kẻ ác cảm với Giu-đa sẽ bị diệt khỏi đất. Ép-ra-im sẽ không ganh tị Giu-đa, Giu-đa sẽ không còn thù địch với Ép-ra-im. 14Thay vì vậy, chúng sẽ đột kích vào các đồi của Phi-li-tin ở phía tây, cùng cướp bóc dân ở phía đông. Chúng sẽ tấn kích Ê-đôm và Mô-áp, và dân Am-môn sẽ tuân phục chúng.
15Giê-hô-va sẽ hoàn toàn hủy diệt vịnh của biển Ai Cập. Với ngọn gió nóng, Ngài sẽ vung tay trên sông Ơ-phơ-rát và chia nó thành bảy con suối, khiến người ta có thể đi dép mà băng qua. 16Sẽ có một con đường lớn cho dân sót lại của Ngài từ A-si-ri trở về, như đã có đối với Y-sơ-ra-ên khi họ từ đất Ai Cập lên. 121Trong ngày đó, các ngươi sẽ nói: “Giê-hô-va ôi, con sẽ cảm tạ Ngài. Vì dầu Ngài nổi giận với con, nhưng cơn giận Ngài đã xây khỏi, và Ngài đã yên ủi con.2Này, Đức Chúa Trời là sự cứu rỗi của con; con sẽ tin cậy và không sợ hãi vì Giê-hô-va, phải, chính Giê-hô-va là sức lực và bài ca của con. Ngài đã trở nên sự cứu rỗi con.” 3Các ngươi sẽ vui mừng kéo nước từ giếng cứu rỗi. 4Vào ngày đó, các ngươi sẽ bảo: “Hãy cảm tạ Giê-hô-va và kêu cầu danh Ngài; hãy rao công việc Ngài ra giữa các dân, công bố rằng danh Ngài được tôn cao.5Hãy hát ca ngợi Giê-hô-va, vì Ngài đã thực hiện những kỳ công; nguyện điều này được biết đến trên khắp đất.
6Hỡi dân cư Giê-ru-sa-lem, hãy kêu lên và lớn tiếng vui mừng, vì Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên ở giữa các ngươi thật vĩ đại.” 131Lời công bố về Ba-by-lôn mà Ê-sai, con trai A-mốt, tiếp nhận:2Trên ngọn núi trọc, hãy dựng lên một cờ hiệu, hãy kêu réo chúng, vẫy gọi chúng vào các cổng của giới quyền quý.3Ta đã truyền cho những người thánh của Ta, thật, Ta đã kêu gọi các chiến binh của Ta thi hành cơn giận Ta, tức những chiến binh hả hê cách kiêu hãnh của Ta. 4Có tiếng của đám đông trong vùng núi non, như tiếng của nhiều người! Đó là tiếng náo động của các nước, giống như khi nhiều dân tộc tập trung lại! Giê-hô-va của các đạo binh đang huy động quân đội chuẩn bị cho chiến trận.
5Chúng đến từ một miền đất xa xăm, ở tận chân trời. Đó chính là Giê-hô-va với các công cụ phán xét của Ngài, để hủy diệt toàn xứ. 6Hãy gào lên, vì ngày của Giê-hô-va đã gần; nó đến cùng với sự hủy diệt của Đấng Toàn Năng.
7Vậy nên mọi tay đều mềm nhũn, mọi lòng đều tan chảy.
8Chúng sẽ kinh hãi; các cơn đau đớn và sầu khổ ập lên chúng, như người phụ nữ đau đẻ. Chúng sẽ kinh ngạc nhìn nhau; mặt chúng sẽ rực cháy. 9Này, ngày của Giê-hô-va đến kèm theo cơn giận tàn bạo, cơn thạnh nộ trào dâng.
10Sao trên trời và cùng các chòm sao sẽ không tỏa sáng. Mặt trời thậm chí mới mọc lên đã tối đen, mặt trăng thì không chiếu soi. 11Ta sẽ phạt thế giới vì sự gian tà nó, phạt kẻ ác vì tội lỗi chúng. Ta sẽ trừ bỏ thái độ cao ngạo của kẻ kiêu căng và đánh hạ sự ngạo mạn của kẻ tàn độc.
12Ta sẽ khiến người ta ra hiếm hoi hơn vàng nguyên chất, nhân loại trở nên khó tìm hơn vàng ròng Ô-phia. 13Vì vậy, Ta sẽ khiến các tầng trời run rẩy, còn đất sẽ bị lay động khỏi chỗ nó, bởi cơn thạnh nộ của Giê-hô-va của các đạo binh, trong ngày Ngài phừng phừng nổi giận.
14Giống như con linh dương bị săn đuổi hay con chiên không có kẻ chăn, mỗi người sẽ quay hướng sang dân tộc mình và sẽ trốn chạy về quê hương mình. 15Mọi kẻ bị phát hiện sẽ bị giết chết, và mọi kẻ bị bắt đi sẽ chết bởi gươm.
16Con nhỏ chúng sẽ bị đập nát thây trước mắt chúng. Nhà chúng sẽ bị cướp phá, vợ chúng sẽ bị cưỡng hiếp. 17Kìa, Ta sắp khích động quân Mê-đi tấn công chúng; quân ấy chẳng màng đến bạc, cũng chẳng ham thích vàng.
18Mũi tên chúng sẽ xuyên qua các trai tráng. Chúng sẽ chẳng thương xót trẻ sơ sinh, và cũng chẳng tha mạng trẻ con. 19Rồi Ba-by-lôn, vương quốc đáng ngưỡng phục nhất trong các nước, vẻ rực rỡ của lòng kiêu hãnh người Canh-đê, nó sẽ bị Đức Chúa Trời hạ bệ như Sô-đôm và Gô-mô-rơ.
20Nó sẽ chẳng có dân cư hay người ở từ đời này sang đời khác. Dân Ả-rập sẽ không dựng lều tại đó, các mục đồng cũng không chăn dắt bầy mình ở đó. 21Nhưng thú hoang của sa mạc sẽ nghỉ ở đó. Nhà chúng sẽ đầy chim cú; đà điểu và dê rừng sẽ nhảy lăn tăn tại đó.
22Linh cẩu sẽ tru tréo trong các pháo đài chúng, lừa rừng kêu la trong các cung điện đẹp đẽ của chúng. Giờ nó đã gần, ngày tàn của nó sẽ chẳng còn xa. 141Giê-hô-va sẽ thương xót Gia-cốp; Ngài sẽ lại chọn Y-sơ-ra-ên và phục hồi họ lại trong xứ mình. Dân ngoại quốc sẽ liên kết với họ và gia nhập vào nhà Gia-cốp.2Các dân sẽ đưa họ về xứ. Rồi nhà Y-sơ-ra-ên sẽ đem chúng nó vào trong xứ của Giê-hô-va làm đầy tớ trai, đầy tớ gái. Họ sẽ bắt về những kẻ đã bắt mình, và sẽ cai trị những kẻ đã áp bức mình.3Trong ngày Giê-hô-va cho các ngươi được nghỉ ngơi sau khi đã chịu khổ sở, đau đớn, sau khi bị cưỡng bức lao động khổ sai,4các ngươi sẽ hát bài ca này để nhạo cười vua Ba-by-lôn: “Làm sao mà kẻ áp bức phải tận chung, cơn giận kiêu căng phải chấm dứt!5Giê-hô-va đã bẻ cây gậy của quân ác, cây trượng của bọn cai trị đó;
6trong cơn thạnh nộ nó đã tới tấp giáng đòn xuống các dân, cai trị các nước một cách giận dữ, hà hiếp họ chẳng nương tay.7Cả trái đất nghỉ ngơi và yên tịnh; người ta bắt đầu ca hát vui mừng.
8Thậm chí cây tùng, cây bách cũng cùng cây bá hương Li-ban hoan hỉ về ngươi; chúng bảo: ‘Vì mày đã bị hạ, nên chẳng còn tay tiều phu nào lên đốn bọn tao.’
9Âm phủ bên dưới cũng háo hức đón ngươi khi ngươi xuống đó. Nó vì ngươi mà đánh thức những kẻ đã chết, tức mọi vua trên đất, toàn thể vua của các dân, khiến chúng đứng lên khỏi ngai mình. 10Hết thảy chúng sẽ nói với ngươi, rằng: ‘Mày đã ra yếu đuối như bọn tao. Mày cũng chẳng khác gì bọn tao.
11Sự lộng lẫy của mày đã bị hạ xuống âm phủ cùng với tiếng đàn cầm của mày. Giòi trải ra làm nệm cho mày, sâu bọ là mền của mày.’ 12Hỡi sao mai, con trai của buổi sáng, mày từ trời sa xuống là thế nào! Hỡi kẻ đi chinh phục các nước kia, mày bị đốn hạ xuống đất là sao!
13Mày đã tự nhủ trong lòng: ‘Ta sẽ lên trời, ta sẽ nhấc ngai ta lên trên các vì sao của Đức Chúa Trời, rồi ta sẽ ngồi trên núi nhóm hội, tại các vùng cực của phương bắc.
14Ta sẽ lên cao hơn các đám mây; Ta sẽ khiến mình giống như Đức Chúa Trời Chí Cao!’ 15Nhưng giờ thì mày bị hạ xuống tận âm phủ, xuống tận các vực sâu của hỏa ngục.
16Người nào thấy mày sẽ chằm chằm nhìn mày; họ sẽ dò xét mày. Họ sẽ bảo: “Phải chăng đây là kẻ đã khiến đất run sợ, khiến các nước rúng động, kẻ biến thế giới ra sa mạc,
17kẻ hủy diệt các thành nó và không để cho tù nhân trở về nhà?’18Hết thảy vua của các nước, tất cả họ đều nằm ngủ cách hiển vinh trong lăng mộ mình.
19Còn mày thì lại bị quăng khỏi mồ mả mình như cành cây bị quăng đi; kẻ chết phủ lên mày như cái áo, tức những kẻ bị gươm đâm - những kẻ đi xuống các bia mộ của hỏa ngục.
20Giống như xác chết bị giẫm đạp dưới chân, mày sẽ không bao giờ được hiệp với họ trong lăng tẩm vì mày đã hủy phá xứ của mình. Là kẻ đã giét dân mình, mày là con của kẻ làm dữ và sẽ không bao giờ được nhắc đến nữa.” 21Ngươi hãy sửa soạn tàn sát con cái nó vì tội lỗi của tổ phụ chúng nó, để chúng nó khỏi trỗi dậy chiếm hữu đất và xây thành lập ấp khắp thế giới. Giê-hô-va phán:
22“Ta sẽ lại trỗi dậy đánh chúng.” Giê-hô-va phán: “Ta sẽ diệt khỏi Ba-by-lôn danh tiếng, con cháu và hậu tự nó.23Ta cũng sẽ biến nó thành nơi ở của loài nhím, thành các ao nước, và Ta sẽ dùng chổi hủy diệt mà quét sạch nó,” Giê-hô-va phán vậy. 24Giê-hô-va của các đạo binh đã thề rằng: “Chắc chắn việc sẽ xảy đến như Ta đã dự tính; việc sẽ diễn ra như Ta đã trù định:25Ta sẽ đánh tan quân A-si-ri trong xứ Ta, và sẽ giẫm đạp nó dưới chân trên các núi Ta. Rồi ách nó sẽ được dỡ khỏi chúng, gánh nặng nó sẽ được cất bỏ khỏi vai chúng.”26Đây là chương trình được trù định cho toàn trái đất, đây là bàn tay giáng lên trên mọi dân tộc.
27Vì Giê-hô-va của các đạo binh đã hoạch định việc này; ai sẽ ngăn được Ngài? Tay Ngài đã giáng lên thì ai có thể khiến rút lại? 28Vào năm vua A-cha qua đời thì có lời này:29Này, xứ Phi-li-tin, ngươi chớ hân hoan vì cây roi đã đánh ngươi bị gãy. Vì từ gốc rễ của con rắn sẽ xuất hiện một rắn hổ lục, và hậu tự nó sẽ là một con rắn bay hung hăng.30Con trưởng của kẻ nghèo sẽ ăn, và người thiếu thốn sẽ nằm ngủ yên ổn. Ta sẽ giết chết gốc rễ mày bằng nạn đói, vốn khiến mọi kẻ còn sót lại của mày phải chết. 31Này, cổng, hãy tru lên; này thành, hãy kêu lớn; này, đất Phi-li-tin, tất cả các ngươi sẽ tan chảy đi. Vì từ phương bắc xuất hiện một đám khói, và chẳng có ai đi sai lạc khỏi hàng ngũ mình.
32Người ta sẽ trả lời thế nào cho các sứ giả của nước đó? Hãy đáp: Giê-hô-va đã thành lập Si-ôn, và những kẻ khốn cùng trong dân Ngài sẽ tìm được nơi ẩn náu tại đó. 151Lời rao báo về Mô-áp. Thật, chỉ trong một đêm mà thành A của Mô-áp bị tang hoang và tiêu hủy; thật chỉ trong một đêm mà thành Kiệt của Mô-áp bị tàn phá và sụp đổ.2Chúng đã lên đền miếu, dân thành Đi-hôn đi lên những nơi cao mà khóc; Mô-áp than khóc Nê-bô và Mê-đê-ba. Mọi đầu đều cạo nhẵn, mọi râu đều cắt trụi. 3Chúng mặc đồ tang ngoài đường phố; trên sân thượng lẫn nơi quãng trường, mọi người đều than khóc, thương tiếc trong nước mắt.
4Hết-bôn và Ê-lê-a-lê đều kêu cứu; tiếng chúng vang đến tận Gia-hát. Vậy nên các chiến binh Mô-áp cầu cứu; trong lòng chúng run sợ. 5Lòng tôi kêu la vì Mô-áp; dân lánh nạn của nó chạy đến Xoa và Ê-lát Sê-li-sia. Chúng vừa khóc vừa leo dốc Lu-hít; trên đường đến Hô-rô-na-im chúng kêu gào về sự hủy diệt mình.
6Nước ở Nim-ri đã cạn khô; cỏ thì héo, cỏ non cũng chết cả, chẳng thứ gì còn xanh.
7Của cải họ đã tạo dựng hoặc cất giữ họ đều đem qua bên kia suối các cây liễu. 8Tiếng kêu khóc đã lan ra cùng khắp lãnh thổ Mô-áp; tiếng than vãn vọng đến tận Ê-la-im và Bê-e Ê-lim.
9Vì nước tại Đi-môn thì đầy máu; nhưng Ta thậm chí sẽ giáng xuống Đi-môn thêm nữa. Một con sư tử sẽ tấn công những kẻ chạy thoát khỏi Mô-áp, cũng như những kẻ còn ở lại trong xứ. 161Hãy gửi chiên đực cho kẻ cai trị xứ này từ Sê-la trong hoang mạc, đến núi của con gái Si-ôn.2Đàn chim vỡ tổ bị tan tác thể nào thì các phụ nữ Mô-áp cũng giống như vậy tại các khúc cạn của sông Ạc-nôn 3“Hãy chỉ dạy, hãy thực thi công lý; giữa ban trưa hãy cung cấp bóng mát như trong ban đêm; hãy che giấu những kẻ chạy nạn; đừng giao nộp họ.4Hãy để dân tị nạn Mô-áp sống giữa vòng các ngươi; hãy cho họ nơi ẩn náu trước kẻ hủy diệt.” Vì sự áp bức sẽ dứt, sự hủy diệt sẽ ngưng, những kẻ giày xéo sẽ biến mất khỏi đất. 5Một ngai sẽ được thiết lập trong sự thành tín và một người từ lều Đa-vít sẽ trung tín ngự trên ngai. Người sẽ phán xử cũng như sẽ kiếm sự công bình và làm điều ngay thẳng. 6Chúng ta có nghe biết sự kiêu căng của Mô-áp, thái độ ngạo mạn, sự khoe khoang, cùng cơn giận nó. Nhưng sự khoe khoang của nó chỉ là lời rỗng tuếch.
7Vậy nên Mô-áp than khóc Mô-áp, ai cũng khóc than. Các ngươi thương tiếc những bánh nho của Kiệt Ha-rê-sết mà đã bị san phẳng. 8Những đồng ruộng của Hết-bôn đã khô héo, các gốc nho của Síp-ma cũng vậy. Vua chúa các nước đã giẫm đạp các gốc nho tuyển đã từng vươn đến Gia-ê-xe và lan đến sa-mạc. Các chồi nó vươn rộng ra; chúng lan ra tận biển. 9Thật, Ta sẽ cùng Gia-ê-xe khóc cho vườn nho Síp-na. Hỡi Hết-bôn, cùng Ê-lê-a-lê, Ta sẽ tưới các ngươi bằng nước mắt. Vì trên các đồng ruộng trái mùa hạ và mùa gặt, Ta đã làm dứt tiếng reo vui.
10Niềm sung sướng, hân hoan không còn nơi các vườn cây trái; trong vườn nho các ngươi chẳng có tiếng ca hát, cũng không tiếng reo mừng. Chẳng có ai đạp nho làm rượu trong thùng ép vì ta sẽ làm ngưng tiếng reo hò của kẻ đạp nho. 11Vậy nên lòng Ta vì Mô-áp mà thở dài như đàn hạt, dạ Ta cũng vậy vì Kiệt Hê-rê-sết.
12Dầu Mô-áp có nhọc công đi lên nơi cao và vào đền miếu để cầu nguyện, thì lời cầu xin nó sẽ chẳng được gì. 13Đó là lời Giê-hô-va đã phán về Mô-áp trước đây.14Giê-hô-va lại phán: “Trong vòng ba năm nữa, vinh quang của Mô-áp sẽ biến mất; cho dù dân nó đông thì phần còn sót lại sẽ rất ít và chẳng đáng kể.” 171Lời rao báo về Đa-mách. Này, Đa-mách sẽ không còn là một thành nữa; nó sẽ chỉ là đống đổ nát.2Các thành của A-rô-e sẽ bị bỏ hoang. Chúng sẽ là nơi các bầy chiên nằm nghỉ mà chẳng phải sợ ai cả.
3Thành quách Ép-ra-im sẽ biến mất, ngôi nước của Đa-mách cũng biến mất, và dân sót lại của A-ram sẽ giống như vinh quang của dân Y-sơ-ra-ên — đó là lời tuyên phán của Giê-hô-va của các đạo binh. 4Trong ngày đó, vinh quang của Gia-cốp sẽ mờ nhạt đi, da thịt mập mạp nó sẽ trở nên gầy guộc.
5Sự thể sẽ giống như khi thợ gặt túm lấy cây lúa đứng và dùng tay gặt lấy bông lúa. Nó sẽ giống như khi người ta mót bông lúa trong thung lũng Rê-pha-im. 6Tuy nhiên, sẽ còn sót lại cho kẻ đi mót, như khi cây ô liu bị rung lắc: chỉ còn vài ba trái trên đầu chót, bốn năm trái trên những nhánh cao nhất của cây sai quả.
7Trong ngày đó người ta sẽ ngước trông Đấng tạo dựng mình, và mắt họ sẽ hướng về Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên. 8Họ sẽ không nhìn về bàn thờ, là công việc của bàn tay mình, cũng không nhìn những thứ ngón tay mình làm ra, như các trụ tượng A-sê-ra hay hình tượng mặt trời. 9Trong ngày đó, các thành vững chắc của họ sẽ giống như những sườn đồi rậm rạp hoang phế, bị bỏ rơi vì cớ dân Y-sơ-ra-ên và sẽ trở thành nơi hiu quạnh.10Vì các ngươi đã quên Đức Chúa Trời của sự cứu rỗi mình và làm ngơ vầng đá sức lực mình. Vậy nên các ngươi đã trồng những loại cây thú vị, bày ra những cây ghép ngoại lai
11trong ngày các ngươi trồng cây, dựng rào, vun xới. Chẳng bao lâu hạt giống các người sẽ mọc lên, nhưng mùa gặt hát sẽ thất bát trong ngày buồn thảm, sầu khổ.12Thật bất hạnh! Tiếng náo động của nhiều dân tộc, tiếng ầm ầm như biển cả dậy sóng, cùng tiếng xông tới của các dân, chúng xông lên như dòng nước cuồn cuộn!
13Các dân sẽ gầm thét như tiếng nhiều dòng nước tràn tới, nhưng Đức Chúa Trời sẽ quở trách chúng. Chúng sẽ chạy xa và bị săn đuổi như cỏ rơm trên núi bị gió đùa đi, như cỏ dại quay cuồng giữa cơn bão.
14Lúc chiều tối, kìa, thật kinh khủng! Rồi trước khi trời sáng, chúng đều biến mất; đó là phần của kẻ cướp phá chúng ta, số phận của kẻ cướp bóc chúng ta. 181Thật bất hạnh cho xứ vỗ cánh xào xạc ở bên kia các dòng sông Ê-thi-ô-bi;2là xứ sai phái sứ giả vượt biển trong những chiếc thuyền cối đi trên nước. Hỡi các sứ giả lẹ làng các ngươi, hãy đi đến một dân tộc cao lớn da mởn, là dân mà xa gần đều sợ, một dân hùng mạnh hay đi chinh phục, có xứ sở chằng chịt sông ngòi!3Tất cả các ngươi là dân cư trên thế giới và những người sống trên trái đất, khi cờ hiệu được kéo lên trên các núi, hãy nhìn xem; khi kèn trổi lên, hãy lắng tai nghe. 4Đây là lời Giê-hô-va phán với tôi: “Ta sẽ từ nơi ở mình âm thầm theo dõi, như cái nóng hậm hực giữa ánh nắng, như đám sương giữa sức nóng của mùa gặt hái.”5Trước ngày thu hoạch, khi mùa hoa đã qua và bông hoa sắp kết thành quả, Ngài sẽ dùng lưỡi hái mà cắt đứt các nhánh non, cùng đốn hạ và đem đi những cành xòe tán ra.6Chúng sẽ cùng bị bỏ lại cho các loài chim núi và cho các loài thú trên đất. 7Khi đó, một dân tộc cao lớn da mởn, là dân mà xa gần đều sợ, một dân hùng mạnh hay đi chinh phục, có xứ sở chằng chịt sông ngòi, dân ấy sẽ đem lễ vật đến cho Giê-hô-va của các đạo binh tại nơi mang danh Ngài, tức núi Si-ôn. 191Lời rao báo về Ai Cập. Này, Giê-hô-va cưỡi trên đám mây nhanh lẹ và sắp đến Ai Cập; các tượng thần Ai Cập run rẩy trước mặt Ngài, còn lòng dân Ai Cập thì tan chảy trong họ.2“Ta sẽ khích động người Ai Cập chống lại người Ai Cập: kẻ thì tranh chiến với anh em mình, người thì tranh chấp với láng giềng mình; thành này chống lại thành kia, nước này chống lại nước khác. 3Tinh thần đất nước Ai Cập sẽ bị sút giảm từ bên trong. Ta sẽ làm hỏng lời luận bàn của nó, cho dù chúng có cầu hỏi các tượng thần, linh người chết, giới đồng bóng, thông linh.
4Ta sẽ phó người Ai Cập vào tay một ông chủ hà khắc, và một vua hung bạo sẽ cai trị họ — đó là lời tuyên phán của Chúa, tức Giê-hô-va của các đạo binh.” 5Nước biển sẽ khô đi, sông cũng khô cạn nước.
6Sông ngòi trở nên hôi thối; các suối Ai Cập xuống thấp và khô đi; cây sậy, cây lau sẽ khô héo. 7Bãy sậy ở sông Nin, gần bờ sông Nin, và hết thảy cánh đồng gieo trồng ở sông Nin sẽ khô cằn, trở thành bụi, và bay đi.
8Ngư phủ sẽ kêu khóc, tiếc thương, và mọi kẻ đánh bắt cá trên sông Nin sẽ khóc than, những kẻ thả lưới trên sông sẽ đau buồn. 9Thợ chải sợi lanh cùng những kẻ dệt vải trắng đều tái mặt.
10Giới thợ dệt Ai Cập sẽ tuyệt vọng; mọi kẻ làm thuê sẽ đau khổ trong lòng. 11Các quan tướng Xô-an đều ngu xuẩn. Lời khuyên từ các cố vấn thông thái của Pha-ra-ôn đều vô nghĩa. Làm sao các ngươi có thể nói với Pha-ra-ôn: “Tôi là con nhà thông thái, con của các vua thời xưa” cho được?
12Vậy thì người khôn ngoan của các ngươi ở đâu? Hãy để chúng tỏ bày và cho các ngươi biết Giê-hô-va của các đạo binh đã hoạch định thế nào đối với Ai Cập? 13Các quan tướng của Xô-an đều xuẩn ngốc, các quan tướng của Mem-phi đều bị lừa; những kẻ làm hòn đá góc của các bộ tộc Ai Cập đã khiến nó lầm lạc.
14Giê-hô-va đã pha trộn vào giữa vòng chúng nó một tinh thần vặn vẹo, nên chúng đã khiến Ai Cập bị lầm lạc trong mọi việc nó làm, như một kẻ say rượu lảo đảo khi buồn nôn.
15Chẳng ai giúp gì được cho Ai Cập, dầu là đầu hay đuôi, cành cọ hay đám sậy. 16Trong ngày đó, dân Ai Cập sẽ giống như người phụ nữ. Chúng sẽ run rẩy và sợ hãi vì bàn tay giơ cao của Giê-hô-va của các đạo binh giáng trên mình.17Đất Giu-đa sẽ trở thành cớ khiến Ai Cập chao đảo. Khi có ai đó nhắc chúng về xứ này thì chúng sẽ sợ hãi, vì chương trình mà Giê-hô-va đang lên để hành hại chúng.18Trong ngày đó sẽ có năm thành trong đất Ai Cập nói tiếng Ca-na-an và thề trung thành với Giê-hô-va của các đạo binh. Một trong các thành này sẽ được gọi là Thành Mặt Trời.19Trong ngày đó sẽ có một bàn thờ cho Giê-hô-va ngay giữa đất Ai Cập, và một trụ đá cho Giê-hô-va tại vùng biên giới.20Đó sẽ là dấu hiệu và lời chứng về Giê-hô-va của các đạo binh trong đất Ai Cập. Khi chúng kêu cầu Giê-hô-va vì các kẻ áp bức mình, thì Ngài sẽ sai phái một vị cứu tinh và đấng bảo vệ, và Ngài sẽ giải cứu chúng.21Giê-hô-va sẽ được biết đến tại Ai Cập và dân Ai Cập sẽ nhìn biết Giê-hô-va trong ngày đó. Chúng sẽ thờ phượng Ngài bằng các sinh tế và của lễ, cũng như thề nguyện với Giê-hô-va và hoàn nguyện.22Giê-hô-va sẽ hành hại Ai Cập, Ngài hành hại rồi chữa lành. Chúng sẽ trở lại với Giê-hô-va; Ngài sẽ nghe lời cầu nguyện của chúng và chữa lành cho chúng.23Trong ngày đó sẽ có một con đường lớn nối Ai Cập với A-si-ri; người A-si-ri sẽ đến Ai Cập, người Ai Cập sẽ đến A-si-ri; rồi người Ai Cập sẽ thờ phượng cùng với người A-si-ri.24Trong ngày đó, Y-sơ-ra-ên sẽ hiệp với Ai Cập và A-si-ri thành một nhóm tay ba, trở nên nguồn phước ngay giữa cõi đất;25Giê-hô-va của các đạo binh sẽ ban phước cho chúng, rằng: “Phước cho Ai Cập, là dân Ta; phước cho A-si-ri, là công việc của tay Ta; phước cho Y-sơ-ra-ên, là sản nghiệp Ta.” 201Vào năm Ta-tân đến Ách-đốt, theo sự sai phái của vua A-si-ri là Sa-gôn, hắn công thành Ách-đốt và chiếm lấy thành.2Lúc đó, Giê-hô-va phán với Ê-sai, con trai A-mốt, rằng: “Hãy đi, cởi bỏ vải thô khỏi thắt lưng con, cũng cởi dép khỏi chân con.” Người làm theo, bước đi mình trần, chân không.3Giê-hô-va phán: “Như đầy tớ Ta là Ê-sai đi mình trần, chân không trong ba năm, như là dấu và điềm liên quan đến Ai Cập và liên quan đến Ê-thi-ô-bi —4thì cũng vậy, vua A-si-ri sẽ bắt dẫn đi người Ai Cập và lưu đày người Ê-thi-ô-bi, cả già lẫn trẻ đều mình trần, chân không, mông hở, cả một sự nhục nhã đối với Ai Cập.5Người ta sẽ kinh sợ và xấu hổ vì cớ Ê-thi-ô-bi, hy vọng của chúng, và vì cớ Ai Cập, vinh quang của chúng.6Vào ngày đó, dân cư sống tại các vùng duyên hải này sẽ bảo: ‘Đích thực đây là nguồn hy vọng của chúng ta, nơi chúng ta tìm đến để nhờ giải cứu khỏi vua A-si-ri; giờ thì chúng ta làm sao thoát được?’” 211Lời rao báo về vùng sa mạc ở miền duyên hải. Từ hoang mạc, từ một vùng đất đáng sợ, nó ập đến, như gió lốc càng quét qua Nê-ghép.2Tôi nhận được một khải tượng kinh khiếp: kẻ bội phản phản bội; kẻ hủy diệt giết chóc. Này, Ê-lam, hãy đi lên và tiến đánh; này, Mê-đi, hãy bao vây; Ta sẽ chấm dứt mọi sự rên siết của nó. 3Vì vậy, vùng thắt lưng của tôi đau quặn; các cơn đau như cơn đau của người phụ nữ chuyển dạ ập lên tôi; tôi quỵ xuống vì lời mình nghe; tôi bối rối vì điều mình thấy.
4Tim tôi đập thình thịch; tôi rùng mình ớn lạnh; cái đêm mà tôi từng ước muốn đã biến thành điều kinh sợ đối với tôi. 5Người ta dọn bàn, họ trải thảm rồi ăn, uống; hỡi các quan tướng, hãy chỗi dậy và lấy dầu xức cho thuẫn khiên của các ngươi. 6Vì đây là lời Chúa phán với tôi: “Hãy đi bố trí một người bảo vệ; người đó phải báo cáo lại điều mình thấy.7Khi thấy một cỗ xe song mã, lính kỵ đi cặp, người cưỡi lừa, người cưỡi lạc đà, thì nó phải lưu ý và cảnh giác.” 8Người canh gác la lên: “Thưa chúa, mỗi ngày tôi đứng suốt trên tháp canh, tại chỗ mình tôi đứng thâu đêm.”9Kìa, có một người đánh xe chiến mã xuất hiện cùng với một toán lính, là lính kỵ đi theo cặp. Người này la lớn: “Ba-by-lôn đã đổ, đã đổ rồi, và mọi tượng chạm khắc các thần nó đều vỡ tan xuống đất rồi.” 10Hỡi người dân bị áp chế, chà đạp của tôi, là con cái của sân đạp lúa tôi! Những gì tôi được nghe từ Giê-hô-va của các đạo binh, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, thì tôi công bố lại cho các ngươi. 11Lời rao báo về Đu-ma. Có người từ Sê-i-rơ gọi tôi: “Này, anh lính canh đêm qua thế nào? Anh lính canh ơi, đêm qua thế nào rồi?”12Người lính canh đáp: “Ban ngày đến, ban đêm cũng đến; nếu ngươi muốn hỏi thì cứ hỏi, rồi quay trở lại.” 13Lời rao báo về A-ra-bi. Những đoàn thương nhân Đê-đan các ngươi nghỉ đêm trong sa mạc A-ra-bi.14Hãy đem nước cho người bị khát; hỡi dân cư đất Thê-ma, hãy mang bánh cho dân chạy nạn.
15Vì chúng đã chạy trốn thanh gươm, là thanh gươm tuốt trần, trốn cây cung giương sẵn, trốn gánh nặng của chiến tranh. 16Vì đây là lời Chúa phán với tôi: “Trong vòng một năm nữa, như người lao động làm thuê trong năm sẽ được chứng kiến, mọi vinh quang của Kê-đa sẽ mất hết.17Chỉ còn lại một ít cung thủ, tức các chiến binh của Kê-đa,” vì đó là điều Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, đã phán. 221Lời ra báo về thung lũng khải tượng: Vì cớ gì mà các ngươi lại lên hết trên mái nhà vậy?2Một cái thành ồn ào, một thị trấn vui chơi, ăn uống; kẻ chết của các người không chết vì gươm, chúng cũng chẳng chết trận. 3Mọi kẻ cai trị các ngươi đều cùng chạy trốn, nhưng chúng bị bắt lại mà không cần cung tên, hết thảy chúng đều bị bắt lại và bị khống chế; chúng đã trốn chạy từ rất xa.
4Vậy nên tôi nói: “Đừng nhìn tôi, tôi sẽ khóc thảm thiết; đừng tìm cách an ủi tôi về sự hủy diệt con gái của dân mình.” 5Vì Giê-hô-va của các đạo binh định ra một ngày náo động, giẫm đạp, đầy hỗn loạn trong thung lũng khải tượng, ngày thành trì bị sụp đổ và người ta kêu cứu núi đồi.
6Ê-lam cầm ống tên lên, với xe ngựa và lính kỵ, còn Ki-rơ để trần thuẫn nó.
7Rồi các thung lũng tốt đẹp nhất của các ngươi sẽ đầy xe ngựa chiến, còn lính kỵ sẽ dàn quân ở cổng thành. 8Chúa đã cất đi sự che chở của Giu-đa; trong ngày đó các ngươi sẽ trông chờ vào số vũ khí trong Cung điện Rừng.
9Các ngươi đã thấy thành Đa-vít có nhiều chỗ hư hại, và các ngươi đã thâu trữ nước của hồ dưới. 10Các ngươi đếm số nhà cửa tại Giê-ru-sa-lem, rồi phá dỡ các ngôi nhà để củng cố vách thành.
11Các ngươi làm một hồ giữa hai vách tường thành để trữ nước của ao cũ. Nhưng các ngươi lại không đếm xỉa đến Đấng tạo dựng thành phố cách đây đã lâu. 12Trong ngày đó, Chúa Giê-hô-va của các đạo binh kêu gọi phải khóc lóc, tiếc thương, cạo đầu, mặc vải thô.
13Nhưng kìa, thay vì vậy, người ta lại ăn mừng, vui sướng, mổ bò, giết chiên, ăn thịt, uống rượu; hãy ăn uống, vì ngày mai chúng ta sẽ chết. 14Giê-hô-va của các đạo binh đã bày tỏ trong tai tôi: “Thậm chí đến chết chắc chắn các ngươi cũng không được tha tội này,” Chúa là Giê-hô-va của các đạo binh phán vậy.15Chúa là Giê-hô-va của các đạo binh phán thế này: “Hãy đi đến nhà Sép-na, viên quản lý trông coi nhà này, và nói:16“Ngươi có gì ở đây, và ngươi là ai mà lại đục cho mình một phần mộ? Ngươi đã đục một ngôi mộ ở trên cao, khoét cho mình một nơi yên nghỉ trong đá!’”17Này, Giê-hô-va sắp quẳng ngươi đi, hỡi kẻ quyền lực kia, Ngài sẽ ném ngươi xuống; Ngài sẽ túm chặt ngươi.
18Chắc chắn Ngài sẽ quơ ngươi vòng vòng rồi ném ngươi như trái bóng vào một xứ sở rộng mênh mông. Ngươi sẽ chết ở đó, là nơi có các xe chiến mã của ngươi; Ngươi sẽ là sự sỉ nhục của nhà chủ mình!
19“Ta sẽ phế truất ngươi và hạ bệ ngươi. Ngươi sẽ bị kéo xuống. 20Trong ngày đó Ta sẽ kêu gọi đầy tớ ta là Ê-li-a-kim, con trai Hinh-kia.21Ta sẽ lấy áo ngươi mặc cho người, và thắt cho người cân đai của ngươi; Ta cũng sẽ lấy thẩm quyền của ngươi trao vào tay người. Người sẽ làm cha của dân cư Giê-ru-sa-lem và của nhà Giu-đa.22Ta sẽ đặt chìa khóa nhà Đa-vít lên vai người; khi người mở thì chẳng ai đóng; khi người đóng thì chẳng ai mở.23Ta sẽ khiến người vững chắc như đinh đóng cột, và người sẽ thành ngôi vinh hiển cho nhà cha mình.24Chúng sẽ mặc cho người mọi vinh quang của nhà cha người, con cháu, hậu tự, mọi vật chứa bé nhỏ, từ chén tách cho đến tất cả các bình.25Trong ngày đó — đây là lời phán của Giê-hô-va của các đạo binh — cái chốt đóng vào nơi chắc chắn sẽ long ra, gãy lìa, rơi rụng, và sức nặng máng lên đó sẽ bị tụt đứt — vì Giê-hô-va đã phán vậy. 231Lời rao báo về Ty-rơ. Này, các ngươi là tàu thuyền Ta-rê-si, hãy hú lên; vì chẳng có nhà ở hay bến cảng nào cho các ngươi; đó là điều đã tỏ cho chúng biết từ xứ Kit-tim.2Các ngươi là dân cư vùng duyên hải, là các thương nhân thành Si-đôn, vốn chuyên đi biển và có những đại lý cung cấp hàng hóa cho, hãy sững sờ.
3Theo đường biển, ngũ cốc của vùng Si-hô, mùa màng của sông Nin được đem đến Ty-rơ; nó là nơi mua bán của các nước. 4Hỡi Si-đôn, hãy hổ thẹn; vì, hỡi kẻ hùng mạnh trên biển, biển cả đã lên tiếng, rằng: “Ta chưa từng đau đẻ hay sinh con; ta cũng chưa từng nuôi nấng thanh niên, hoặc dưỡng dục thiếu nữ.”
5Khi tin này đến Ai Cập, người ta sẽ thương tiếc Ty-rơ. 6Hãy vượt biển qua Ta-rê-si; các ngươi là dân cư vùng duyên hải, hãy than khóc.
7Việc này đã xảy đến cho ngươi chưa, hỡi thành vui sướng, có gốc gác từ thời xưa, có đôi chân từng đưa mình đến những vùng đất xa lạ để lập cư? 8Ai đã hoạch định điều này nghịch lại Ty-rơ, là kẻ ban vương miện, có thương nhân là những ông hoàng và giới buôn bán được trọng vọng trên đất?
9Giê-hô-va của các đạo binh hoạch định việc ấy để hạ nhục tánh kiêu hãnh cùng mọi vinh quang nó, để làm xấu hổ mọi kẻ được trọng vọng của nó trên đất. 10Hỡi con gái Ta-rê-si, hãy cày đất mình như người ta cày sông Nin. Chẳng còn thương trường tại Ty-rơ.
11Giê-hô-va đã đưa tay Ngài ra trên biển, và Ngài đã làm rúng động các nước; Ngài đã truyền lệnh về Phê-nê-xi, để hủy phá các đồn lũy nó.
12Ngài phán: “Hỡi con gái Si-đôn, là trinh nữ bị áp chế kia, ngươi sẽ chẳng được vui mừng trở lại đâu. Hãy trỗi dậy vượt biển qua Chíp-rơ; cho dù ở đó ngươi cũng chẳng được yên nghỉ.” 13Hãy xem xứ của dân Canh-đê. Dân đó đã không còn tồn tại; người A-si-ri đã biến nó thành vùng đất hoang cho thú rừng. Chúng dựng tháp bủa vây; chúng phá sập cung đền; chúng biến nó thành đống đổ nát.
14Hỡi các ngươi là tàu thuyền Ta-rê-si, hãy hú lên; vì nơi trú ẩn của các ngươi đã bị phá hủy. 15Vào ngày đó, Ty-rơ sẽ bị quên lãng trong bảy mươi năm, tương đương một đời vua. Cuối bảy mươi năm đó, việc xảy đến tại Ty-rơ sẽ giống như trong bài hát của gái điếm.16Hỡi cô gái điếm bị lãng quên kia, hãy lấy đàn hạt mà đi dạo quanh thành; hãy chơi cho giỏi, hát cho nhiều, để được người ta nhớ đến. 17Sau bảy mươi năm, Giê-hô-va sẽ giúp Ty-rơ, và nó sẽ trở lại nghề cũ. Nó sẽ hành nghề buôn hương với tất cả các nước trên mặt đất.18Lợi nhuận và thu nhập của nó sẽ được hiến cho Giê-hô-va, mà không cất giữ, cũng không để dành lại. Hàng hóa nó sẽ cung cấp thực phẩm, áo quần lâu bền cho những kẻ sống trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời. 241Kìa, Giê-hô-va sắp làm cho trái đất ra trống vắng, khiến nó hoang vu, phá hủy bề mặt nó, và rải dân cư nó ra.2Khi đó thầy tế lễ sẽ như dân thường; ông chủ sẽ như đầy tớ trai; bà chủ sẽ như đầy tớ gái; người bán sẽ như kẻ mua; con nợ sẽ như chủ nợ; kẻ lấy lãi sẽ như người trả lãi. 3Trái đất sẽ bị tàn phá hết và hoàn toàn suy kiệt; vì Giê-hô-va đã phán lời này.
4Trái đất sẽ teo tóp, héo mòn đi, thế giới co quắt lại, tan biến, lớp người ưu tú trên đất gầy mòn đi.
5Đất bị dân cư nó làm cho ô uế vì chúng đã vi phạm luật pháp, làm trái quy định, phá bỏ giao ước đời đời. 6Vậy nên đất bị rủa sả và dân cư nó mắc tội. Dân cư trên đất bị cháy thiêu, chỉ còn lại ít người.
7Rượu mới khô sạch, cây nho tàn héo, mọi kẻ yêu đời đều than vãn. 8Tiếng trống vui đã dứt, cuộc chè chén của kẻ vui mừng đã tàn, tiếng đàn hoan lạc đã tắt.
9Người ta không còn uống rượu hoặc ca hát, và rượu trở đắng cho người uống. 10Cái thành hỗn loạn đã đổ xuống, nhà nhà đóng kín cửa và trống không.
11Người ta kêu la ngoài đường vì rượu; mọi hân hoan đều tắt lịm, niềm vui sướng trong xứ biến mất. 12Trong thành chỉ còn cảnh tan hoang, cổng thành thì đổ nát.
13Vì đây là điều sẽ xảy đến giữa vòng các dân trên khắp đất, như khi người ta đập cây ô liu, như việc mót lượm khi mùa hái nho đã xong. 14Người ta sẽ cất tiếng tung hô sự oai nghiêm của Giê-hô-va, và sẽ từ hướng biển mà reo mừng.
15Vậy nên ở phương đông hãy tôn vinh Giê-hô-va, giữa các hải đảo hãy dâng vinh hiển cho danh Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. 16Từ chốn tận cùng của trái đất chúng tôi có nghe tiếng hát, rằng: “Chúc cho kẻ công chính được vinh hiển!” Nhưng tôi bảo: “Tôi thật tiều tụy, tôi đã suy kiệt, thật bất hạnh cho tôi! Kẻ phản bội thì bội phản; thật, kẻ phản bội rất tráo trở.” 17Sự kinh hãi, hầm, bẫy giáng trên các ngươi là dân cư trên đất.
18Ai chạy thoát khỏi tiếng kinh hãi sẽ rơi xuống hầm, kẻ lên được khỏi hầm sẽ bị mắc vào bẫy. Các cửa sổ trên trời sẽ mở ra, và các nền trái đất sẽ rúng động. 19Trái đất sẽ vỡ tan; trái đất sẽ bị xé ra; trái đất sẽ rung chuyển mạnh.
20Trái đất sẽ chao đảo như người say và đong đưa tới lui như chiếc võng. Sự vi phạm của nó sẽ đè nặng trên nó, và nó sẽ đổ xuống, không dậy được nữa. 21Trong ngày đó Giê-hô-va sẽ hình phạt đạo binh thiên sứ trên cao cùng các vua hạ giới dưới đất.
22Chúng sẽ bị dồn lại như kẻ tù dưới hầm, và sẽ bị nhốt vào ngục; sau nhiều ngày chúng sẽ bị kết tội.
23Rồi mặt trăng sẽ xấu hổ, mặt trời bị nhuốc nhơ, vì Giê-hô-va của các đạo binh sẽ cai trị trên núi Si-ôn và tại Giê-ru-sa-lem trong vinh quang trước mặt các trưởng lão. 251Giê-hô-va là Đức Chúa Trời của con; con sẽ tôn cao Chúa, con sẽ ca ngợi danh Ngài; vì với lòng thành tín trọn vẹn, Ngài đã làm những việc kỳ diệu, là những việc được hoạch định từ lâu.2Chúa đã biến thành kiên cố ra đống đổ nát, thành lũy của người ngoại quốc không còn là thành nữa.
3Vì vậy, một dân hùng mạnh sẽ tôn vinh Chúa; một thành của các dân tàn bạo sẽ kính sợ Chúa. 4Vì Chúa là chốn dung thân cho kẻ nghèo, là Đấng bảo vệ người thiếu thốn trong lúc cùng khốn, là nơi tránh bão, là bóng che nắng nóng, khi sự cuồng nộ của bọn hung ác giống như trận cuồng phong quật vào vách tường.
5Chúa sẽ chế ngự tiếng náo động của người ngoại quốc như sức nóng giữa lúc nắng hạn; cái nóng bị bóng mây chế ngự thể nào thì bài ca của kẻ tàn bạo cũng bị dập tắt như vậy. 6Trên núi này, Giê-hô-va của các đạo binh sẽ dọn cho mọi dân một bữa tiệc bằng thức béo, bằng rượu thượng hạng, bằng thịt mềm, một bữa tiệc bằng bã rượu.
7Tại núi này Ngài sẽ trừ bỏ cái màn che phủ trên mọi dân, tấm khăn dệt trên mọi nước.
8Ngài sẽ nuốt chửng sự chết mãi mãi, và Chúa Giê-hô-va sẽ lau hết nước mắt trên mọi gương mặt; Chúa sẽ cất khỏi đất sự sỉ nhục của dân mình, vì Giê-hô-va đã phán lời này. 9Trong ngày đó, người ta sẽ bảo: “Này, đây là Đức Chúa Trời chúng ta; chúng ta đã trông đợi Ngài, và Ngài sẽ cứu chúng ta. Đây chính là Giê-hô-va; chúng ta đã trông đợi Ngài, chúng ta sẽ sung sướng, vui mừng về sự cứu rỗi của Ngài.”10Vì tay Chúa sẽ đặt trên núi này; và Mô-áp sẽ bị giẫm đạp tại chỗ nó, như rơm rạ bị giẫm đạp trong hố phân. 11Chúng sẽ sải tay ra giữa hố, như người bơi lội sải tay bơi; nhưng Giê-hô-va sẽ trừ khử tánh kiêu căng nó cho dù tay nó có vùng vẫy.
12Các vách tường cao của thành lũy ngươi Ngài sẽ san phẳng, xuống tận bụi đất. 261Trong ngày đó người ta sẽ hát bài ca này trong xứ Giu-đa: Chúng ta có một thành vững chắc; Đức Chúa Trời lấy sự cứu rỗi làm thành lũy nó.2Hãy mở cổng ra để dân công chính trung kiên vào thành. 3Kẻ nào để trí mình nương dựa vào Ngài thì Ngài sẽ gìn giữ được hoàn toàn bình an, vì người tin cậy Ngài.
4Hãy mãi mãi tin cậy Giê-hô-va; vì Chúa, tức Giê-hô-va, là vầng đá muôn đời. 5Vì Chúa sẽ đánh đổ kẻ sống kiêu ngạo; thành kiên cố Ngài sẽ triệt phá, hạ nó xuống đất; Ngài sẽ san phẳng nó ra tro bụi.
6Nó sẽ bị bàn chân kẻ nghèo giẫm lên, bị người thiếu thốn giày đạp. 7Hỡi Đấng Công Chính, đường của người công chính thì bằng phẳng; Ngài khiến con đường người công chính ra ngay thẳng.
8Đúng vậy, hỡi Giê-hô-va, theo cách Ngài đoán xét, chúng con trông đợi Ngài; danh Chúa và tiếng tăm của Ngài chính là niềm ao ước của chúng con.
9Đang ban đêm con đã khao khát Ngài; thật, linh hồn ở trong con sốt sắng tìm kiếm Ngài. Vì khi sự phán xét của Chúa diễn ra trên đất thì dân cư trên thế giới học biết sự công chính. 10Nguyện ơn cứ được tỏ cho kẻ ác, nhưng nó sẽ chẳng học biết công chính. Trong đất người ngay thẳng, hắn vẫn hành xử gian ác và chẳng nhìn thấy sự oai nghi của Giê-hô-va. 11Giê-hô-va ôi, tay Chúa giáng lên mà chúng chẳng để ý. Nhưng chúng sẽ thấy lòng nhiệt thành Chúa đối với dân này và bị xấu hổ, vì lửa của các kẻ thù Ngài sẽ thiêu nuốt chúng.
12Giê-hô-va ôi, Ngài sẽ cho chúng con được bình an; vì, thật, Chúa cũng đã hoàn tất mọi việc cho chúng con. 13Hỡi Giê-hô-va là Đức Chúa Trời của chúng con, đã có những chủ khác cai trị chúng con; nhưng chúng con chỉ ca ngợi danh Ngài thôi.
14Chúng đã chết, chúng sẽ không sống nữa; chúng đã khuất, chúng sẽ chẳng sống lại. Thật, Chúa đã đến phán xét và tiêu diệt chúng, xóa sạch mọi ký ức về chúng. 15Giê-hô-va ôi, Chúa đã khiến dân này đông lên, Ngài đã khiến họ thêm nhiều; Chúa được tôn kính; Chúa đã mở rộng ranh giới đất này. 16Giê-hô-va ôi, trong lúc gian nan, chúng đã nhìn lên Chúa; chúng thậm chí tụng niệm thần chú để xua đuổi cái ác khi Chúa sửa phạt.
17Thai phụ gần giờ sinh nở, bị đau đớn và kêu la lúc chuyển dạ thì, Chúa ôi, chúng con cũng giống như vậy trước mặt Ngài. 18Chúng con đã thai nghén, chúng con đã quặn thắt, nhưng dường như thể chúng con chỉ sinh ra gió. Chúng con không đem đến sự cứu rỗi trên đất, mà dân cư thế gian cũng chẳng được sinh ra. 19Người chết của Chúa sẽ sống; thân xác đã chết của chúng con sẽ trỗi dậy. Hỡi những kẻ nằm trong cát bụi, hãy thức dậy hát mừng; vì sương móc của Chúa là sương móc dược thảo, và đất sẽ buông kẻ chết là con mồi của nó ra. 20Hỡi dân Ta, hãy đi vào phòng mình rồi đóng cửa lại; hãy ẩn mình một thời gian cho đến khi sự phẫn nộ đã qua.
21Vì, kìa, Giê-hô-va sắp từ nơi Ngài đến để hình phạt dân cư trái đất vì tội lỗi chúng; đất sẽ để ra lộ máu đã bị đổ, và sẽ không còn chôn giấu những kẻ đã bị giết chết. 271Trong ngày đó, Giê-hô-va sẽ dùng thanh gươm cứng, lớn và kinh khiếp để trừng phạt con rắn lẹ làng Lê-vi-a-than, tức con rắn Lê-vi-a-than luồng lách, và Ngài sẽ giết chết con quái vật ở dưới biển.2Trong ngày đó: Hãy hát về một vườn nho sinh rượu.3“Ta, Giê-hô-va, là Đấng bảo vệ nó; Ta tưới nó hằng ngày; đêm ngày Ta canh giữ nó để chẳng ai làm hại nó. 4Ta không giận, ôi, ước gì có tầm xuân và gai gốc! Ta sẽ xung trận đấu địch với nó; Ta sẽ đốt sạch chúng nó chung với nhau;
5trừ khi chúng biết quý sự bảo vệ của Ta và làm hòa với Ta; chúng phải làm hòa với Ta.6Về sau này, Gia-cốp sẽ đâm rễ; Y-sơ-ra-ên sẽ nở hoa, ra nụ; và trái của chúng sẽ đầy khắp mặt đất.” 7Giê-hô-va có đánh Gia-cốp như Ngài đánh các dân đã đánh họ chăng? Gia-cốp và Y-sơ-ra-ên có bị tàn sát như các dân mà họ đã tàn sát chăng?
8Chúa đã tranh biện y như vậy mà đày Gia-cốp và Y-sơ-ra-ên đi; Ngài dùng ngọn gió khắc nghiệt đuổi họ đi trong ngày có gió đông. 9Cho nên theo cách này mà tội của Gia-cốp sẽ được chuộc, vì đó sẽ là kết quả đầy đủ của việc nó lìa bỏ tội lỗi mình. Ngài sẽ khiến toàn thể đá bàn thờ ra như phấn bị nghiền nát, và chẳng có tượng A-sê-ra hay bàn thờ xông hương nào còn đứng vững. 10Vì thành kiên cố đổ nát, nhà cửa bị bỏ hoang như hoang mạc. Đó là nơi bò tơ gặm cỏ; tại đó nó nằm nghỉ và ăn các nhánh mình.
11Khi các nhánh lớn bị khô héo thì chúng gãy xuống. Mấy bà sẽ đến lấy mà chụm lửa, vì đây không phải là một dân hiểu biết. Vậy nên Đấng tạo dựng chúng chẳng thương xót chúng, Đấng tạo ra chúng không khoan dung với chúng. 12Trong ngày đó Giê-hô-va sẽ đập lúa từ dòng chảy của sông Ơ-phơ-rát cho đến khe suối Ai Cập, và, hỡi dân Y-sơ-ra-ên, các ngươi sẽ được thâu về từng người một.13Trong ngày đó sẽ có tiếng kèn lớn thổi lên; những kẻ bị sắp diệt vong trong xứ A-si-ri sẽ đến, và những kẻ bị hất hủi tại đất Ai Cập sẽ thờ phượng Giê-hô-va trên núi thánh tại Giê-ru-sa-lem. 281Bất hạnh thay cho vòng hoa ngạo mạn của bọn say rượu ở Ép-ra-im, cùng đóa hoa đang phai tàn về vẻ đẹp rạng rỡ nó, ở trên đầu thung lũng phì nhiêu của những kẻ bị rượu khuất phục!2Kìa, Chúa có một đấng năng quyền, mạnh mẽ; như cơn bão mưa đá, là cơn bão hủy diệt, như cơn giông tố ào ào ập đến. Ngài sẽ dùng tay mình mà đánh trái đất. 3Vòng hoa ngạo mạn của những kẻ say sưa Ép-ra-im sẽ bị giẫm đạp dưới chân.
4Đóa hoa phai tàn của vẻ đẹp rạng rỡ nó trên đầu thung lũng phì nhiêu sẽ như trái vả chín đầu tiên trước mùa hạ mà khi ai đó bắt gặp thì hái vào tay và nuốt ực. 5Trong ngày đó, Giê-hô-va của các đạo binh sẽ trở nên vương miện vinh hiển, một mão miện đẹp đẽ cho số dân Ngài còn sót lại,
6một linh công chính cho kẻ ngồi xét xử, và sức mạnh cho những kẻ đẩy lùi quân địch tại cổng thành.7Nhưng thậm chí những kẻ này cũng lảo đảo vì rượu vang và nghiêng ngã vì rượu mạnh. Thầy tế lễ và tiên tri loạng choạng vì rượu mạnh, chúng bị rượu vang nuốt chửng. Chúng nghiêng ngã vì rượu mạnh, lảo đảo trong thị kiến, loạng choạng khi phân xử.
8Thật, chúng mửa ra đầy bàn, chẳng còn chỗ nào sạch. 9Nó còn dạy tri thức cho ai nữa? Nó còn giải nghĩa sứ điệp cho ai được? Phải chăng cho những đứa bé mới cai sữa, cho trẻ con vừa thôi bú?
10Vì mạng lệnh tiếp mạng lệnh, hết mạng lệnh này đến mạng lệnh khác; luật lệ tiếp luật lệ, luật lệ thêm luật lệ; chỗ này một chút, chỗ kia một chút. 11Thật, Ngài sẽ dùng môi giễu cợt và lưỡi xa lạ mà phán với dân này.
12Trong quá khứ, Ngài phán với họ: “Đây là chỗ yên nghỉ, hãy để cho kẻ mỏi mệt được nghỉ ngơi; đây là nơi yên tịnh,” nhưng chúng đâu có nghe. 13Vậy nên lời của Giê-hô-va đối với chúng sẽ là mạng lệnh tiếp mạng lệnh, hết mạng lệnh này đến mạng lệnh khác; luật lệ tiếp luật lệ, luật lệ thêm luật lệ; chỗ này một chút, chỗ kia một chút; để rồi chúng sẽ đi và té ngữa, bị vỡ nát, bị mắc bẫy và bị bắt. 14Vậy, hãy nghe lời Giê-hô-va, Đấng các ngươi chế nhạo, cũng là Đấng cai trị dân này tại Giê-ru-sa-lem.
15Các ngươi nói: “Chúng ta đã kết ước với sự chết; chúng ta đã thỏa thuận với âm phủ. Vậy nên khi sự đoán phạt kinh khiếp đi qua thì sẽ không đụng đến được chúng ta, vì chúng ta đã lấy sự dối trá làm nơi nương náu, lấy sự giả dối làm nơi ẩn núp.” 16Vì vậy, Chúa Giê-hô-va phán: “Này, Ta sẽ đặt tại Si-ôn một tảng đá nền, là đá đã được thử nghiệm, đá góc quý báu, nền tảng vững chắc. Kẻ nào tin sẽ không xấu hổ.17Ta sẽ lấy công lý làm thước đo, lấy sự công chính làm dây mực. Mưa đá sẽ quét sạch nơi nương náu dối trá, nước lũ sẽ tràn ngập chỗ các ngươi trú ẩn. 18Giao ước của các ngươi với sự chết sẽ bị hủy, thỏa thuận của các người với âm phủ sẽ không còn. Khi lũ dữ tràn qua, các ngươi sẽ bị nó nhận chìm.
19Khi tràn qua, nó sẽ phủ lút các ngươi; cứ mỗi sáng nó lại tràn qua, ngày đêm gì nó cũng vẫn đến. Sứ điệp khi hiểu được sẽ gây ra nỗi kinh hoàng. 20Vì giường ngắn quá người ta không duỗi mình được, mền hẹp quá họ không quấn mình được.21Giê-hô-va sẽ trỗi dậy như trên núi Phê-ra-xim; Ngài sẽ thức tỉnh như ở thung lũng Ghi-bê-ôn, để làm công việc mình, là công việc kỳ lạ, và thực hiện công việc lạ thường của Ngài. 22Vậy nên bây giờ đừng chế nhạo nữa, kẻo xiềng xích các ngươi sẽ siết chặt thêm. Tôi được nghe từ Chúa là Giê-hô-va của các đạo binh một sắc chỉ về việc tiêu diệt trái đất. 23Hãy để ý nghe tiếng tôi; hãy chú tâm nghe lời tôi.
24Phải chăng nhà nông suốt ngày cày đất gieo giống chỉ lo cày không thôi? Phải chăng người cứ vỡ đất và bừa mãi? 25Khi đã làm đất xong xuôi, người lại không gieo tiểu hồi, đại hồi, cấy lúa mì theo hàng, lúa mạch vào đúng chỗ, đại mạch ở bờ rìa sao?
26Đức Chúa Trời người chỉ dẫn người; Ngài chỉ dạy người cách khôn ngoan. 27Hơn nữa, người không dùng búa đập đại hồi, cũng không dùng bánh xe cán lên đại hồi; nhưng người lại dùng gậy mà đập tiểu hồi.
28Hạt lúa thì xay ra làm bánh, nhưng không được quá mịn, và dầu nó đi qua dưới bánh xe và chân ngựa, nhưng ngựa không giẫm nát nó. 29Điều này cũng từ nơi Giê-hô-va của các đạo binh, Đấng chỉ dạy tuyệt vời và khôn ngoan trổi vượt. 291Bất hạnh thay cho A-ri-ên, là thành A-ri-ên nơi Đa-vít đóng trại! Hết năm này sang năm khác; cứ để các kỳ lễ diễn ra.2Nhưng Ta sẽ vây hãm A-ri-ên, và nó sẽ tiếc thương, than khóc; và nó đối với Ta sẽ như A-ri-ên. 3Ta sẽ bao vây ngươi tứ phía, dùng rào cọc vây bọc ngươi, và Ta sẽ dựng công sự hãm đánh ngươi.
4Ngươi sẽ bị đánh hạ và từ dưới đất ngươi sẽ lên tiếng; lời nói từ dưới đất của ngươi sẽ chẳng ai nghe thấy. Tiếng của ngươi sẽ như ma quỷ ra từ đất, và tiếng ngươi sẽ rất yếu ớt từ bụi đất. 5Lũ quân xâm chiếm ngươi sẽ như bụi nhỏ, và đám người bạo tàn sẽ như trấu bay đi. Việc ấy sẽ xảy đến thình lình, tức thì.
6Ngươi sẽ bị Giê-hô-va của các đạo binh hình phạt bằng sấm sét, động đất, tiếng ồn lớn, gió mạnh và bão tố dữ dội, cùng với ngọn lửa thiêu nuốt. 7Việc này sẽ giống như một giấc mơ, một khải tượng trong ban đêm: Một đám quân thuộc mọi dân sẽ tranh chiến với A-ri-ên và thành trì nó. Chúng sẽ tiến đánh nó cùng các cộng sự nó để dồn ép nó.
8Việc sẽ như người đói nằm mơ thấy mình được ăn, nhưng khi thức dậy thì bao tử vẫn trống rỗng. Nó sẽ như người khát mơ thấy mình uống nước, nhưng khi thức giấc lại muốn lã đi vì vẫn còn khát. Thật, đoàn lũ các dân tranh chiến với núi Si-ôn cũng như vậy. 9Hãy kinh ngạc và sững sờ; hãy khiến mình bị mù và mù lòa đi! Hãy say, nhưng chẳng phải vì rượu; hãy đi lảo đảo nhưng chẳng phải do rượu.
10Vì Giê-hô-va đã trút đổ lên các ngươi thần ngủ mê. Ngài đã bịt mắt giới tiên tri các ngươi; Ngài đã trùm đầu giới tiên kiến các ngươi. 11Mọi sự mặc khải đối với các ngươi đã nên giống như chữ nghĩa trong cuốn sách bị niêm phong mà người ta trao cho một kẻ biết đọc, rằng: “Hãy đọc đi,” nhưng người đáp lại: “Tôi không đọc được vì sách bị niêm phong rồi.”12Nếu sách được trao cho kẻ không biết đọc, rằng: “Hãy đọc đi,” thì nó sẽ đáp: “Tôi có biết đọc đâu.”13Chúa phán: “Dân này chỉ đến gần Ta bằng miệng lưỡi và tôn kính Ta bằng môi miếng, còn lòng chúng nó thì cách xa Ta. Việc chúng nó tôn kính Ta chỉ là răn giới do người ta dạy cho.14Vậy nên, này, Ta sẽ cứ thực hiện việc kỳ lạ giữa dân này, hết việc lạ này đến việc lạ khác. Sự khôn ngoan của kẻ khôn sẽ hư hoại đi, sự hiểu biết của kẻ dẽ dặt sẽ biến mất.” 15Bất hạnh thay cho kẻ che giấu Giê-hô-va các toan tính mình và thực hiện công việc trong bóng tối. Chúng bảo: “Ai thấy được chúng ta, có ai biết chúng ta đâu? 16Các ngươi đảo lộn mọi thứ! Có nên xem thợ gốm giống như đất sét, để rồi sản phẩm lại nói về người làm ra mình rằng: “Ông ta đâu có làm ra tôi,” hay món đồ nói về kẻ đã tạo ra nó rằng: “Ông ta đâu hiểu biết gì?” 17Chỉ ít lâu nữa thôi Li-ban sẽ bị biến thành đồng ruộng, và đồng ruộng sẽ trở nên khu rừng.
18Trong ngày đó, kẻ điếc sẽ nghe được lời của cuốn sách, còn mắt của người mù sẽ nhìn thấy được từ trong bóng tối dày đặc.
19Kẻ bị áp bức sẽ lại vui mừng nơi Giê-hô-va, và kẻ nghèo giữa vòng người ta sẽ hân hoan về Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên. 20Vì kẻ nhẫn tâm sẽ không còn, kẻ nhạo báng sẽ tiêu vong. Mọi kẻ ưa thích làm ác sẽ bị diệt mất,
21tức kẻ dùng lời lẽ biến người ta thành kẻ vi phạm. Chúng đặt bẫy tại cổng thành cho người đi tìm công lý và dùng lời dối trá dìm người công chính xuống.22Vậy nên đây là lời Giê-hô-va — tức Giê-hô-va đã cứu chuộc Áp-ra-ham — phán về nhà Gia-cốp: “Gia-cốp sẽ chẳng bị xấu hổ nữa, mặt nó sẽ không còn tái nữa.23Nhưng khi nó thấy các con trai mình, là công việc của tay Ta, chúng sẽ tôn thánh danh Ta. Chúng sẽ tôn thánh danh Đấng Thánh của Gia-cốp và chúng sẽ kính sợ Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.
24Những kẻ có tâm thần sai lạc sẽ hiểu biết, và kẻ hay than phiền sẽ học biết tri thức.” 301Đây là lời tuyên phán của Giê-hô-va: “Bất hạnh thay cho con cái phản nghịch. Chúng lập kế hoạch chẳng do Ta; chúng liên minh với các dân chẳng bởi Thần Linh Ta chỉ dẫn, cho nên chúng tội càng thêm tội.2Chúng khởi đi xuống Ai Cập mà chưa hỏi ý Ta. Chúng tìm sự bảo vệ của Pha-ra-ôn và nương náu dưới bóng Ai Cập. 3Vì vậy, các ngươi sẽ xấu hổ về sự bảo vệ của Pha-ra-ôn, và thấy sỉ nhục về việc đi núp bóng Ai Cập,
4cho dù các quan tướng nó đã ở tại Xô-an và các sứ giả nó đã đến Ha-ne.5Chúng đều sẽ hổ thẹn về một dân không thể cứu giúp mình, là kẻ chẳng giúp đỡ cũng không hỗ trợ gì, mà lại khiến cho xấu hổ, mất mặt.” 6Lời rao báo về các con thú vùng Nê-ghép: Vượt qua vùng đất gian nan, nguy hiểm của sư tử cái, sư tử đực, rắn lục và rắn lửa bay, chúng vận chuyển của cải mình trên lưng lừa, các báu vật mình trên bướu lạc đà, đến một dân không giúp gì cho mình được.7Vì sự trợ giúp của Ai Cập là vô ích; vì vậy, Ta đã gọi nó là Ra-háp, kẻ chỉ biết ngồi yên. 8Bây giờ, hãy đi và viết lời này trên một tấm bảng trước mặt chúng, chép nó vào một cuốn sách, để có thể được lưu giữ lại như lời chứng trong thời gian tới.
9Vì đây là một dân phản trắc, là con cái nói dối, những đứa con không chịu nghe lời chỉ dạy của Giê-hô-va. 10Chúng nói với các đấng tiên kiến: “Đừng tiên kiến làm gì;” và với các nhà tiên tri: “Đừng tiên báo cho chúng tôi thẳng sự thật; hãy nói cho chúng tôi những lời êm tai; hãy nói tiên tri những điều hão huyền;
11hãy tách khỏi đường, hãy lìa khỏi lối; hãy đem Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên đi cho khuất mắt chúng tôi.”12Vậy nên Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên phán: “Vì các ngươi khước từ lời này mà đi tin vào sự áp bức, lừa lọc, và cậy vào đó,13nên tội này đối với các ngươi sẽ giống như một mảng vỡ lồi ra trên vách tường cao sắp đổ xuống, sập xuống thình lình, ngay tức thì.”14Chúa sẽ đập vỡ nó như chiếc bình của thợ gốm bể ra; Ngài sẽ chẳng tiếc nó, đến nỗi sẽ chẳng tìm được trong các mảnh vỡ nó một miếng đủ lớn để lấy lửa từ bếp hoặc để múc nước trong bình chứa. 15Vì đây là lời Chúa Giê-hô-va, Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên, phán: “Các ngươi được cứu khi quay trở lại và yên nghỉ; các ngươi được sức mạnh là nhờ yên lặng và tin cậy. Nhưng các ngươi lại không chịu.16Vì các ngươi bảo rằng: ‘Không, chúng tôi sẽ cưỡi ngựa chạy trốn,’ nên các ngươi sẽ trốn chạy; và rằng: ‘Chúng tôi sẽ phóng ngựa thật lẹ,’ nên những kẻ đuổi theo các ngươi cũng nhanh lẹ. 17Một người đe dọa sẽ khiến cả ngàn người chạy trốn; chỉ năm người đe dọa các ngươi sẽ tháo chạy cho đến khi số còn lại của các ngươi giống như trụ cờ chơ vơ trên đỉnh núi, hoặc như lá cờ trên ngọn đồi. 18Nhưng Giê-hô-va chờ đợi để thi ân cho các ngươi. Vậy nên Ngài sẽ được tôn cao, sẵn sàng thương xót các ngươi. Vì Giê-hô-va là Đức Chúa Trời công bình; phước cho người trông đợi Ngài. 19Vì sẽ có một dân sống tại Si-ôn, tức tại Giê-ru-sa-lem, và các ngươi sẽ chẳng khóc than nữa. Ngài hẵn sẽ khoan dung với các ngươi khi nghe tiếng ngươi kêu xin. Khi Ngài nghe thì Ngài sẽ đáp lời.20Cho dù Giê-hô-va ban cho các ngươi bánh hoạn nạn, nước tai vạ, thì thầy giáo các ngươi sẽ chẳng ẩn mặt nữa, mà chính mắt các ngươi sẽ thấy thầy mình21Khi các ngươi quay sang phải hay khi các ngươi ngoảnh sang trái, tai các ngươi sẽ nghe có tiếng nói đằng sau mình, rằng: “Đường đây, hãy theo đó mà đi.”22Các ngươi sẽ phế bỏ các tượng chạm dát bạc và tượng đúc vàng của mình. Các ngươi sẽ ném chúng đi như vật dơ dáy. Các ngươi sẽ bảo chúng: “Cút khỏi đây.”23Ngài sẽ ban mưa cho hạt giống các ngươi gieo xuống đất, và ban lương thực dư dật từ đất sinh ra. Mùa màng thu hoạch sẽ dồi dào.24Bò, lừa cày ruộng sẽ ăn rơm rạ chọn lọc mà người ta đã dùng xẻng và chỉa để xới ra.25Trên mọi núi cao, đồi cao sẽ có khe và suối nước tuôn chảy trong ngày tàn sát kinh khiếp, khi các ngọn tháp bị sụp đổ.26Ánh sáng của mặt trăng sẽ như ánh sáng mặt trời, còn ánh sáng mặt trời sẽ sáng hơn gấp bảy lần, giống như ánh sáng của bảy ngày. Giê-hô-va sẽ buộc lại chỗ bị gãy đổ của dân Ngài và chữa lành các thương tích Ngài đã gây ra cho họ.27Này, danh Giê-hô-va từ phương xa đến, bừng cháy vì cơn giận của Ngài và chìm ngập trong đám khói dày đặc. Môi Ngài đầy sự thạnh nộ, lưỡi Ngài như đám lửa thiêu nuốt.
28Hơi thở Ngài như dòng nước tràn dâng lên đến nửa cổ, để sàng sảy các dân bằng cái rây hủy diệt. Hơi thở Ngài là dây cương nơi hàm của các dân, khiến chúng đi lạc đường. 29Các ngươi sẽ hát như trong đêm người ta giữ lễ thánh, và vui sướng trong lòng, như khi người ta đem theo cây sáo đi đến núi của Giê-hô-va, tức đến Vầng Đá của Y-sơ-ra-ên. 30Giê-hô-va sẽ khiến các ngươi nghe thấy sự oai nghi của tiếng Ngài và tỏ ra cánh tay hành động của Ngài bằng cơn thạnh nộ dữ dội, bằng các ngọn lửa, kèm theo cuồng phong, mưa bão và mưa đá. 31Vì khi nghe tiếng Giê-hô-va, A-si-ri sẽ tan tành; Ngài sẽ đánh chúng bằng trượng.
32Và mỗi khi Giê-hô-va vung gậy đã định trên họ thì sẽ có tiếng nhạc của trống lắc và đàn hạc kèm theo khi Ngài giao tranh, chiến đấu với chúng. 33Vì một lò thiêu đã được sửa soạn từ lâu. Thật, nó được sắm sẵn cho vua, và Đức Chúa Trời đã làm ra nó vừa sâu vừa rộng. Giàn thiêu đã sẵn lửa và nhiều củi. Hơi thở của Giê-hô-va như dòng suối diêm sinh sẽ đốt cháy nó. 311Bất hạnh thay cho kẻ đi xuống Ai Cập cầu cứu, nhờ ngựa, cậy xe (vì chúng nhiều) và lính kỵ (vì chúng đông), nhưng lại chẳng quan tâm đến Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên, cũng không tìm kiếm Giê-hô-va!2Trong khi Ngài khôn ngoan, có quyền giáng họa, và không nuốt lời mình. Ngài sẽ trỗi dậy nghịch cùng nhà gian ác và cự địch những ai đồng lõa với kẻ phạm tội. 3Ai Cập chỉ là loài người, chẳng phải Đức Chúa Trời, ngựa chúng nó chỉ là thịt xương, chẳng phải thần. Khi Giê-hô-va đưa tay ra thì kẻ trợ giúp cũng vấp ngã, mà kẻ được trợ giúp cũng té nhào; cả hai sẽ cùng bị diệt vong. 4Đây là lời Giê-hô-va phán với tôi: “Như sư tử, thậm chí chỉ là sư tử tơ, gầm gừ trên con mồi bị xé thịt của mình, cho dù cả bọn chăn chiên có đến để hù dọa nó thì nó vẫn chẳng run sợ tiếng hù dọa hoặc rón rén bỏ đi khi nghe tiếng họ; thì cũng vậy, Giê-hô-va của các đạo binh sẽ xuống mà chiến đấu trên núi Si-ôn, trên ngọn đồi đó.5Chim khi đang bay thế nào thì Giê-hô-va của các đạo binh cũng sẽ che chở Giê-ru-sa-lem giống như vậy; Ngài sẽ che chở và giải cứu khi Ngài đi qua và sẽ bảo toàn nó. 6Hỡi dân Y-sơ-ra-ên, hãy quay về với Đấng các ngươi đã cự tuyệt.7Vì trong ngày đó mỗi người sẽ trừ khử các tượng thần bằng bạc, tượng thần bằng đồng do chính tay mình đã phạm tội tạo ra.8A-si-ri sẽ ngã dưới thanh gươm; một thanh gươm chẳng phải bởi con người sẽ tiêu diệt nó. Nó sẽ chạy trốn thanh gươm đó, và giới thanh thiếu niên nó sẽ phải thi hành lao động cưỡng bức.
9Vì kinh khiếp chúng sẽ mất hết lòng tin, và các quan tướng nó sẽ sợ hãi khi nhìn thấy cờ hiệu của Giê-hô-va.” — Đó là lời phán của Giê-hô-va, Đấng có lửa tại Si-ôn, có chảo lửa tại Giê-ru-sa-lem. 321Này, sẽ có một vua dùng sự công chính trị vì, còn các quan tướng lấy công lý mà cai trị.2Mỗi người sẽ như một chỗ núp gió, nơi tránh bão, như suối nước ở nơi khô hạn, như bóng che của vầng đá lớn trong một xứ mỏi mệt.
3Khi ấy, mắt của kẻ nhìn thấy sẽ chẳng bị mờ, tai của kẻ nghe sẽ nghe chăm chú. 4Kẻ hấp tấp sẽ suy xét chín chắn đầy hiểu biết, và người cà lăm sẽ nói rõ ràng thật dễ dàng.
5Kẻ ngu xuẩn sẽ không còn được kể là đáng tôn quý, kẻ lừa lọc sẽ không còn được gọi là người đạo đức.
6Vì kẻ ngu thì ăn nói ngu dại, mưu định trong lòng nó chỉ là công việc tà ác, vô đạo, và nó nói phạm Giê-hô-va cách sai trái. Nó khiến bụng kẻ đói trống rỗng, còn kẻ khát thì nó chẳng cho nước uống. 7Đường lối của kẻ lừa lọc là xấu xa. Nó nghĩ ra các mưu ác, dùng lời dối trá mà hãm hại kẻ nghèo, ngay cả khi kẻ nghèo nói lời phải.
8Còn người cao thượng thì suy tính những điều cao thượng; và nhờ các việc làm cao thượng mình mà người cứ đứng vững. 9Các ngươi hạng phụ nữ nhàn rỗi, hãy chờ dậy mà nghe tiếng Ta; các ngươi là bọn thiếu nữ vô tư lự, hãy nghe Ta nói,
10Vì, hỡi giới phụ nữ thảnh thơi kia, chỉ trong hơn một năm nữa thôi thì lòng tự tin các ngươi sẽ đổ xuống, vì mùa hái nho sẽ thất bát, vụ thu hoạch sẽ không còn.11Hỡi các phụ nữ nhàn hạ, hãy run sợ; hỡi những kẻ tự tin kia, hãy bối rối; hãy cỡi trang phục đẹp đẽ ra mà để mình trần; hãy lấy bao bố quấn ngang lưng.
12Các người sẽ than vãn về những cánh đồng tươi mát, về những cây nho sai quả.
13Xứ của dân ta sẽ mọc đầy gai gốc, tầm xuân, thậm chí trong các ngôi nhà từng một thời vui sướng tại một thành phố ăn chơi. 14Vì cung điện bị từ bỏ, thành đông đúc bị bỏ hoang; đồi và tháp canh sẽ thành ra hang động mãi mãi, nơi lừa rừng vui thú, và là đồng cỏ của bầy vật;
15cho đến khi Thần Linh từ trên đổ xuống trên chúng ta, đồng hoang trở thành đồng ruộng phì nhiêu, còn đồng ruộng phì nhiêu thì được xem như khu rừng.16Khi ấy, sự công bình sẽ ở trong hoang mạc; sự công chính sẽ ngụ trong đồng ruộng phì nhiêu.
17Việc làm của công chính sẽ là bình an; kết quả của công chính sẽ là sự yên tịnh và tin tưởng đời đời.
18Dân ta sẽ sống tại nơi ở bình an, trong những ngôi nhà an toàn, ở những nơi nghỉ ngơi yên tĩnh. 19Nhưng cho dù có mưa đá, khu rừng bị hủy phá, thành phố bị tang hoang,
20thì các ngươi, là kẻ gieo giống bên mọi dòng suối, kẻ cho bò và lừa mình ra đi ăn cỏ, vẫn sẽ được phước. 331Bất hạnh thay cho các ngươi, kẻ hủy diệt mà chưa bị hủy diệt! Bất hạnh thay cho các ngươi, kể bội phản mà chưa bị phản bội! Khi các ngươi thôi hủy diệt thì các ngươi sẽ bị hủy diệt. Khi các ngươi ngưng bội phản thì người ta sẽ phản bội các ngươi.2Giê-hô-va ôi, xin hãy khoan dung đối với chúng con; chúng con trông đợi Ngài. Xin Chúa làm cánh tay của chúng con mỗi buổi sáng, làm sự cứu rỗi của chúng con trong lúc khốn cùng. 3Nghe tiếng động lớn, các dân đều trốn chạy; khi Chúa trỗi dậy thì các nước chạy tứ tán.
4Chiến lợi phẩm các ngươi được gom lại như châu chấu tụ tập lại; châu chấu nhảy thể nào thì người ta cũng nhảy vồ chụp nó thể ấy. 5Giê-hô-va được tôn cao. Ngài ngự ở nơi cao. Ngài sẽ khiến cho Si-ôn đầy sự công bình, chính trực.
6Ngài sẽ là sự ổn định cho thời đại các ngươi, là ơn cứu rỗi tràn tuôn, là sự khôn ngoan cùng tri thức; sự kính sợ Giê-hô-va là châu báu Ngài. 7Kìa, các sứ thần của chúng đang kêu khóc trên đường phố; giới ngoại giao kỳ vọng hòa bình khóc lóc đắng cay.
8Đường lộ thì vắng vẻ; chẳng còn lữ khách. Hiệp ước bị vi phạm, nhân chứng bị coi khinh, và thành phố bị xem thường. 9Xứ sở khóc than, hao mòn đi; Li-ban bối rối và tàn héo; Sa-rôn giống như sa mạc phẳng lì; Ba-san và Cạt-mên thì trụi lá. 10Giê-hô-va phán: “Bấy giờ Ta sẽ trỗi dậy; bấy giờ Ta sẽ được nâng lên; bấy giờ Ta sẽ được tôn cao.
11Các ngươi thai nghén trấu, và các ngươi sinh ra gốc rạ; hơi thở các ngươi là lửa thiêu nuốt chính các ngươi.
12Các dân sẽ bị đốt cháy thành vôi, như bụi gai bị chặt và đốt đi. 13Các ngươi là kẻ ở xa, hãy nghe biết những gì Ta đã làm; còn các ngươi là kẻ ở gần, hãy biết sức mạnh Ta.”
14Những kẻ có tội tại Si-ôn sợ hãi; các kẻ vô đạo thì run rẩy. Ai trong chúng ta có thể ở cùng lửa hừng hực? Ai trong chúng ta có thể sống với lửa cháy đời đời? 15Đó là kẻ bước đi cách công chính và ăn nói thành thật; kẻ coi khinh lợi lộc do áp bức, từ chối nhận hối lộ, không mưu tính phạm tội bạo hành, chẳng chăm nhìn sự dữ.
16Ngươi sẽ sống ở nơi cao; chốn phòng vệ của ngươi sẽ là pháo đài bằng đá; đồ ăn, nước uống của ngươi sẽ được chu cấp. 17Mắt các ngươi sẽ chiêm ngưỡng vua trong vẻ đẹp của người; họ sẽ ngắm nhìn miền đất bao la.
18Lòng các ngươi sẽ hồi tưởng lại nỗi kinh hoàng; thầy dạy luật ở đâu, kẻ cân tiền bạc ở đâu? Kẻ đếm các đồn lũy ở đâu?
19Các ngươi sẽ không còn thấy những kẻ kênh kiệu, là dân nói thứ tiếng xa lạ mà các ngươi chẳng hiểu. 20Hãy nhìn xem Si-ôn, là thành của các kỳ lễ chúng ta; mắt các ngươi sẽ thấy Giê-ru-sa-lem là nơi ở yên tịnh, là lều trại không bị dời đi, các cọc nó sẽ không bao giờ bị nhổ, các dây chằng nó chẳng bao giờ đứt.
21Thay vào đó, Giê-hô-va trong sự oai nghi Ngài sẽ ở với chúng ta, tại một nơi có các sông, suối lớn. Sẽ chẳng có chiến hạm nào qua lại trên đó, cũng chẳng có tàu lớn nào đi qua. 22Vì Giê-hô-va là thẩm phán của chúng ta, Giê-hô-va là Đấng ban luật lệ, Giê-hô-va làm vua chúng ta. Ngài sẽ cứu chúng ta. 23Các dây buộc bị chùng; chúng không giữ chặt được cột buồm; chúng không thể giương buồm lên; khi người ta chia nhau vô vàn chiến lợi phẩm, thậm chí kẻ què cũng lấy được trong đó.
24Dân cư sẽ không nói: “Tôi bệnh;” những người sống ở đó sẽ được tha tội. 341Hỡi các nước, hãy đến gần mà nghe; hỡi các dân, hãy chú ý! Hãy nghe đây, hỡi đất cùng mọi loài sống trên đất, thế gian cùng mọi thứ ra từ đó.2Vì Giê-hô-va nổi giận với các nước, nổi thạnh nộ với quân đội của chúng; Ngài đã diệt sạch chúng, bỏ mặc cho chúng bị tàn sát. 3Thây của chúng sẽ bị để vậy mà không được chôn cất; mùi tử khí phảng phất khắp mọi nơi, còn núi non thì đầm đìa máu.
4Mọi ngôi sao trên trời sẽ lịm tắt và bầu trờ sẽ bị cuộn lại như cuốn sách; toàn bộ sao trời sẽ tàn lụi, như lá nho héo tàn rơi rụng, như trái vả chín rụng khỏi cây. 5Vì khi thanh gươm Ta đã uống no say trên trời thì, kìa, nó sẽ xuống hành hại Ê-đôm, là dân Ta để riêng ra đặng tiêu diệt.
6Gươm của Giê-hô-va nhỏ máu và vấy mỡ, là máu của chiên con và dê, là mỡ từ trái cật của chiên đực. Vì Giê-hô-va có một vật hiến tế ở Bốt-ra, một cuộc tàn sát lớn tại đất Ê-đôm. 7Bò rừng sẽ bị tàn sát cùng với chúng, bò tót tơ sẽ bị giết chết cùng với bò tót đã lớn. Đất chúng nó sẽ say vì máu, bụi tro chúng nó sẽ mập lên vì béo. 8Vì đó sẽ là ngày Giê-hô-va báo thù, là năm Ngài báo trả chúng nó vì cớ Si-ôn.
9Các khe suối Ê-đôm sẽ biến thành hắc ín, tro bụi nó thành lưu huỳnh, đất đai nó thành hắc ín bừng cháy.
10Nó sẽ cháy cả ngày lẫn đêm; khói nó sẽ bốc lên mãi; từ thế hệ này sang thế hệ khác nó sẽ là hoang địa; đời đời sẽ chẳng có ai đi qua đó. 11Chim rừng và thú hoang sẽ sống tại đó; loài cú và loài quạ sẽ làm tổ ở đó. Chúa sẽ giăng trên nó dây đo tàn phá và dây dọi hủy diệt.
12Giới quyền quý nó sẽ chẳng còn lại gì để có thể gọi là vương quốc, còn các quan tướng nó sẽ chẳng là gì cả. 13Gai gốc sẽ mọc um tùm trong cung đền nó, còn đồn lũy nó thì đầy tầm ma và cỏ dại. Nó sẽ thành chỗ trú của chó rừng, nơi ở của đà điểu.
14Thú hoang và linh cẩu sẽ tụ tập tại đó, dê rừng thì gọi nhau. Thú săn mồi ban đêm cũng ở đó và tìm được nơi nghỉ cho mình.
15Chim cú sẽ làm tổ, để trứng, ấp trứng cho nở và che chở con mình. Thật, ở đó loài diều hâu sẽ tụ tập lại, trống mái theo cặp. 16Hãy tìm kiếm trong sách của Giê-hô-va; sẽ chẳng thiếu loài nào. Chẳng con nào không đủ đôi; vì miệng Giê-hô-va đã truyền cho chúng, và thần linh Ngài đã nhóm chúng lại.17Ngài đã bắt thăm về chỗ của chúng, tay Ngài đã dùng dây đo phân ranh cho chúng. Chúng sẽ chiếm ngụ nơi ấy mãi mãi; chúng sẽ ở tại đó từ thế hệ này sang thế hệ khác. 351Chốn đồng hoang và A-ra-ba sẽ vui sướng; sa mạc sẽ hân hoan và trổ hoa như bông hồng.2Nó sẽ trổ thật nhiều bông và hân hoan vui mừng, ca hát; vinh quang của Li-ban sẽ được ban cho nó, cùng với sự rực rỡ của Cạt-mên và Sa-rôn; người ta sẽ thấy vinh quang của Giê-hô-va, sự chói lọi của Đức Chúa Trời chúng ta. 3Hãy khiến bàn tay yếu đuối nên mạnh, và làm cho vững đầu gối run rẩy.
4Hãy nói với những kẻ có lòng sợ hãi: “Phải mạnh mẽ lên, đừng nhát sợ! Kìa, Đức Chúa Trời các ngươi sẽ đến đem theo sự báo thù, cùng sự báo trả của Đức Chúa Trời. Ngài sẽ đến cứu chúng ta.” 5Lúc ấy mắt kẻ mù sẽ thấy, tai kẻ điếc sẽ nghe.
6Bấy giờ, kẻ què sẽ nhảy như con nai, lưỡi câm sẽ ca hát, vì nước phun ra từ A-ra-ba, khe suối chảy trong hoang mạc.
7Cát nóng bỏng sẽ biến thành hồ, đất khô cằn biến thành suối nước; tại nơi ở của chó rừng, nơi chúng vẫn nằm nghỉ, sẽ là cỏ xanh cùng với sậy và cói. 8Sẽ có một con đường gọi là Đường Thánh. Kẻ ô uế sẽ không đi trên đường. Mà đường sẽ dành cho kẻ bước đi trong đó. Chẳng có kẻ ngu dại nào đi trên đó.
9Sẽ chẳng có sư tử ở đó, cũng chẳng có thú dữ nào trên đường. 10Những kẻ được chuộc của Giê-hô-va sẽ trở về và đến Si-ôn ca hát, niềm hân hoan vĩnh cửu sẽ ở trên đầu họ; họ sẽ sung sướng, mừng vui; sự buồn rầu và than vãn sẽ trốn mất. 361Vào năm thứ mười bốn đời vua Ê-xê-chia, vua A-si-ri là San-chê-ríp tiến đánh mọi thành kiên cố của Giu-đa rồi chiếm lấy.2Sau đó vua A-si-ri sai quan tổng binh từ La-ki dẫn theo đạo quân hùng hậu đến gặp vua Ê-xê-chia tại Giê-ru-sa-lem. Hắn tới gần cống dẫn nước của ao thượng, trên con đường đến cánh đồng của những thợ giặt.3Các quan chức Y-sơ-ra-ên ra ngoài thành nói chuyện với chúng gồm Ê-li-a-kim, con trai Hinh-kia, quan giám cung, Sép-na, thư ký vua, và quan ký lục Giô-a, con trai A-sáp.4Viên tổng binh nói với họ: “Hãy nói với Ê-xê-chia rằng vua lớn, tức vua A-si-ri, nói thế này: ‘Lòng tin của ngươi dựa vào đâu vậy?5Ngươi chỉ phát biểu những lời vô ích, rằng mình có mưu luận và sức mạnh để đối đầu. Vậy, ngươi đang cậy vào ai nhỉ? Ai đã khiến ngươi cả gan phản loạn chống lại ta?6Kìa, ngươi đang cậy Ai Cập, là cây sậy giập nát ngươi dùng làm gậy chống, nhưng khi ai tựa vào nó, thì nó đâm thủng tay kẻ ấy. Pha-ra-ôn, vua Ai Cập, là vậy đó đối với người nào nương tựa nó.7Còn nếu ngươi đáp: “Chúng tôi tin cậy Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng tôi,” thì này, chẳng phải ngươi đã dẹp bỏ các đền miếu và bàn thờ của Ngài, rồi nói với Giu-đa và Giê-ru-sa-lem rằng: “Các ngươi phải thờ phượng trước bàn thờ này tại Giê-ru-sa-lem” đó sao?8Vậy nên, bây giờ, ta muốn gửi đến ngươi đề nghị này từ chúa thượng ta, là vua A-si-ri. Ta sẽ cho ngươi hai ngàn con ngựa, nếu ngươi có thể tìm đủ người cưỡi.9Liệu ngươi có thể chống lại thậm chí chỉ huy đạo quân ít ỏi nhất giữa vòng các đầy tớ của chúa thượng ta không? Vậy mà ngươi lại cậy vào Ai Cập để có xe binh và lính kỵ!10Rồi đâu phải ta đi lên đây để đánh diệt xứ này mà không có ý của Giê-hô-va? Giê-hô-va đã phán với ta: “Hãy tiến đánh xứ này rồi diệt nó đi.”’”11Lúc đó, Ê-li-a-kim, con trai Hinh-kia, cùng Sép-na và Giô-ách, nói với viên tổng binh: “Xin hãy dùng tiếng A-ram nói chuyện với các tôi tớ ông, vì chúng tôi hiểu được thứ tiếng ấy. Xin đừng nói với chúng tôi bằng thứ tiếng của dân Giu-đa vì nó sẽ vào tai của những người ở trên thành.”12Nhưng viên tổng binh đáp: “Phải chăng chủ ta phái ta đến nói những lời này với chủ các ngươi và chính các ngươi? Chẳng phải người phái ta đến nói với những kẻ ngồi trên thành đó, là kẻ sẽ ăn phân mình, uống nước tiểu của mình cùng với các ngươi sao?”13Rồi viên tổng binh đứng nói lớn bằng thứ tiếng của dân Giu-đa, rằng: “Hãy nghe lời của vua lớn, tức vua A-si-ri.14Vua bảo: ‘Chớ để Ê-xê-chia lừa dối các ngươi, vì hắn sẽ không thể giải cứu các ngươi đâu.15Đừng để Ê-xê-chia dụ các ngươi tin cậy Giê-hô-va, rằng: “Giê-hô-va hẵn sẽ giải cứu chúng ta; thành sẽ chẳng bị phó vào tay vua A-si-ri đâu.”’16Đừng nghe theo Ê-xê-chia, vì đây là lời vua A-si-ri: ‘Hãy làm hòa với ta và bỏ thành mà ra gặp ta. Rồi mọi người trong các ngươi sẽ được ăn trái của cây nho, trái của cây vả mình, uống nước từ trong bình mình.17Các ngươi sẽ được vậy cho đến khi ta đến đem các ngươi vào một xứ giống như chính xứ của các ngươi đây, là xứ có ngũ cốc và rượu mới, xứ có bánh và vườn nho.’18Chớ để Ê-xê-chia dẫn dụ các ngươi, rằng: ‘Giê-hô-va sẽ giải cứu chúng ta.’ Có thần nào của các dân đã giải cứu họ khỏi quyền lực của vua A-si-ri chưa?19Các thần của Ha-mát và Ạt-bát đâu rồi? Rồi các thần của Sê-phạt-va-im ở đâu? Chúng có giải cứu Sa-ma-ri khỏi sức mạnh của ta chăng?20Trong số mọi thần của các xứ đó, có thần nào giải cứu được xứ nó khỏi quyền lực ta, để rồi Giê-hô-va cũng có thể giải cứu Giê-ru-sa-lem khỏi quyền lực ta?”21Nhưng dân chúng im lặng, chẳng đáp lại, vì lệnh của vua là: “Đừng đáp lời hắn.”22Rồi Ê-li-a-kim, con trai Hinh-kia, quan giám cung, thư ký Sép-na, cùng quan ký lục Giô-a, con trai A-sáp, đến gặp vua, quần áo rách tươm, thuật lại cho vua nghe những lời của quan tổng binh. 371Khi vua Ê-xê-chia nghe lời tường thuật của họ, vua xé áo mình và lấy vải thô mặc vào, rồi đi đến nhà của Giê-hô-va.2Vua sai Ê-li-a-kim, quan giám cung, thư ký Sép-na, cùng các trưởng lão trong giới thầy tế lễ, tất cả đều mặc vải thô, đến gặp tiên tri Ê-sai, con trai A-mốt.3Họ nói với ông “Vua Ê-xê-chia bảo: ‘Đây là ngày tai họa, quở phạt và sỉ nhục, giống như khi đứa bé sắp ra đời mà người mẹ lại không đủ sức sinh con mình ra.4Có lẽ Giê-hô-va Đức Chúa Trời ông sẽ nghe lời của quan tổng binh được chủ hắn là vua A-si-ri sai đến để thách thức Đức Chúa Trời hằng sống và sẽ quở phạt các lời mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ông đã nghe. Giờ đây xin ông hãy dâng lời cầu nguyện vì số người sót lại vẫn còn ở đây.’”5Vậy là các tôi tớ của Ê-xê-chia đến gặp Ê-sai,6và Ê-sai bảo họ: “Hãy nói với chúa thượng các ngươi thế này: ‘Giê-hô-va phán: “Đừng sợ vì những lời mà các ngươi đã nghe các tôi tớ vua A-si-ri nói phạm đến Ta.7Này, Ta sẽ đặt một linh trong nó, để nó sẽ nghe thuật lại thế này thế nọ, và sẽ quay về xứ. Ta sẽ khiến nó ngã chết vì gươm ngay tại trong xứ mình.”8Khi đó, quan tổng binh trở về và thấy vua A-si-ri đang đánh Líp-na, vì hắn nghe tin vua đã rút khỏi La-ki.9Rồi San-chê-ríp nghe Tiệt-ha-ca, vua Ê-thi-ô-bi và Ai Cập, đã huy động quân đánh mình, nên hắn lại sai sứ giả đến gặp Ê-xê-chia, với lời lẽ thế này:10“Hãy bảo Ê-xê-chia, vua Giu-đa: ‘Chớ để Đức Chúa Trời mà ngươi tin cậy đánh lừa ngươi, rằng: “Giê-ru-sa-lem sẽ chẳng bị phó vào tay vua A-si-ri.”11Này, ngươi đã nghe những gì các vua A-si-ri đã làm cho mọi xứ khi diệt sạch chúng. Còn ngươi sẽ được giải cứu sao?12Thần của các dân tộc mà cha ông ta đã tiêu diệt, như Gô-xan, Cha-ran, Rết-sép, và dân Ê-đen tại Tê-la-sa – những thần đó có cứu được chúng không?13Vua của Ha-mát, vua của Ạt-bát, vua của các thành Sê-phạt-va-im, của Hê-na, và Y-va đâu cả rồi?’”14Ê-xê-chia nhận thư từ các sứ giả và đọc. Rồi vua đi lên nhà của Giê-hô-va mở bức thư ra trước mặt Ngài.15Ê-xê-chia cầu nguyện cùng Giê-hô-va, rằng:16“Lạy Giê-hô-va của các đạo binh, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, Chúa ngự trên các chê-ru-bin, chỉ một mình Ngài là Đức Chúa Trời tể trị mọi vương quốc trên đất. Chúa đã dựng nên trời, đất.17Giê-hô-va ôi, xin hãy lắng tai nghe. Giê-hô-va ôi, xin mãy mở mắt xem, và nghe các lời của San-chê-ríp, là lời hắn đã gửi đến chế nhạo Đức Chúa Trời hằng sống.18Ôi, Giê-hô-va, đúng là các vua A-si-ri đã hủy diệt mọi dân cùng xứ sở của họ.19Chúng đã quăng hết các thần của họ vào lửa, vì đó đâu phải thần thánh gì mà chỉ là công việc bằng gỗ, bằng đá do tay người ta làm ra. Vậy nên người A-si-ri mới diệt chúng được.20Giờ đây, hỡi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng con, hãy cứu chúng con khỏi quyền lực của hắn, để mọi nước trên đất biết rằng chỉ một mình Ngài là Giê-hô-va.”21Bấy giờ, Ê-sai, con trai A-mốt, gửi một sứ điệp cho vua Ê-xê-chia, rằng: “Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán: ‘Vì ngươi đã cầu nguyện với Ta về San-chê-ríp, vua A-si-ri,22cho nên đây là lời của Giê-hô-va phán về nó: “Trinh nữ Si-ôn khinh bỉ ngươi, nhạo cười ngươi; con gái Giê-ru-sa-lem lắc đầu về ngươi.23Ngươi thách thức và xúc phạm ai? Ngươi đã lên giọng và nhướng mắt chống lại ai một cách kiêu ngạo? Ấy là Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên đó. 24Ngươi đã dùng các tôi tớ mình mà thách thức Chúa, rằng: ‘Nhờ có nhiều binh xa mà ta đã lên được các chót núi, những đỉnh cao ngất của Li-ban. Ta sẽ đốn hạ những cây bá hương cao vút, cùng cây tùng, cây bách đẹp đẽ nhất của nó tại đó, và Ta sẽ vào những vùng cao xa xôi nhất, tức rừng cây sai quả của nó.
25Ta đã đào giếng và uống nước xứ lạ; ta đã làm khô cạn mọi dòng sông của Ai Cập dưới lòng bàn chân mình.’ 26Ngươi chưa từng nghe biết Ta đã định việc đó từ lâu và đã phác thảo nó từ ngàn xưa sao? Giờ thì Ta đang biến nó thành hiện thực. Ngươi có mặt ở đây để khiến các thành quách vững chắc ra đống đổ nát.
27Dân cư chúng nó, vốn sức mọn, bị tan tác và sỉ nhục. Chúng như cây ngoài đồng, như cỏ xanh, là cỏ trên mái nhà hoặc cỏ ngoài đồng, trước gió đông. 28Nhưng ta biết khi ngươi ngồi xuống, khi ngươi đi ra, đi vào, khi ngươi nổi giận với Ta.
29Vì cớ ngươi nổi giận với Ta, và vì sự ngạo mạn của ngươi đã đến tai ta, nên ta sẽ xỏ móc Ta vào mũi ngươi, tra khớp Ta vào miệng ngươi; Ta sẽ khiến ngươi trở về bằng con đường mà ngươi đã đến.” 30Đây sẽ là dấu hiệu cho ngươi: Năm nay các ngươi sẽ ăn hoa quả mọc hoang, rồi trong năm thứ hai, ăn những gì từ đó sinh ra. Nhưng đến năm thứ ba các ngươi phải trồng tỉa và gặt hái, trồng vườn nho và ăn trái nó.31Dân còn sót còn lại của nhà Giu-đa sẽ đâm rễ và sinh trái.
32Vì từ Giê-ru-sa-lem sẽ ra một dân sót; từ núi Si-ôn sẽ xuất hiện số người sống sót.’ Lòng nhiệt thành của Giê-hô-va của các đạo binh sẽ làm việc này.” 33Vì vậy, Giê-hô-va phán lời này về vua A-si-ri: “Nó sẽ chẳng vào trong thành, cũng chẳng bắn một mũi tên nào ở đây. Nó cũng sẽ không đem thuẫn đến trước thành, cũng không dựng lũy công hãm thành.34Nó sẽ theo con đường mình đã đến mà trở về; nó sẽ không vào thành. Đó là lời rao báo của Giê-hô-va. 35Vì Ta sẽ bảo vệ thành này và giải cứu nó, vì cớ chính mình và vì Đa-vít, tôi tớ Ta.” 36Lúc ấy, thiên sứ của Giê-hô-va đi ra tấn kích trại của quân A-si-ri, giết chết 185. 000 lính. Khi người ta dậy vào lúc sáng sớm thì thấy xác chết vương vãi khắp nơi.37Vậy là San-chê-ríp, vua A-si-ri, bỏ Y-sơ-ra-ên trở về quê nhà và ở tại Ni-ni-ve.38Về sau, khi hắn đang thờ phụng trong đền của thần mình là Nít-róc, thì hai con trai hắn là A-tra-mê-léc và Sa-rết-se lấy gươm giết chết hắn. Rồi chúng trốn thoát vào xứ A-ra-rát. Ê-sạt-ha-đôn, con trai hắn, nối ngôi trị vì. 381Trong giai đoạn đó, Ê-xê-chia mắc bệnh gần chết. Vậy, tiên tri Ê-sai, con trai A-mốt, đến gặp vua, nói với vua: “Giê-hô-va phán: ‘Hãy thu xếp việc nhà đi, vì con sẽ chết chứ chẳng sống đâu.’”2Ê-xê-chia quay mặt vào tường cầu nguyện cùng Giê-hô-va.3Vua thưa: “Ôi, Giê-hô-va, xin hãy nhớ lại thể nào con đã trọn đời trung tín bước đi trước mặt Chúa, cũng như đã làm điều thiện trước mặt Ngài ra sao.” Rồi Ê-xê-chia khóc nức nở.4Lúc đó, có lời của Giê-hô-va đến với Ê-sai, rằng:5“Hãy đến nói với Ê-xê-chia, kẻ dẫn dắt dân Ta, rằng: ‘Đây là lời Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của tổ phụ Đa-vít ông: Ta đã nghe lời cầu nguyện của con, và đã thấy nước mắt con. Này, Ta sẽ thêm cho đời con mười lăm năm nữa.6Ta cũng sẽ giải cứu con cùng thành này khỏi quyền lực của vua A-si-ri, và sẽ bảo vệ thành.7Đây là dấu hiệu Ta, Giê-hô-va, ban cho con, cho thấy Ta sẽ thực hiện điều Ta đã phán:8Này, Ta sẽ khiến bóng trên cầu thang của A-cha lùi lại mười bậc.” Vậy là bóng lùi lại mười nấc trên cầu thang mà nó đã đi qua.9Còn đây là lời cầu nguyện được ghi lại của Ê-xê-chia, vua Giu-đa, sau khi vua mắc bệnh và rồi được khỏi:10“Tôi đã nói rằng mới sống được nửa đời mình sẽ đi qua các cửa âm phủ; mình phải đến đó sống phần đời còn lại.11Tôi đã nói mình sẽ chẳng còn nhìn thấy Giê-hô-va, tức Giê-hô-va trên đất của kẻ sống; mình sẽ chẳng còn được nhìn nhân gian hay dân cư trần thế. 12Cuộc đời tôi bị cất khỏi tôi và mang đi như túp lều của kẻ chăn chiên; Tôi đã cuốn cuộc đời mình lại như người thợ dệt; Chúa sắp cắt đứt tôi khỏi khung củi; giữa ngày và đêm, Chúa sắp kết liễu cuộc đời tôi.
13Tôi kêu la cho đến sáng; Chúa bẻ gãy hết các xương tôi như sư tử; giữa ngày và đêm, Chúa sẽ dứt mạng sống tôi đi 14Tôi kêu chiêm chiếp như chim nhạn; tôi gù như chim bồ câu; mắt tôi mòn mỏi vì ngước nhìn lên. Ôi Chúa, con bị đè ép; xin cứu giúp con.15Tôi sẽ nói gì đây? Ngài đã phán với tôi, và Ngài cũng đã thực hiện; tôi sẽ bước đi chậm rãi trọn các năm tháng mình vì tôi quá thảm sầu. 16Ôi, Chúa, các nỗi đau đớn mà Chúa đưa đến thật có ích cho con; xin hãy ban lại cho con mạng sống mình; Chúa đã phục hồi sự sống và sức khỏe con.
17Chính vì ích lợi của mình mà con đã trãi qua nỗi đau buồn đó. Chúa đã cứu con khỏi hầm hủy diệt; vì Ngài đã quăng hết mọi tội con ra sau lưng Ngài. 18Vì âm phủ chẳng biết cảm tạ Chúa; những kẻ xuống vực không còn trông cậy nơi sự thành thật của Ngài.
19Kẻ sống, chỉ người sống, mới biết dâng lời cảm tạ Chúa, như con làm ngày nay; người cha sẽ cho con cái mình biết sự chân thật của Chúa. 20Giê-hô-va sẽ cứu tôi, và chúng tôi sẽ đàn ca vui mừng trọn những ngày của cuộc đời mình trong nhà của Giê-hô-va.” 21Trước đó, Ê-sai có bảo: “Hãy lấy một bánh trái vả đắp lên chỗ ung nhọt, thì vua sẽ được lành.”22Ê-xê-chia cũng có hỏi: “Có dấu hiệu nào cho thấy ta sẽ được lên nhà của Giê-hô-va?” 391Vào thời đó, Mê-rô-đác Ba-la-đan, con trai Ba-la-đan, vua Ba-by-lôn, gửi thư và lễ vật cho Ê-xê-chia, vì hắn có nghe tin vua đau nhưng được bình phục.2Ê-xê-chia rất hài lòng về việc này; vua cho các sứ giả xem kho chứa các báu vật mình — những món đồ bằng bạc, bằng vàng, hương liệu, dầu quý, kho chứa vũ khí, cùng mọi thứ khác có trong các kho chứa của vua. Chẳng có thứ gì trong cung hoặc trong cả vương quốc mà Ê-xê-chia không cho chúng xem.3Vậy, tiên tri Ê-sai đến gặp vua Ê-xê-chia, hỏi: “Những người đã đó nói gì với vua? Họ từ đâu đến vậy?” Ê-xê-chia đáp: “Họ đến từ phương xa, từ đất nước Ba-by-lôn.”4Ê-sai hỏi: “Họ đã xem gì trong cung vua?” Ê-xê-chia đáp: “Họ xem mọi thứ trong cung ta. Chẳng có thứ quý giá nào của ta mà ta không cho họ xem.”5Vậy là Ê-sai nói với Ê-xê-chia: “Xin vua hãy nghe lời của Giê-hô-va của các đạo binh đây:6‘Này, sắp đến ngày mọi vật trong cung ngươi, các thứ mà tổ phụ ngươi đã chứa trong kho cho đến ngày nay, sẽ bị lấy đem qua Ba-by-lôn. Sẽ chẳng còn thứ gì cả, Giê-hô-va phán.7Và các con trai từ ngươi mà ra, gọi ngươi là cha — chúng sẽ bị bắt đi, và chúng sẽ trở thành các thái giám trong cung vua Ba-by-lôn.’”8Ê-xê-chia đáp lại Ê-sai: “Lời của Giê-hô-va mà ông đã nói ra đó tốt lắm.” Vì vua nghĩ: “Thời mình vẫn còn thanh bình, ổn định.” 401Đức Chúa Trời phán: “Hãy yên ủi, hãy yên ủi dân Ta.2Hãy nói dịu dàng với Giê-ru-sa-lem; và loan báo cho nó rằng việc tranh chiến của nó đã dứt, tội lỗi nó đã được tha, và nó đã phải nhận chịu gấp đôi từ tay Giê-hô-va vì mọi tội lỗi mình. 3Có tiếng kêu lên: “Hãy sửa soạn con đường của Giê-hô-va trong hoang mạc; ở A-ra-ba, hãy làm thẳng đường lộ cho Đức Chúa Trời chúng ta.”
4Mọi thung lũng sẽ được nâng lên, mọi núi đồi sẽ bị san phẳng; đất gồ ghề sẽ được ban bằng, những chỗ gập ghềnh sẽ thành chốn phẳng phiu;
5vinh quang của Giê-hô-va sẽ được bày tỏ, và mọi người sẽ cùng được nhìn thấy, vì miệng của Giê-hô-va đã phán điều đó.6Có tiếng bảo: “Hãy hô lên.” Một tiếng khác đáp: “Tôi phải hô gì đây?” “Mọi xác phàm đều là cỏ, và mọi sự thành tín của người ta khác nào bông hoa ngoài đồng.
7Cỏ khô, hoa tàn khi hơi thở của Giê-hô-va thổi trên nó; thật loài người chỉ là cỏ thôi.
8Cỏ khô, hoa tàn, nhưng lời Đức Chúa Trời sẽ còn mãi.” 9Hỡi Si-ôn, kẻ đem tin mừng, hãy lên một ngọn núi cao; hãy ra sức cất tiếng lên; hãy loan tin mừng cho Giê-ru-sa-lem. Hãy kêu lên thật lớn; đừng sợ hãi.
10Hãy nói với các thành của Giu-đa: “Đức Chúa Trời ngươi ở đây!” Kìa, Chúa Giê-hô-va hiện đến như người chiến binh thắng trận, và Ngài dùng cánh tay mạnh mẽ mình mà cai trị. Kìa, phần thưởng của Ngài ở cùng Ngài, và những kẻ Ngài đã cứu đi trước Ngài. 11Ngài sẽ nuôi đàn chiên Ngài như người chăn; Ngài sẽ gom chiên con vào tay mình rồi ôm chúng vào lòng, và dịu dàng dắt chiên cái đang nuôi con. 12Ai đã từng dùng lòng bàn tay đong nước, từng đo vòm trời, từng chứa bụi đất trong giỏ, từng cân núi trên bàn cân, từng cân đồi trên cán cân? 13Ai đã hiểu được tâm trí của Giê-hô-va, hoặc làm người cố vấn chỉ bảo Ngài?
14Ngài đã tiếp nhận lời chỉ giáo của ai? Ai đã hướng dẫn Ngài cách làm việc này, việc nọ, và dạy Ngài tri thức, hoặc chỉ cho Ngài cách đạt đến sự hiểu biết? 15Kìa, các nước như một giọt nước trong thùng, khác nào bụi trên bàn cân; kìa, Chúa cân các hòn đảo như hạt bụi.
16Li-ban không có đủ củi lửa, thú hoang nó cũng không đủ để làm của lễ thiêu.
17Mọi nước đều thiếu kém trước mặt Ngài; Ngài xem họ chẳng là gì cả. 18Vậy thì các ngươi ví Đức Chúa Trời với ai? Các ngươi sẽ so Ngài với tượng thần nào?
19Hình tượng — một người thợ đúc ra nó; người thợ bạc dùng vàng bọc nó lại rồi làm dây chuyền đeo cho nó.
20Để dâng lễ vật, người ta chọn một khúc cây không mục nát; rồi tìm một thợ khéo để tạc ra một hình tượng đứng được mà không ngã. 21Các ngươi chưa biết sao? Các ngươi chưa nghe sao? Từ ban đầu người ta chưa nói cho các ngươi sao? Từ khi lập nền trái đất các ngươi vẫn chưa hiểu sao?
22Chúa là Đấng ngự trên vòng trái đất; dân cư khác nào cào cào trước mặt Ngài. Chúa trương các tầng trời ra như bức màn và giăng nó ra như chiếc lều để ở. 23Ngài làm cho các vua chúa ra hư không, khiến những kẻ cai trị trên đất nên tầm thường.
24Kìa, chúng chỉ mới được trồng; kìa, chúng chỉ mới được gieo; kìa, chúng chưa kịp đâm rễ xuống đất thì Ngài thổi trên chúng nó, và chúng nó héo tàn, rồi gió thổi chúng đi như trấu. 25Đấng Thánh phán: “Vậy, các ngươi sẽ so Ta với ai? Ta giống như đấng nào?”
26Hãy nhìn lên trời! Ai đã tạo ra mọi tinh tú kia? Ngài tạo ra chúng theo nhóm và gọi đích danh từng vì sao. Nhờ sức mạnh vĩ đại và quyền năng lớn lao của Chúa mà chẳng thiên thể nào bị thiếu mất. 27Hỡi Gia-cốp, sao ngươi nói, và hỡi Y-sơ-ra-ên, sao ngươi dám tuyên bố, rằng: “Đường lối tôi bị khuất khỏi mắt Giê-hô-va; Đức Chúa Trời tôi chẳng quan tâm bênh vực tôi?”
28Các ngươi chưa biết sao? Các ngươi chưa nghe sao? Đức Chúa Trời đời đời, tức Giê-hô-va, Đấng tạo dựng các chốn tận cùng trái đất, chẳng mệt nhọc hay mòn mỏi; sự hiểu biết của Ngài là vô hạn. 29Ngài ban năng lực cho kẻ mệt nhọc, và sức mới cho kẻ yếu sức.
30Thậm chí người trẻ tuổi cũng mệt nhọc, mòn mỏi, giới thanh niên cũng vấp váp, té ngã;
31nhưng ai trông đợi Giê-hô-va sẽ phục hồi sức lực; họ sẽ bay lượn như chim đại bàng; họ sẽ chạy mà không mệt nhọc; họ sẽ đi mà không đuối sức. 411“Các ngươi là những xứ vùng duyên hải, hãy yên lặng mà nghe; ước gì các dân phục hồi sức mạnh; ước gì chúng đến gần và lên tiếng; mong sao chúng ta cùng đến gần mà tranh luận.2Ai đã khích động kẻ này từ phương đông? Ai triệu tập người đến phục vụ đúng thể thức? Ngài phó các dân vào tay người và khiến người khuất phục các vua; người dùng gươm khiến họ ra như bụi, dùng cung khiến họ ra như gốc rạ bị gió thổi. 3Người săn đuổi chúng, vượt qua cách an toàn, theo con đường thần tốc mà bàn chân người hầu như không chạm đến.
4Ai đã thi hành và hoàn tất các việc này? Ai đã triệu tập các thế hệ từ ban đầu? Ấy chính Ta, Giê-hô-va, Đấng trước hết và cũng có mặt với những kẻ cuối cùng. 5Các đảo đã thấy và sợ hãi; các vùng đất xa xăm run rẩy; chúng tiến lại và đến nơi.
6Ai cũng giúp đỡ người ở cạnh mình; mọi người đều nói với nhau: ‘Hãy vững lòng.’
7Thợ mộc khích lệ thợ vàng, thợ dùng búa khích lệ thợ dùng đe, khi nói về mối hàn, rằng: ‘Tốt lắm.’ Họ dùng đinh giữ chặt để nó khỏi ngã nhào. 8Nhưng ngươi là Y-sơ-ra-ên, tôi tớ Ta, là Gia-cốp mà Ta đã chọn, là dòng dõi của Áp-ra-ham, bạn hữu Ta,
9là kẻ Ta đã đem về từ những nơi tận cùng của trái đất, kẻ Ta đã gọi từ những nơi xa xăm, kẻ mà Ta đã bảo: ‘Con là đầy tớ Ta;’ Ta đã chọn con, chẳng khước từ con.10Đừng sợ, vì Ta ở với con. Đừng lo lắng, vì Ta là Đức Chúa Trời con. Ta sẽ ban sức cho con, Ta sẽ giúp đỡ con, và Ta sẽ dùng tay phải toàn thắng của Ta mà nâng đỡ con. 11Này, mọi kẻ nổi giận với con — chúng sẽ hổ thẹn và bị sỉ nhục; những kẻ chống đối con — chúng sẽ chẳng là gì cả và sẽ tiêu vong. 12Con sẽ tìm nhưng chẳng thấy các kẻ đối địch mình; những kẻ tranh chiến với con sẽ chẳng là gì, hoàn toàn chẳng là gì cả.
13Vì Ta, Giê-hô-va Đức Chúa Trời của con, sẽ nắm tay phải con, và nói với con: ‘Đừng sợ; Ta đang giúp con đây.’ 14Đừng sợ, hỡi sâu bọ Gia-cốp, hỡi những người Y-sơ-ra-ên; Ta sẽ giúp đỡ các ngươi” — đó là lời tuyên bố của Giê-hô-va, Đấng Cứu Chuộc các ngươi, Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên.
15“Này, ta khiến ngươi ra giống chiếc xe tuốt lúa mới với hai cạnh sắc bén; các ngươi sẽ tuốt các ngọn núi và nghiền nát chúng; các ngươi sẽ khiến các đồi ra giống như trấu. 16Các ngươi sẽ sàng sảy chúng, rồi gió sẽ đùa chúng đi; gió sẽ khiến chúng tan tác. Các ngươi sẽ vui mừng nơi Giê-hô-va, các ngươi sẽ vui mừng nơi Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên. 17Những kẻ bị áp bức, thiếu thốn tìm kiếm nước mà chẳng có, nên lưỡi họ khô rốc vì khát; Ta, Giê-hô-va, sẽ đáp lời cầu xin của họ; Ta, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, sẽ chẳng từ bỏ họ.
18Ta sẽ tạo ra các dòng suối chảy xuống triền núi, những con suối chính giữa thung lũng; Ta sẽ biến sa mạc thành cái ao, và vùng đất khô thành suối nước. 19Trong đồng hoang sẽ mọc lên cây tuyết tùng, cây keo, cây thường xanh, và cây ô liu; Ta sẽ khiến trong sa mạc mọc lên cây tùng, cây thông và cây bách.
20Ta làm vậy để người ta thấy, nhận ra, và cùng hiểu, rằng chính tay Giê-hô-va đã làm việc này, rằng Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên đã tạo ra nó. 21Giê-hô-va phán: “Hãy trình bày trường hợp của các ngươi.” Vua của Gia-cốp phán: “Hãy đưa ra những lập luận vững chắc nhất bênh vực các tượng thần mình đi.”
22Hãy để chúng trình bày cho chúng ta lý lẽ riêng của chúng; hãy để chúng lên công bố cho chúng ta việc sẽ xảy ra, để chúng ta biết rõ những việc này. Hãy để chúng nói cho chúng ta biết về những lời tiên báo trước đây, để chúng ta có thể ngẫm nghĩ các việc đó và biết nó được ứng nghiệm thế nào. 23Hãy nói về những việc tương lai để chúng ta biết các ngươi đúng là thần; hãy làm điều gì đó, thiện ác gì cũng được, để chúng ta sợ hãi và cảm kích.
24Kìa, tượng thần các ngươi không ra gì, và công việc các ngươi làm cũng chẳng được chi. Ai chọn lựa các ngươi thật đáng kinh tởm. 25Ta đã khiến xuất hiện một kẻ từ phương bắc, và nó đến; từ hướng mặt trời mọc ta gọi đến kẻ biết kêu cầu danh Ta, và nó sẽ giẫm đạp các vua chúa như bùn đất, như người thợ gốm giẫm đạp lên đất sét.
26Ai đã loan báo việc này từ ban đầu, để chúng ta biết? Và đã loan tin ấy trước khi có thời gian, để chúng ta nói rằng: “Người nói đúng?” Thật, chẳng ai trong chúng nó ban lệnh; thật, chẳng ai nghe các ngươi nói gì. 27Ta trước hết đã nói với Si-ôn: “Này, chúng đây”; Ta đã sai người loan tin đến Giê-ru-sa-lem.
28Khi ta nhìn xem thì chẳng có người nào, chẳng ai trong chúng nó có lời luận bàn khôn ngoan, tức kẻ có thể đáp lại khi Ta hỏi.
29Kìa, tất cả chúng đều không là gì; và công việc chúng làm cũng chẳng ra chi; hình tượng đúc của chúng nó chỉ là gió và rỗng tuếch. 421Kìa, tôi tớ Ta, kẻ Ta nâng đỡ; kẻ được Ta lựa chọn, kẻ Ta lấy làm vui thích. Ta đã đặt Thần Ta trên người; người sẽ đem lại sự công chính cho các dân.2Người sẽ không kêu gào hoặc la hét, cũng không cố khiến cho tiếng mình được nghe thấy ngoài phố. 3Người sẽ không bẻ cây sậy bị giập, người không dập tắt tim đèn sắp tàn; người sẽ trung tín thi hành sự công chính.
4Người sẽ không mệt mỏi, ngã lòng cho đến khi đã thiết lập nền công chính trên đất; các xứ ven biển sẽ trông chờ luật pháp của người. 5Đây là lời phán của Đức Chúa Trời, tức Giê-hô-va, Đấng tạo nên các tầng trời và giăng nó ra; Đấng trải đất ra và ban sự sống trong đất; Đấng ban hơi thở cho loài người trên đất, ban sự sống cho cư dân nó:
6“Ta, Giê-hô-va, Đấng đã kêu gọi con trong sự công chính và sẽ nắm tay con. Ta sẽ gìn giữ con và đặt con làm giao ước cho dân này, làm ánh sáng cho các dân ngoại,7để mở mắt kẻ mù, giải thoát kẻ tù tội khỏi ngục, kẻ ngồi trong bóng tối ra khỏi chốn giam cầm.8Ta là Giê-hô-va, đó là danh Ta; Ta sẽ không nhường bớt vinh quang mình cho ai khác, cũng không san sẻ lòng tôn kính Ta cho tượng chạm.
9Này, những việc về trước đã ứng nghiệm, giờ đây Ta sẽ công bố những sự việc sau này. Trước khi chúng khởi diễn ra thì Ta sẽ nói cho các ngươi biết.” 10Hỡi các kẻ đi biển, cùng mọi vật dưới biển; hỡi các vùng đất ven biển cùng dân cư ở đó, hãy hát cho Giê-hô-va một bài ca mới, hãy từ nơi đầu cùng đất hát ca ngợi Ngài.”
11Nguyện sa mạc và chốn thị thành la lên, và các làng mạc nơi dân Kê-đa sống reo vui! Nguyện các dân cư Sê-la ca hát; hãy để chúng reo hò từ trên các đỉnh núi. 12Nguyện chúng dâng vinh quang cho Giê-hô-va, và công bố sự ngợi khen Ngài tại các vùng duyên hải.
13Giê-hô-va sẽ ra trận như một chiến binh; Ngài sẽ tiến lên như người lính chiến. Ngài sẽ giục lòng hăng say mình. Ngài sẽ la lớn, phải, Ngài sẽ thét lên tiếng hô xung trận; Ngài sẽ cho quân thù chứng kiến năng lực Ngài. 14Ta nín lặng đã lâu; Ta vẫn còn nín lặng và kìm nén; giờ thì Ta sẽ la lên như người phụ nữ chuyển dạ; Ta sẽ thở hổn hển, gấp gáp.
15Ta sẽ phá tan núi đồi và làm cây cỏ chúng nó khô héo; Ta sẽ biến các dòng sông thành đảo, và khiến các đầm lầy khô cạn. 16Ta sẽ đưa kẻ mù đi theo con đường chúng không rành; Ta sẽ dắt chúng đi trên các lối chúng chưa biết. Ta sẽ biến bóng tối thành ánh sáng trước mặt chúng, khiến các nơi khúc khuỷu ra ngay thẳng. Ta sẽ làm các việc này, Ta không bỏ đâu. 17Những kẻ cậy nơi tượng chạm, và nói với tượng đúc rằng: “Người là thần tôi” — chúng sẽ phải quay trở lui, chúng sẽ phải rất xấu hổ. 18Các ngươi là kẻ điếc, hãy nghe đây; các ngươi là kẻ mù, hãy nhìn để mà thấy.
19Ai bị mù, nếu không phải là đầy tớ Ta? Hoặc điếc như sứ giả Ta sai phái? Ai bị mù như kẻ Ta đã lập giao ước với họ, hoặc mù như đầy tớ của Giê-hô-va? 20Ngươi nhìn thấy nhiều điều mà lại chẳng hiểu: tai vẫn mở, mà chẳng ai nghe.
21Giê-hô-va lấy làm vui mà tán dương sự công chính Ngài và tôn vinh luật pháp Ngài. 22Nhưng đây là một dân đã bị cướp bóc, chiếm đoạt; chúng đều bị sập hố, bị giam trong tù; chúng ta trở thành vật bị cưỡng đoạt mà chẳng có ai giải cứu, hoặc nói: “Hãy đem chúng về!” 23Ai giữa vòng các ngươi chịu nghe điều này? Ai sẽ bằng lòng lắng tai nghe sau này?
24Ai đã phó Gia-cốp cho kẻ cướp, phó Y-sơ-ra-ên cho kẻ cưỡng đoạt? Chẳng phải là Giê-hô-va, Đấng chúng ta đã phạm tội chống nghịch, sao? Chúng đã từ chối bước đi trong các đường lối Ngài, không chịu vâng giữ luật pháp Ngài. 25Vậy nên Ngài trút đổ cơn giận sôi sục lên chúng nó, khiến chúng phải chịu chiến tranh tàn khốc. Lửa bừng cháy chung quanh, nhưng chúng chẳng nhận ra; lửa thiêu cháy chúng, nhưng chúng chẳng để tâm đến. 431Nhưng, bây giờ, hỡi Gia-cốp, hỡi Y-sơ-ra-ên, đây là lời phán của Giê-hô-va, Đấng tạo ra ngươi, Đấng dựng nên ngươi: “Đừng sợ, vì Ta đã chuộc ngươi; Ta đã lấy tên người gọi ngươi, ngươi thuộc về Ta.2Khi ngươi đi qua nước, Ta sẽ ở cùng; khi ngươi lội qua sông, sẽ không bị phủ lút. Khi ngươi bước qua lửa, sẽ chẳng bị cháy, ngọn lửa sẽ không làm hại ngươi.
3Vì Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên, Cứu Chúa ngươi. Ta đã ban Ai Cập làm giá chuộc ngươi, ban Ê-thi-ô-bi và Sê-ba thế chỗ ngươi. 4Vì ngươi thật quí giá và đặc biệt trước mặt Ta, nên Ta yêu ngươi; vậy nên Ta sẽ dùng kẻ khác để đổi lấy ngươi, và các dân khác để thế mạng cho ngươi.
5Đừng sợ, vì Ta ở với ngươi; Ta sẽ đem con cháu ngươi về từ phương đông, tập hợp ngươi lại từ phương tây. 6Ta sẽ nói với phương bắc: ‘Hãy buông ra;’ và với phương nam: ‘Không được giữ lại;’ Hãy đem các con trai Ta về từ phương xa, và các con gái Ta từ các vùng đất hẻo lánh,
7tức mọi kẻ nào được xưng bằng danh Ta, những kẻ Ta đã dựng nên vì vinh quang Ta; Ta đã tạo thành họ — phải, Ta đã làm ra họ.8Hãy đem những kẻ có mắt mà đui mù, những kẻ có tai mà điếc này ra.
9Tất cả các nước hãy tụ họp lại, các dân hãy tập hợp lại. Ai trong số chúng nó đã có thể tuyên bố điều này và loan báo cho chúng ta những việc ngày trước? Hãy cứ để chúng đưa ra nhân chứng để chứng tỏ mình đúng, hãy để chúng nghe và xác nhận: ‘Đúng như vậy.’” Tạo thành, mà sau Ta cũng sẽ chẳng có thần nào khác. 10Giê-hô-va phán: “Ngươi là nhân chứng cho Ta, và là đầy tớ được Ta lựa chọn, để ngươi được biết và tin Ta, và hiểu rằng Ta là Đấng đó. Trước Ta chẳng có thần nào được tạo thành, mà sau Ta cũng sẽ chẳng có thần nào khác.
11Chính Ta là Giê-hô-va, ngoại trừ Ta chẳng đấng cứu rỗi nào. 12Ta đã tuyên phán, cứu rỗi và công bố; chẳng có thần nào khác giữa vòng các ngươi. Các ngươi là nhân chứng cho Ta.” Giê-hô-va phán: “Ta là Đức Chúa Trời.
13Từ bữa nay trở đi, Ta chính là Đấng ấy; chẳng ai có thể giải cứu ai khỏi tay Ta. Ta hành động và ai có thể vô hiệu hóa?” 14Này là lời phán của Giê-hô-va, Đấng Cứu Chuộc các ngươi, Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên: “Vì các ngươi mà Ta phái đến Ba-by-lôn và hạ hết chúng xuống thành dân chạy nạn, biến các câu nói vui mừng của dân Ba-by-lôn thành những bài ai ca.
15Ta là Giê-hô-va, Đấng Thánh của các ngươi, Đấng Tạo thành Y-sơ-ra-ên, là Vua các ngươi.” 16Này là lời của Giê-hô-va (Đấng mở lối xuyên qua biển, mở đường vượt qua sóng nước,
17Đấng sai phái xe binh và ngựa, quân đội và đạo binh hùng mạnh. Chúng cùng nhau té ngã; chúng sẽ chẳng bao giờ trỗi dậy nữa; chúng bị dập, bị tắt đi như tim đèn cháy.)18“Đừng nghĩ đến các việc trước đây, cũng đừng xem xét những việc thời xưa.
19Này, Ta sắp thực hiện một việc mới mẻ; giờ thì nó khởi sự diễn ra; các ngươi không nhận thấy sao? Ta sẽ làm ra một con đường trong sa mạc, cùng các dòng suối nơi đồng hoang. 20Các loài dã thú ngoài đồng, như chó rừng và đà điểu, sẽ tôn vinh Ta, vì Ta ban nước trong đồng hoang, và sông ngòi trong sa mạc, cho tuyển dân Ta uống,
21tức dân mà Ta đã tạo thành vì chính Ta, để chúng truyền lại lời ca ngợi Ta.22Nhưng, hỡi Gia-cốp, ngươi không kêu cầu Ta; hỡi Y-sơ-ra-ên, ngươi đã chán Ta.
23Ngươi chẳng đem dâng chiên mình làm của lễ thiêu cho Ta; ngươi cũng chẳng dùng sinh tế mà tôn vinh Ta. Ta không chất gánh nặng cho các ngươi bằng các của lễ chay, cũng không làm phiền các ngươi bằng việc dâng hương. 24Ngươi chẳng dùng tiền mua cho ta xương bồ, cũng không dâng cho ta mỡ sinh tế; nhưng lại khiến ta nặng gánh vì tội các ngươi, làm phiền ta vì các việc làm xấu xa mình. 25Ta, thật, chính Ta là Đấng vì chính mình mà xóa bôi các vi phạm ngươi; và Ta sẽ không nhớ lại các tội của ngươi nữa.
26Hãy nhắc nhớ Ta việc đã xảy ra. Chúng ta hãy cùng tranh luận; hãy trình bày cớ sự của mình, để ngươi được thanh minh. 27Thủy tổ ngươi mắc tội, giới lãnh đạo ngươi cũng phạm tội nghịch Ta.
28Vì vậy, Ta sẽ khiến các quan chức đền thánh ra ô uế. Ta sẽ phó Gia-cốp để bị diệt vong, phó Y-sơ-ra-ên để chịu sỉ nhục. 441Nghe này, hỡi Gia-cốp, tôi tớ Ta, và Y-sơ-ra-ên, kẻ Ta đã chọn:2Đây là lời phán của Giê-hô-va, Đấng tạo ra ngươi và dựng nên ngươi trong lòng mẹ, Đấng sẽ giúp đỡ ngươi: “Đừng sợ, hỡi Gia-cốp, tôi tớ Ta, hỡi Giê-su-run, kẻ Ta đã chọn.3Ta sẽ đổ nước xuống trên mảnh đất đang khát, và khiến suối chảy nơi đất khô; Ta sẽ đổ Thần Ta trên hậu tự ngươi, đổ phước xuống trên con cháu ngươi.
4Chúng sẽ vươn lên giữa đám cỏ, như cây liễu bên suối nước. 5Người này sẽ nói: ‘Tôi thuộc về Giê-hô-va;’ kẻ khác sẽ được gọi bằng tên Gia-cốp, và kẻ khác nữa sẽ viết thành “Người thuộc Đức Giê-hô-va,' và chính tên Người bởi tên của Y-sơ-ra-ên.” 6Đây là lời phán của Giê-hô-va — Vua của Y-sơ-ra-ên, cũng là Đấng Cứu Chuộc nó, tức Giê-hô-va của các đạo binh: “Ta là đầu tiên, Ta cũng là cuối cùng; ngoài Ta chẳng có Đức Chúa Trời nào khác. 7Có ai giống như Ta chăng? Hãy cứ để nó lên tiếng và giải trình cho Ta các việc đã xảy ra từ khi Ta lập dân Ta thời xa xưa, cũng như công bố những việc sẽ đến. 8Chớ kinh khiếp, cũng đừng sợ hãi. Chẳng phải Ta đã công bố cho các ngươi từ lâu, và đã rao báo nó, hay sao? Các ngươi là nhân chứng cho Ta: Ngoài Ta ra còn có Đức Chúa Trời nào nữa? Chẳng có Vầng Đá nào khác; Ta chẳng biết ai cả.” 9Những kẻ nắn nên hình tượng đều chẳng ra gì cả; các vật chúng lấy làm vui thích đó là vô giá trị; các nhân chứng của chúng không thấy, cũng chẳng biết gì, và chúng sẽ bị sỉ nhục.
10Ai lại làm ra hoặc đúc nên một tượng thần chẳng có giá trị gì? 11Đó, mọi kẻ liên hệ với nó đều phải xấu hổ; các tay thợ khéo cũng chỉ là người phàm. Cứ để chúng cùng bày tỏ lập trường; chúng sẽ co rúm lại và phải xấu hổ. 12Thợ rèn dùng dụng cụ làm việc trên than lửa tạo ra nó. Hắn dùng búa tạo hình và dùng cánh tay mạnh thực hiện công việc. Bụng đói, sức lực yếu đi; hắn chẳng uống nước, nên mệt lả. 13Thợ mộc thì dùng dây đo gỗ, dùng bút đánh dấu. Hắn dùng công cụ đẽo gọt, dùng com-pa khắc họa. Hắn đẽo nó theo hình người, có dáng vẻ một người đẹp đẽ, rồi cho nó ở trong miếu thờ. 14Hắn đốn cây bá hương, hoặc chọn cây dẻ, cây sồi. Hắn chọn cho mình các cây trên rừng. Hắn trồng cây tùng, nhờ mưa làm cho lớn lên. 15Rồi người ta dùng cây đó chụm lửa và sưởi ấm. Phải, người ta nhóm lửa và nướng bánh. Rồi từ cây đó người ta cũng làm ra vị thần và cúi lạy nó; người ta tạo nên một tượng thần rồi sấp mình xuống bái lạy.
16Họ lấy một ít gỗ chụm lửa, dùng lửa đó nấu ăn. Họ ăn và được no bụng. Họ cũng sưởi ấm mình và bảo: “Chà, ấm quá, mình đã thấy lửa rồi.” 17Với phần gỗ còn lại họ dùng tạo ra một vị thần, đẽo gọt theo ảnh tượng mình; rồi họ sấp mình thờ lạy nó, sùng bái nó, và cầu nguyện với nó, rằng: “Xin cứu con, vì người là thần của con.” 18Họ chẳng biết, cũng chẳng hiểu gì, vì mắt họ bị mù nên không thấy được, và lòng họ không nhận thức được. 19Chẳng ai suy nghĩ, chẳng ai hiểu biết để tự hỏi: “Mình đã lấy một phần cây chụm lửa; phải, mình đã nướng bánh trên than nó. Mình cũng đã nướng thịt trên than ấy và ăn rồi. Vậy mà giờ mình lại lấy phần cây còn lại làm ra thứ kinh tởm này để phụng thờ sao? Mình đi cúi lạy một khúc cây sao?” 20Dường như thể người ta đang ăn tro; lòng mê muội đã khiến họ đi sai lạc. Họ không thể tự giải cứu mình, cũng chẳng nói: “Cái thứ trên tay phải mình đây chỉ là giả thần.” 21Hỡi Gia-cốp, và Y-sơ-ra-ên, vì ngươi là tôi tớ Ta: Ta đã tạo thành ngươi; ngươi là đầy tớ Ta: hỡi Y-sơ-ra-ên, Ta sẽ không quên ngươi đâu.
22Ta đã xóa sạch các việc làm loạn nghịch của ngươi, vốn như đám mây dày đặc, và các tội lỗi ngươi, giống như đám mây; hãy trở lại với Ta, vì Ta đã cứu chuộc ngươi. 23Hỡi các tầng trời, hãy hát lên, vì Giê-hô-va đã hành động; hỡi vùng hạ giới bên dưới đất, hãy la lên; hỡi các núi, và rừng cùng với mọi cây cối, hãy bật lên tiếng ca; vì Giê-hô-va đã cứu chuộc Gia-cốp, và sẽ tỏ lộ vinh quang Ngài giữa Y-sơ-ra-ên. 24Đây là lời phán của Giê-hô-va, Đấng Cứu Chuộc ngươi, Đấng tạo thành ngươi từ trong lòng mẹ: “Ta là Giê-hô-va, Đấng tạo dựng mọi vật; chỉ một mình Ta giăng các tầng trời ra và nắn nên trái đất.
25Chính Ta đã khiến những kẻ báo điềm bị hố và khiến những kẻ giải điềm phải xấu hổ; chính Ta đảo lộn sự khôn khéo của kẻ khôn và khiến lời bàn của các sứ giả nó ra ngu dại. 26Chính Ta, Giê-hô-va — Đấng làm thành lời công bố của tôi tớ Ta và thực hiện lời rao báo của các sứ giả Ta về Giê-ru-sa-lem, rằng: ‘Thành sẽ có dân ở;’ và về các thành của Giu-đa, rằng: ‘Chúng sẽ được tái thiết, và Ta sẽ dựng lại các nơi hoang tàn của nó’ —
27Đấng phán với biển sâu: ‘Hãy khô đi, Ta sẽ làm khô các dòng nước của mày’28— Đấng phán về Si-ru, rằng: ‘Nó là tôi tớ Ta, nó sẽ thi hành mọi ý chỉ Ta’ — nó sẽ ra sắc chỉ về Giê-ru-sa-lem, rằng: ‘Thành phải được xây dựng lại,’ và về đền thờ, rằng: ‘Nền ngươi sẽ được lập.’” 451Đây là lời Giê-hô-va phán với kẻ được xức dầu của Ngài, tức Si-ru, kẻ có tay phải được Ngài cầm nắm, để khuất phục các dân trước mặt mình, giải giáp các vua, và mở các cửa trước mặt, để các cổng cứ luôn mở:2“Ta sẽ đi trước mặt ngươi và san phẳng các núi; Ta sẽ phá vỡ các cửa bằng đồng, cắt vụn các then bằng sắt,3và Ta sẽ cho ngươi các báu vật của bóng tối cùng tài sản được giấu đi, để ngươi biết rằng chính Ta, Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, gọi đích danh ngươi.4Vì cớ tôi tớ Ta là Gia-cốp, và kẻ Ta lựa chọn là Y-sơ-ra-ên, Ta đã gọi đích danh ngươi; Ta ban cho ngươi tước vị tôn trọng, dầu ngươi chưa biết Ta.
5Ta là Giê-hô-va, chẳng có Chúa nào khác; chẳng có Đức Chúa Trời nào ngoài Ta. Ta sẽ trang bị cho ngươi đánh trận, dầu ngươi chưa biết Ta;
6để mọi người từ hướng mặt trời mọc cho đến hướng tây đều biết rằng ngoài Ta ra không có Đức Chúa Trời nào khác: Ta là Giê-hô-va, chẳng có Chúa nào khác.7Ta làm nên ánh sáng và tạo ra bóng tối; Ta đem đến bình an và mang đến tai họa; Ta là Giê-hô-va, Đấng làm mọi việc này.
8Hỡi các tầng trời, hãy từ trên mưa xuống! Bầu trời phải giáng mưa cứu rỗi công chính. Đất phải hấp thụ nó, để sự cứu rỗi đâm chồi, và sự công chính cùng mọc lên. Ta, Giê-hô-va, đã tạo nên cả hai. 9Bất hạnh thay cho kẻ tranh cãi với Đấng tạo ra mình! Một mảnh sành giữa vòng mọi mảnh sành dưới đất! Có thể nào đất sét nói với thợ gốm: ‘Ông làm gì vậy?’ hay: ‘Ông tạo ra cái gì thế — khi làm ông không có tay sao?’ 10Bất hạnh thay cho kẻ nói với người làm cha: ‘Ông sinh ra cái gì vậy?’ hoặc nói với một phụ nữ: ‘Bà sinh ra cái gì thế kia?’ 11Đây là lời phán của Giê-hô-va, Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên, Đấng tạo thành nó: ‘Liên quan những việc sẽ đến, ngươi chất vấn Ta về con cái Ta đó sao? Phải chăng ngươi muốn bảo Ta phải làm gì với công việc của tay Ta?’ 12‘Ta đã tạo ra trái đất và dựng nên con người trên đất. Chính tay Ta đã giăng các tầng trời ra, và Ta đã ra lệnh mọi ngôi sao phải hiện hữu. 13Ta đã dấy Si-ru lên trong sự công chính, và Ta sẽ ban bằng mọi nẻo đường của nó. Nó sẽ xây dựng thành Ta; nó sẽ cho dân bị lưu đày của Ta hồi hương mà không đòi trả giá hoặc đút lót,” Giê-hô-va của các đạo binh phán vậy. 14Đây là lời của Giê-hô-va phán: “Huê lợi của Ai Cập và hàng hóa của Ê-thi-ô-bi cùng với dân Sa-bê, là giống người cao lớn, sẽ được mang đến cho ngươi. Chúng sẽ thuộc về ngươi. Chúng sẽ đi theo ngươi, mang xiềng mà đến. Chúng sẽ quỳ xuống trước ngươi và nài xin: ‘Rõ ràng Đức Chúa Trời ở với các ngươi, ngoài Ngài chẳng có ai khác.’”15Thật, Chúa là Đức Chúa Trời tự ẩn mình đi, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, Đấng cứu rỗi. 16Chúng cả thảy đều sẽ cùng xấu hổ và mất mặt; những kẻ khắc chạm hình tượng sẽ phải sống trong sự sỉ nhục.
17Nhưng Y-sơ-ra-ên sẽ được Giê-hô-va cứu vớt bởi ơn cứu rỗi đời đời; các ngươi sẽ chẳng bao giờ lại bị xấu hổ hay sỉ nhục. 18Đây là lời phán của Giê-hô-va, Đấng làm nên các tầng trời, là Đức Chúa Trời thật, đã tạo dựng đất, Ngài làm ra nó và khiến nó đứng vững. Ngài đã tạo ra nó không phải là vô ích, mà đã thiết kế nó để cho người ta ở: “Ta là Giê-hô-va, chẳng có ai ngang hàng với Ta. 19Ta chưa từng nói riêng với ai tại nơi nào đó ẩn khuất. Ta không nói với dòng dõi Gia-cốp ‘Các ngươi tìm Ta vô ích!’ Ta là Giê-hô-va, Đấng nói năng thành thật; Ta tuyên phán những điều phải. 20Hãy tập hợp lại và đến! Các ngươi là dân chạy nạn từ giữa các nước, hãy tụ họp lại! Chúng chẳng hiểu biết gì, những kẻ khiêng tượng chạm và cầu nguyện với các thần không cứu được ai ấy. 21Hãy đến gần và nói rõ cho Ta, trưng ra bằng chứng! Cứ để chúng mưu tính với nhau. Ai đã tỏ ra việc này từ lâu rồi? Ai đã loan báo nó? Không phải chính Ta, Giê-hô-va, sao? Chẳng có Đức Chúa Trời nào khác ngoại trừ Ta, là Đức Chúa Trời công chính, là Đấng cứu rỗi; ngoài Ta chẳng có Chúa nào khác. 22Hỡi mọi vùng đất xa xôi, hãy hướng về Ta và được cứu; vì Ta là Đức Chúa Trời, chẳng có đấng nào khác.
23'Ta chỉ chính mình mà thề khi ban ra sắc chỉ công chính của Ta, và nó sẽ không được thu hồi: Mọi đầu gối sẽ quỳ xuống, mọi lưỡi sẽ thề trước mặt Ta, 24rằng: “Sự sự cứu rỗi và sức mạnh chỉ có nơi Giê-hô-va mà thôi.’” Mọi kẻ nổi giận với Ngài sẽ khúm núm một cách xấu hổ trước mặt Ngài.25Trong Giê-hô-va, toàn thể con cháu Y-sơ-ra-ên sẽ được xưng công chính; họ sẽ hãnh diện về Ngài. 461Thần Bên sấp xuống, thần Nê-bô cúi mình; các tượng thần chúng đè nặng lên những con thú chở chúng. Các tượng thần chúng chở đi đây đó là gánh nặng cho các con thú đã mỏi mệt.2Cùng với nhau, chúng cúi mình thật thấp và quỳ lạy; chúng không cứu được các hình tượng ấy, mà chính chúng lại phải bị lưu đày xa xứ. 3Hãy nghe Ta, hỡi nhà Gia-cốp, cùng hết thảy các ngươi là kẻ sót lại của nhà Gia-cốp, những kẻ đã được Ta bồng ẳm từ trước khi sinh ra, và đem ra khỏi lòng mẹ.
4Thậm chí cho đến khi các ngươi già cả thì Ta vẫn là Đấng ấy, ngay cả cho đến lúc tóc các ngươi bạc trắng thì Ta vẫn sẽ bồng ẳm các ngươi. Ta đã tạo thành các ngươi thì Ta sẽ nâng đỡ các ngươi, Ta sẽ đem các ngươi đến nơi an bình. 5Các ngươi sẽ ví Ta với ai? Ta giống ai để các ngươi có thể so sánh?
6Chúng trút vàng trong bao ra, cân bạc trên cân. Chúng mướn thợ bạc làm ra một vị thần; rồi cúi mình xuống mà thờ lạy. 7Chúng vác nó trên vai và khiêng đi; chúng đặt nó vào chỗ, rồi nó cứ đứng mãi đó mà chẳng đi đâu được. Chúng kêu la với nó, nhưng nó không đáp lại, cũng chẳng cứu giúp được ai. 8Hãy suy gẫm những điều này; đừng bao giờ bỏ qua, hỡi những kẻ phản nghịch các ngươi.
9Hãy ngẫm nghĩ về những việc ngày xưa, những việc thời trước, vì Ta là Đức Chúa Trời, chẳng có chúa nào khác; Ta là Đức Chúa Trời, chẳng có đấng nào giống như Ta. 10Ta công bố những việc cuối cùng từ ban đầu, và báo trước những việc chưa xảy ra; chính Ta phán: “Chương trình Ta sẽ được thành, Ta sẽ làm điều mình muốn.”
11Ta gọi chim săn mồi từ phương đông, tức người Ta lựa chọn từ một xứ xa; thật, Ta đã phán thì Ta sẽ làm thành; Ta đã định thì Ta sẽ thực hiện. 12Hãy nghe Ta, hỡi các ngươi là dân ương ngạnh, không chịu làm điều công chính.
13Ta sẽ đem sự công chính Ta đến gần; nó không ở xa, còn sự cứu rỗi Ta thì không trì hoãn; Ta sẽ ban sự cứu rỗi cho Si-ôn và sự đẹp đẽ Ta cho Y-sơ-ra-ên. 471Hỡi trinh nữ Ba-by-lôn, hãy đến và ngồi trong tro bụi; hỡi con gái Canh-đê, hãy ngồi xuống đất vì không còn ngai. Ngươi sẽ chẳng còn được gọi là đáng yêu và mảnh mai nữa.2Hãy lấy cối đá mà xay bột; hãy gỡ khăn voan, cỡi bỏ áo thụng, để chân trần mà lội qua suối. 3Sự lõa lồ ngươi sẽ bị phô bày, thật, sự xấu hổ ngươi sẽ lộ ra; Ta sẽ báo thù và sẽ chẳng chừa lại một người.
4Đấng Cứu Chuộc chúng ta, danh Ngài là Giê-hô-va của các đạo binh, Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên.
5Hỡi con gái Canh-đê, hãy ngồi yên lặng và đi vào bóng tối; vì ngươi sẽ không còn được gọi là Nữ hoàng của các vương quốc nữa đâu. 6Ta đã nổi giận với dân mình; Ta đã làm ô uế cơ nghiệp mình và phó nó vào tay ngươi, nhưng ngươi chẳng tỏ lòng thương xót nó; ngươi đã gán cái ách quá nặng nề trên người già cả.
7Ngươi bảo: “Ta sẽ làm nữ hoàng tối cao cai trị mãi mãi.” Ngươi chẳng để tâm vào những điều này, cũng chẳng suy xét hậu quả sẽ thế nào. 8Vậy nên, bây giờ, hãy nghe đây, hỡi kẻ thích vui thú và tại vị vững chắc, kẻ nói trong lòng: “Chỉ có ta, chẳng còn ai khác giống như ta; ta sẽ chẳng bao giờ mang thân góa phụ, cũng chẳng bao giờ mất con.”
9Nhưng hai việc này sẽ xảy đến cho ngươi cùng lúc trong cùng một ngày: bị mất con và thành ra góa phụ; nó sẽ ập xuống trên ngươi đầy trọn, cho dù ngươi có các trò ma thuật và nhiều thần chú, bùa phép. 10Ngươi đã cậy vào sự gian ác mình; ngươi nói: “Chẳng ai thấy ta;” sự thông thái và hiểu biết đã dẫn ngươi đi sai lạc, nhưng ngươi tự nhủ trong lòng: “Chỉ có ta, chẳng có ai khác giống như ta.”
11Tai họa sẽ chế ngự ngươi; ngươi sẽ không thể dùng các bùa chú mà xua nó đi. Sự hủy diệt sẽ đổ ập trên ngươi; ngươi sẽ không thể ngăn cản. Tai ương sẽ thình lình giáng xuống trước khi ngươi kịp nhận ra. 12Hãy tiếp tục dùng bùa chú mê hoặc và đủ thứ phép thuật mà ngươi vẫn chăm chỉ thực hành từ thuở nhỏ; biết đâu ngươi sẽ làm được, biết đâu ngươi sẽ xua được tai ách đi.
13Ngươi kiệt sức vì có quá nhiều lời bàn bạc; hãy để những kẻ đó đứng lên cứu ngươi — tức những kẻ xem trời, xem sao, những kẻ công bố kỳ trăng mới — hãy để chúng cứu ngươi khỏi những việc sẽ xảy đến cho ngươi. 14Này, chúng sẽ ra giống như gốc rạ. Lửa sẽ thiêu rụi chúng. Chúng sẽ không tự cứu mình được khỏi quyền ngọn lửa. Chúng chẳng có than để sưởi ấm, chẳng có bếp lửa để ngồi kề!
15Chúng sẽ nhọc công mà chẳng giúp được gì, tức những kẻ mà ngươi buôn bán cùng từ thời trẻ; chúng mạnh ai nấy đi đường mình; chẳng còn ai để cứu ngươi cả. 481Nghe này, hỡi Gia-cốp, là những kẻ được gọi bằng tên Y-sơ-ra-ên, xuất thân là hậu tự Giu-đa; những kẻ chỉ danh Giê-hô-va mà thề và cầu khẩn Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, nhưng không thật lòng, hoặc chẳng theo cách công chính.2Vì họ tự xưng mình là dân thành thánh và tin cậy Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên; danh Ngài là Giê-hô-va của các đạo binh. 3“Ta đã công bố các việc ấy từ lâu; nó ra từ chính miệng Ta, và Ta đã tỏ bày nó; rồi thình lình Ta thực hiện, và việc diễn ra.
4Vì Ta biết ngươi cố chấp, gân cổ ngươi cứng như sắt, còn trán ngươi chắc như đồng,
5nên Ta đã công bố những việc này trước cho ngươi; trước khi nó xảy ra thì Ta đã cho ngươi biết, kẻo ngươi bảo: ‘Tượng thần tôi làm đó,’ hay: ‘tượng chạm, tượng đúc của tôi đã định trước các việc ấy.’6Ngươi đã nghe các việc này; hãy nhìn toàn bộ dấu hiệu này; rồi xem ngươi có dám bảo lời Ta nói là không đúng chăng. Từ nay trở đi, Ta sẽ tỏ cho ngươi những việc mới, những việc còn giữ kín mà ngươi chưa từng biết.
7Bây giờ mới có các việc ấy chứ chẳng phải đã có từ trước, và ngươi chưa từng nghe biết nó trước đây, để ngươi không thể bảo: ‘À, tôi biết các việc ấy rồi.’ 8Ngươi chưa từng nghe; ngươi chưa từng biết; các việc ấy chưa được tỏ ra cho tai ngươi nghe trước đây. Vì Ta biết ngươi rất lừa lọc, và từ lúc mới sinh ngươi đã là đứa phản loạn. 9Vì cớ danh Ta, Ta sẽ gác lại cơn thạnh nộ mình, và vì thanh danh Ta, Ta sẽ kìm nén để khỏi hủy diệt ngươi.
10Này, Ta đã luyện lọc ngươi, nhưng chẳng phải như luyện bạc; Ta đã tinh luyện ngươi trong lò hoạn nạn.
11Vì cớ chính mình, vì chính Ta mà Ta sẽ hành động; vì thể nào Ta lại để cho danh Ta bị sỉ nhục? Ta sẽ không nhường vinh quang mình cho bất kỳ ai khác. 12Hãy nghe Ta, hỡi Gia-cốp, và Y-sơ-ra-ên, kẻ Ta đã gọi: Ta là Đấng đó; Ta là đầu tiên, Ta cũng là cuối cùng.
13Thật, tay Ta đã đặt nền trái đất, tay phải Ta đã giăng các tầng trời; khi Ta gọi thì chúng đồng đứng lên. 14Toàn thể các ngươi hãy tập hợp lại và nghe đây; ai giữa vòng các ngươi đã loan báo các việc này? Một đồng sự của Giê-hô-va sẽ hoàn thành mục đích của Ngài nghịch cùng Ba-by-lôn. Nó sẽ thực hiện ý chỉ của Giê-hô-va nghịch lại người Canh-đê.
15Ta, chính Ta đã phán; thật, Ta đã gọi nó, Ta đã đem nó đến, và nó sẽ làm thành tựu. 16Hãy đến gần ta, và nghe lời này; từ ban đầu ta vẫn không nói điều gì thầm kín; khi việc xảy ra thì ta đã có mặt; giờ đây Chúa Giê-hô-va đã sai phái ta, cùng với Thần Linh Ngài.”17Đây là lời của Giê-hô-va, Đấng Cứu Chuộc các ngươi, Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên: “Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ngươi, Đấng chỉ dạy ngươi cách để thành đạt, dẫn dắt ngươi theo con đường ngươi phải đi.
18Ước gì các ngươi chịu vâng giữ các điều răn Ta! Được vậy thì sự bình an và thạnh vượng ngươi đã tuôn chảy như dòng sông, sự cứu rỗi đã dào dạt như sóng biển. 19Dòng dõi ngươi đã đông đúc như cát, con cái từ ruột gan ngươi sẽ nhiều như hạt cát; tên tuổi chúng đã chẳng bị diệt và xóa sạch trước mặt Ta. 20Hãy ra khỏi Ba-by-lôn! Hãy chạy trốn khỏi người Canh-đê! Hãy loan báo việc này bằng tiếng kêu vang động! Hãy công bố, khiến nó vọng đến các miền đất xa xôi! Hãy nói: ‘Giê-hô-va đã cứu chuộc tôi tớ Ngài là Gia-cốp.’ 21Họ chẳng khát nước khi Ngài dẫn họ qua sa mạc; Ngài đã khiến nước từ tảng đá chảy ra cho họ; Ngài chẻ toạc đá ra, và nước phun trào.
22Kẻ ác chẳng được bình an đâu — Giê-hô-va phán.” 491Hãy nghe ta đây, hỡi các vùng đất ven biển! Hãy chú ý, hỡi các dân ở xa. Giê-hô-va đã gọi đích danh ta khi ta mới sinh ra, khi mẹ ta đưa ta vào đời.2Ngài đã khiến miệng ta tựa thanh gươm bén; Ngài giấu ta dưới bóng của tay Ngài; Ngài biến ta thành mũi tên bóng loáng; Ngài cất giữ ta trong ống tên của Ngài. 3Ngài phán với ta: “Hỡi Y-sơ-ra-ên, ngươi là đầy tớ Ta, bởi ngươi Ta sẽ tỏ ra vinh quang mình.”
4Dầu ta từng nghĩ rằng ta đã nhọc công vô ích, ta đã phí hao sức lực mà chẳng được gì, nhưng sự công bình ta ở nơi Giê-hô-va, phần thưởng ta ở nơi Đức Chúa Trời ta. 5Giờ đây, Giê-hô-va đã phán, Ngài đã lập ta làm tôi tớ Ngài từ lúc mới sinh, để đem Gia-cốp trở lại cùng Ngài, để tập họp Y-sơ-ra-ên về với Ngài. Ta được tôn trọng trong mắt Giê-hô-va, và Đức Chúa Trời đã trở nên sức mạnh ta.
6Ngài phán: “Làm tôi tớ ta để lập lại các bộ tộc của Gia-cốp và phục hồi những kẻ sống sót của Y-sơ-ra-ên là việc nhỏ nhoi quá đối với ngươi. Ta sẽ khiến ngươi nên ánh sáng cho các dân ngoại, để ngươi làm sự cứu rỗi của ta cho những nơi tận cùng của trái đất.” 7Đây là lời của Giê-hô-va, Đấng Cứu Chuộc, và Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên, phán với kẻ có cuộc đời bị khinh rẻ, bị các dân thù ghét, và là tôi mọi của những kẻ cai trị: “Các vua sẽ thấy ngươi và đứng lên, các quan tướng sẽ thấy ngươi và sấp mình xuống, vì cớ Giê-hô-va, Đấng thành tín, tức Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên, Đấng đã chọn ngươi.” 8Đây là lời Giê-hô-va phán: “Vào thời điểm Ta định để thi ân Ta sẽ đáp lời ngươi, trong ngày cứu rỗi Ta sẽ giúp đỡ ngươi; Ta sẽ bảo vệ ngươi, và ban ngươi làm giao ước cho các dân, hầu tái thiết xứ sở, phân chia lại sản nghiệp hiện bị đổ nát.9Ngươi sẽ nói với kẻ tù: ‘Hãy ra đi;’ với kẻ ở trong ngục tối: ‘Hãy ra ngoài sáng.’ Họ sẽ được nuôi ăn dọc đường, và trên các triền dốc trơ trọi sẽ là đồng cỏ cho họ. 10Họ sẽ không đói, cũng không khát; hơi nóng hay mặt trời cũng không làm hại họ, vì Đấng thương xót họ sẽ dẫn dắt họ; Ngài sẽ dắt họ đến suối nước.
11Ta sẽ khiến mọi núi Ta biến thành đường đi, và ban bằng các con đường của Ta.” 12Kìa, những người này sẽ đến từ phương xa, một số từ phương bắc và phương tây; số khác từ xứ Si-nim.
13Hỡi các tầng trời, hãy hát lên; hỡi trái đất, hãy vui mừng; hỡi các núi, hãy cất tiếng ca! Vì Giê-hô-va yên ủi dân Ngài và sẽ thương xót dân khốn khổ của mình. 14Nhưng Si-ôn bảo: “Giê-hô-va đã lìa bỏ tôi, Chúa đã quên tôi rồi.”
15“Có thể nào người phụ nữ quên cho con nhỏ mình bú, và như thế chẳng thương cảm con trai mình đã sinh ra chăng? Thật, họ có thể quên, nhưng ta sẽ chẳng quên ngươi. 16Này, Ta đã chạm khắc tên ngươi trong lòng bàn tay Ta; các tường thành ngươi luôn ở trước mặt Ta.
17Con cái ngươi sẽ vội trở về, trong khi những kẻ tiêu diệt các ngươi bỏ đi.
18Hãy nhìn quanh và chứng kiến, tất cả chúng nó đang tập hợp lại và đến với ngươi. Như Ta đang sống — đây là lời công bố của Giê-hô-va — thì cũng vậy, đích thực ngươi sẽ đeo chúng như đeo nữ trang; ngươi sẽ mang chúng vào như cô dâu. 19Dầu ngươi chỉ là chốn tan hoang, đổ nát, một xứ sở hoang tàn, nhưng giờ thì ngươi sẽ quá chật hẹp cho số cư dân, và những kẻ ăn nuốt ngươi sẽ ở cách xa ngươi.
20Con cái sinh ra trong thời ngươi gặp cảnh tang chế sẽ nói vào tai ngươi: ‘Ở đây chật hẹp quá đối với chúng con, hãy sắp xếp chỗ cho chúng con ở với.’ 21Rồi ngươi sẽ tự hỏi: ‘Ai đã sinh mấy đứa trẻ này cho mình? Mình đã mất con, đã son sẻ, bị lưu đày và ly hôn. Ai đã nuôi nấng những đứa trẻ này? Kìa, mình hoàn toàn đơn chiếc; bọn trẻ này ở đâu ra?’” 22Đây là lời phán của Chúa Giê-hô-va: “Này, Ta sẽ giáng tay trên các nước; ta sẽ giương cờ hiệu Ta cho các dân. Chúng sẽ bồng bế các con trai ngươi, mang vác các con gái ngươi đến.23Các vua sẽ làm cha nuôi ngươi, các hoàng hậu làm cô bảo mẫu ngươi; họ sẽ sấp mặt xuống đất trước ngươi và liếm bụi nơi chân ngươi; họ sẽ biết rằng Ta là Giê-hô-va; kẻ trông đợi Ta sẽ không bị xấu hổ.” 24Ai có thể đoạt lấy chiến lợi phẩm của người chiến binh, hoặc giải cứu tù binh khỏi tay bạo chúa? 25Nhưng đây là lời phán của Giê-hô-va: “Thật, tù binh sẽ được cứu khỏi tay người lính, và chiến lợi phẩm sẽ được thu hồi; vì Ta sẽ chống lại kẻ thù ngươi và cứu con cái ngươi.26Rồi Ta sẽ bắt kẻ áp bức ngươi tự ăn thịt; và chúng sẽ say máu của chính mình, như thể say rượu; cả nhân loại sẽ biết rằng Ta, Giê-hô-va, là Đấng cứu ngươi, Đấng chuộc ngươi, tức Đấng Quyền Năng của Gia-cốp.” 501Đây là lời phán của Giê-hô-va: “Chứng từ ly hôn của Ta với mẹ các ngươi đâu nào? Ta đã bán các ngươi cho chủ nợ nào của Ta kia? Kìa, các ngươi bị bán là vì tội lỗi mình, và vì sự phản loạn của các ngươi mà mẹ các ngươi bị đuổi đi.2Tại sao Ta đến mà chẳng có ai ở đó? Vì sao Ta gọi mà chẳng người nào đáp lại? Phải chăng tay Ta ngắn quá nên không chuộc được ngươi? Phải chăng Ta chẳng có quyền để giải thoát ngươi? Này, Ta quở thì biển khô cạn; Ta biến sông ngòi thành sa mạc; cá ở đó chết vì thiếu nước và thối rữa.
3Ta lấy bóng tối mặc cho bầu trời; Ta lấy vải thô phủ lên nó.” 4Chúa Giê-hô-va đã ban cho ta cái lưỡi như lưỡi của người được dạy dỗ, để ta nói ra lời nâng đỡ kẻ mỏi mệt; Ngài đánh thức ta mỗi buổi sáng; Ngài đánh thức tai ta để nghe như kẻ được dạy dỗ. 5Chúa Giê-hô-va đã mở tai ta, nên ta không bội nghịch, mà ta cũng chẳng quay trở lui.
6Ta đưa lưng cho những kẻ đánh mình, đưa má cho những kẻ nhổ râu mình; ta chẳng che mặt lại khi bị sỉ vả và phỉ nhổ. 7Vì Chúa Giê-hô-va sẽ giúp đỡ ta, nên ta không bị sỉ nhục; vậy là ta đã khiến mặt mình ra như đá lửa, vì ta biết rằng mình sẽ không bị hổ thẹn. 8Đấng xưng công chính cho ta đang ở gần. Ai chống lại ta đâu? Hãy đứng đối đầu với ta đi. Ai cáo tội ta? Hãy cứ đến gần ta đây.
9Này, Chúa Giê-hô-va sẽ giúp đỡ ta. Ai sẽ kết tội ta? Này, chúng nó sẽ thảy đều mòn rách như cái áo; mối sẽ ăn sạch chúng nó. 10Ai giữa vòng các ngươi kính sợ Giê-hô-va? Ai vâng theo tiếng của đầy tớ Ngài? Ai đang bước đi trong bóng tối mà không có ánh sáng? Kẻ đó hãy tin nơi danh của Giê-hô-va và nương dựa vào Đức Chúa Trời mình. 11Này, tất cả các ngươi là kẻ đốt lửa, thắp đuốc cho mình: hãy bước đi trong ánh lửa các ngươi, trong ngọn lửa mà các ngươi đã đốt lên đó. Đây là điều các ngươi đã nhận từ nơi Ta; các ngươi sẽ nằm xuống trong chỗ đau đớn. 511Các ngươi là kẻ theo đuổi sự công chính, kẻ tìm kiếm Giê-hô-va, hãy nghe Ta: hãy nhìn vầng đá từ đó các ngươi được đục ra, hầm đá từ đó các ngươi được cắt ra.2Hãy nhìn xem Áp-ra-ham, cha các ngươi, và Sa-ra, người đã sinh các ngươi; vì khi người chỉ là một kẻ đơn độc thì Ta đã kêu gọi người. Ta đã ban phước cho người và khiến người đông thêm lên. 3Thật, Giê-hô-va sẽ yên ủi Si-ôn; Ngài sẽ yên ủi mọi nơi hoang tàn của nó; Ngài đã khiến đồng hoang nó ra giống như Ê-đen, và các đồng bằng sa mạc cạnh thung lũng sông Giô-đanh ra giống như vườn của Đức Chúa Trời; nơi nó người ta sẽ thấy có niềm hân hoan, vui sướng, cùng lời cảm tạ và tiếng hát ca. 4“Hỡi dân Ta, hãy nghe cho rõ; hỡi dân Ta, hãy lắng nghe Ta nói! Vì Ta sẽ ban ra một sắc chỉ, và sẽ khiến sự công chính Ta thành ánh sáng cho các nước.
5Sự công chính Ta đã gần; sự cứu rỗi Ta sẽ hiện ra, và tay Ta sẽ đoán xét các dân; các vùng đất ven biển sẽ trông đợi Ta; vì chúng sẽ tha thiết mong chờ cánh tay Ta.6Hãy ngước mắt lên trời và nhìn xuống đất bên dưới, vì các tầng trời sẽ tan biến như khói, đất sẽ mòn cũ như cái áo, và cư dân nó sẽ chết như ruồi. Nhưng sự cứu rỗi Ta cứ còn đến đời đời, sự công chính Ta chẳng bao giờ dứt. 7Hỡi dân biết điều phải, kẻ có luật pháp Ta trong lòng: Đừng sợ người ta nhục mạ, cũng đừng nản lòng vì bị chúng ngược đãi.
8Vì nhộng sẽ ăn sạch chúng như chiếc áo, mọt sẽ ăn chúng như len; nhưng sự công chính Ta sẽ còn mãi, sự cứu rỗi Ta sẽ trải suốt mọi thế hệ.” 9Hỡi cánh tay Giê-hô-va, hãy thức dậy, xin thức dậy, hãy mặc lấy sức mạnh. Hãy thức dậy như trong thời xưa, như trong các thế hệ của thời cổ đại. Chẳng phải Chúa là Đấng đã tiêu diệt con quái vật biển, đã đâm con rồng, đó sao?
10Chẳng phải Chúa đã khiến biển cạn, làm khô nước của vực sâu, biến các vực thẳm của biển thành con đường cho dân được chuộc của Ngài đi qua, hay sao? 11Kẻ đã được chuộc của Giê-hô-va sẽ trở về và đến Si-ôn với tiếng reo mừng và niềm vui sướng đời đời trên đầu mình; niềm vui sướng, hân hoan sẽ đuổi kịp họ, còn sự buồn rầu, than khóc sẽ bỏ trốn. 12“Ta, chính Ta là Đấng yên ủi các ngươi. Vì sao các ngươi lại sợ người phàm, vốn sẽ chết, tức các con trai loài người, được tạo nên như loài cỏ? 13Vì sao các ngươi lại quên Đấng tạo dựng mình là Giê-hô-va? Chính Ngài đã giăng các tầng trời ra và đặt các nền của trái đất. Ngày nào các ngươi cũng kinh sợ cơn nóng giận của kẻ áp bức khi nó định hủy diệt. Cơn giận của kẻ áp bức đâu rồi? 14Kẻ mang nặng xiềng xích Giê-hô-va sẽ nhanh chóng giải thoát; họ sẽ không chết và phải xuống âm phủ, mà họ cũng chẳng thiếu bánh ăn.
15Vì Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi, Đấng khuấy động biển, khiến nổi sóng ầm ầm — Giê-hô-va của các đạo binh là danh Ngài. 16Ta đã đặt lời Ta trong miệng ngươi, và Ta đã bao phủ ngươi dưới bóng bàn tay Ta, để Ta dựng nên các tầng trời, đặt nền trái đất, và phán với Si-ôn, rằng: ‘Ngươi là dân Ta.’” 17Hỡi Giê-ru-sa-lem, dậy đi, hãy dậy đi. Ngươi đã uống chén thạnh nộ của Giê-hô-va từ chính tay Ngài; ngươi đã uống chén, là chén xây xẩm, và ngươi đã uống cạn.
18Chẳng có ai trong số các con trai nó sinh ra dẫn dắt nó; chẳng có ai giữa vòng các con trai nó đã nuôi nấng nắm tay nó. 19Cả hai tai họa đó đã xảy đến cho ngươi — tàn phá và hủy diệt, đói kém và gươm đao — ai sẽ chia buồn với ngươi? Ai sẽ an ủi ngươi?
20Các con trai ngươi đều ngất xỉu; chúng nằm khắp mọi góc đường, như con linh dương mắc bẫy lưới; chúng hứng trọn cơn thạnh nộ của Giê-hô-va, tức sự quở phạt của Đức Chúa Trời ngươi. 21Nhưng, bây giờ, hãy nghe đây, hỡi kẻ bị áp bức và say khước, nhưng chẳng phải vì rượu:
22Chúa Giê-hô-va các ngươi, Đức Chúa Trời các ngươi, Đấng bênh vực dân Ngài, phán như vầy: “Này, Ta đã cất chén xây xẩm khỏi tay ngươi — tức chén thạnh nộ của ta — để ngươi sẽ không uống nó nữa.23Ta sẽ đặt chén ấy vào tay những kẻ hành hạ ngươi, những kẻ đã nói với ngươi: ‘Nằm xuống để bọn tao bước qua’; lưng ngươi trở nên như mặt đất, như con đường cho chúng bước lên.” 521Hỡi Si-ôn, dậy đi, thức dậy đi, hãy mặc lấy sức mạnh mình; hỡi Giê-ru-sa-lem, là thành thánh, hãy mặc áo đẹp của ngươi vào; vì kẻ chưa chịu cắt bì và kẻ ô uế sẽ chẳng bao giờ vào nơi ngươi nữa.2Hãy giũ cho mình sạch hết bụi bặm; hỡi Giê-ru-sa-lem, hãy ngồi dậy; hỡi kẻ tù, tức con gái Si-ôn, hãy cởi bỏ xiềng xích khỏi cổ ngươi. 3Vì này là lời phán của Giê-hô-va: “Các ngươi đã bị bán như cho, nên các ngươi cũng sẽ được chuộc lại mà không nhờ tiền bạc.”4Vì đây là lời Chúa Giê-hô-va phán: “Thuở ban đầu, dân Ta xuống trú ngụ tại Ai Cập; gần đây A-si-ri lại áp bức chúng.”5Này là lời tuyên phán của Giê-hô-va: “Bây giờ, Ta được gì đây, vì dân Ta bị đem đi mà không được trả một đồng?” Này là lời tuyên phán của Giê-hô-va: “Giới lãnh đạo chúng nó than khóc, còn danh Ta thì bị xúc phạm suốt cả ngày.6Vậy nên dân Ta sẽ biết danh Ta; vào ngày đó, họ sẽ biết rằng Ta chính là Đấng phán lời này. Đúng, chính Ta đây!” 7Những sứ giả đem tin lành, loan tin bình an, mang tin vui mừng, rao báo sự cứu rỗi, những kẻ nói với Si-ôn, rằng: “Đức Chúa Trời ngươi trị vì” — bàn chân họ trên các núi đồi đẹp đẽ biết bao!
8Hãy nghe, các lính canh ngươi lên tiếng, họ cùng reo vui, vì họ sẽ tận mắt nhìn thấy Giê-hô-va trở về Si-ôn. 9Hỡi các tàn tích của Giê-ru-sa-lem, hãy cùng cất tiếng ca vui mừng; vì Giê-hô-va đã yên ủi dân Ngài; Ngài đã chuộc Giê-ru-sa-lem.
10Giê-hô-va đã tỏ lộ cánh tay thánh Ngài trước mặt mọi dân tộc; cả trái đất sẽ nhìn thấy sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời chúng ta. 11Hãy đi, hãy đi đi, hãy đi khỏi nơi đó; đừng đụng đến vật gì ô uế; hãy ra khỏi giữa nó; hãy thanh tẩy mình đi, hỡi các ngươi là kẻ mang vật dụng của Giê-hô-va.
12Vì các ngươi sẽ không ra đi cách vội vả, cũng không ra đi trong sự hốt hoảng; vì Giê-hô-va sẽ đi trước các ngươi; và Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên sẽ đi sau bảo vệ các ngươi. 13Này, đầy tớ ta sẽ hành xử khôn ngoan và việc người sẽ được thành; người sẽ nên cao trọng và được tôn lên; người sẽ được tôn lên rất cao.
14Như nhiều người nhìn thấy ngươi mà kinh sợ — diện mạo của người bị biến dạng, không còn giống như dáng vẻ con người, cho nên nhìn người rất khác mọi người 15— thì cũng vậy người sẽ khiến nhiều nước sửng sốt; các vua sẽ câm miệng vì cớ người. Điều chưa ai nói cho biết thì họ sẽ thấy, điều họ chưa từng được nghe thì họ sẽ hiểu. 531Có ai tin điều chúng ta đã nghe? Và cánh tay của Giê-hô-va đã được tỏ ra cho ai?2Vì người đã lớn lên trước mặt Giê-hô-va như một cây non, như cái mầm từ đất khô; người chẳng có diện mạo đặc biệt hoặc dáng vẻ oai nghi; khi chúng ta nhìn thấy người, chẳng có gì đẹp đẽ hấp dẫn chúng ta. 3Người bị người ta khinh rẻ, khước từ; là con người thống khổ, đã quen chịu đau đớn. Người bị khinh dễ như kẻ người ta che mặt lại chẳng thèm nhìn; và chúng ta chẳng xem người ra gì. 4Nhưng, thật, người đã mang tật bệnh của chúng ta, gánh các nỗi buồn phiền của chúng ta; vậy mà chúng ta lại tưởng người đang bị Đức Chúa Trời hình phạt, bị Đức Chúa Trời đánh đập, hành hạ. 5Nhưng người đã bị đâm vì các việc bội nghịch của chúng ta; người bị chà đạp vì tội lỗi chúng ta. Người chịu hình phạt để chúng ta được hòa thuận, nhờ các vết thương người mà chúng ta được chữa lành. 6Tất cả chúng ta đều giống như chiên đi lạc; mỗi người đi theo đường riêng mình, và Giê-hô-va đã chất trên người tội lỗi của hết thảy chúng ta. 7Người bị áp chế; nhưng khi người tự hạ mình thì người chẳng mở miệng; như chiên con bị dắt đi làm thịt, như con chiên trước mặt kẻ hớt lông, người chẳng mở miệng. 8Do bị ép buộc và xét xử mà người bị kết tội; có ai thuộc thế hệ đó còn nghĩ đến người? Nhưng người đã bị diệt khỏi đất kẻ sống; vì những vi phạm của dân ta mà người phải chịu hình phạt.
9Chúng định đặt mồ người chung với bọn tội phạm, với người giàu khi người chết, dầu người chẳng làm điều gì thô bạo, miệng người chẳng từng nói lời dối trá. 10Nhưng ý muốn của Đức Chúa Trời là nghiền nát người và khiến người đau yếu; và nếu người dâng mạng sống mình làm của lễ đền tội thì người sẽ nhìn thấy dòng dõi mình, các ngày của người sẽ dài thêm, và mục đích của Đức Chúa Trời sẽ nhờ người mà được thành.
11Sau khi người chịu khổ, người sẽ nhìn thấy và được mãn nguyện nhờ hiểu biết việc mình đã làm. Tôi tớ công chính của Ta sẽ xưng công bình nhiều người; người sẽ mang tội lỗi của họ. 12Vì vậy, Ta sẽ ban phần cho người giữa vòng đám đông dân chúng, và người sẽ chia chiến lợi phẩm cùng nhiều người, vì người xả thân chịu chết và bị liệt vào hàng tội nhân. Người đã mang tội lỗi của nhiều người và cầu thay cho những kẻ phạm tội. 541Giê-hô-va phán: “Hãy hát lên, hỡi người phụ nữ son sẻ, kẻ chưa từng sinh con; hãy cất tiếng hát mừng và la lớn, hỡi kẻ chưa từng trải qua cơn đau chuyển dạ. Vì con cái của người phụ nữ lẻ loi lại nhiều hơn con cái của người phụ nữ có chồng.”2Hãy cơi nới lều trại ngươi và giương các tấm bạt thêm ra, đừng hẹp hòi; hãy nối dài dây thừng và làm vững các cọc ngươi.
3Vì ngươi sẽ tràn ra bên phải lẫn bên trái, và con cháu ngươi sẽ chinh phục các nước, tái định cư trong các thành bị bỏ hoang. 4Đừng sợ vì ngươi sẽ không bị xấu hổ, cũng đừng nản lòng vì ngươi sẽ không bị sỉ nhục; ngươi sẽ quên đi nỗi xấu hổ thời trẻ mình và sự sỉ nhục khi bị ruồng bỏ. 5Vì Đấng tạo dựng ngươi chính là chồng ngươi; danh Ngài là Giê-hô-va của các đạo binh. Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên là Đấng Cứu Chuộc ngươi; Ngài được xưng là Đức Chúa Trời của cả trái đất.
6Vì Giê-hô-va đã kêu gọi ngươi trở về như người vợ bị bỏ, tâm thần sầu muộn, như người phụ nữ lấy chồng lúc còn trẻ rồi bị khước từ, Đức Chúa Trời ngươi phán vậy. 7“Vì Ta đã bỏ ngươi trong một lúc, nhưng sẽ lấy lòng thương xót lớn mà thâu ngươi lại.
8Đang cơn nóng giận, Ta ẩn mặt với ngươi trong chốc lát; nhưng rồi sẽ lấy lòng thành tín đời đời mà thương xót ngươi. 9Vì điều này đối với Ta cũng giống như nước lụt thời Nô-ê; Ta đã thề hứa nước lụt thời Nô-ê sẽ chẳng bao giờ lại tràn ra trên đất thể nào, thì Ta cũng thề sẽ chẳng giận ngươi hay quở phạt ngươi nữa.
10Dầu núi có đổ sập, đồi có lay chuyển, thì lòng thành tín Ta cũng không lìa khỏi ngươi, giao ước bình an của Ta cũng chẳng chuyển lay — Giê-hô-va, Đấng thương xót ngươi phán vậy. 11Này, hỡi kẻ chịu hoạn nạn, phải trải qua bão táp phong ba mà chẳng được yên ủi, Ta sẽ lấy ngọc lam lát đường ngươi, lấy ngọc bích lập nền ngươi.
12Ta sẽ lấy hồng ngọc làm các chót tháp ngươi, lấy đá lấp lánh làm các cổng ngươi, và lấy đá quý làm tường lũy ngoại vi của ngươi. 13Mọi con cái ngươi sẽ được Giê-hô-va dạy dỗ; các con ngươi sẽ được sự bình an lớn.
14Ta sẽ lập ngươi lại trong sự công chính. Ngươi sẽ không còn bị bức hại, vì ngươi sẽ chẳng sợ hãi và chẳng có việc gì kinh khiếp đến gần ngươi. 15Này, nếu có ai đó gây rắc rối thì đó chẳng phải là do Ta; kẻ nào gây chuyện với ngươi thì nó sẽ sa bại. Kìa,
16Ta đã tạo ra người thợ biết thổi lửa và chuyên rèn đúc vũ khí; Ta cũng đã tạo ra kẻ hủy diệt để tàn phá.17Mọi thứ khí giới làm ra chống lại ngươi sẽ thất bại; và ngươi sẽ kết tội mọi kẻ cáo tội ngươi. 551“Mọi người nào khát, hãy đến uống nước! Các ngươi là kẻ không có tiền, hãy đến mua mà ăn! Hãy đến mua rượu và sữa mà không cần tiền, không tốn kém.2Sao các ngươi cân bạc để mua thứ chẳng phải là bánh? Và chịu khó nhọc để đổi lấy thứ chẳng làm cho no? Hãy nghe Ta cho kỹ, ăn món ngon và khiến mình vui thích nơi đồ béo. 3Hãy lắng tai và đến với Ta! Hãy nghe mà được sống! Nhất định Ta sẽ lập một giao ước đời đời với các ngươi, thực hiện các việc thành tín dành cho Đa-vít.
4Kìa, Ta đã đặt ngươi làm chứng nhân cho các nước, làm thủ lĩnh, chỉ huy các dân. 5Này, ngươi sẽ chiêu tập một nước ngươi chẳng biết; và một nước chưa biết ngươi sẽ chạy đến với ngươi vì cớ Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên, Đấng đã làm rạng danh ngươi. 6Hãy tìm kiếm Giê-hô-va trong lúc có thể tìm được; hãy kêu cầu Ngài khi Ngài ở gần.
7Kẻ ác phải từ bỏ con đường mình, người tội phải từ bỏ ý tưởng mình. Họ phải quay về với Giê-hô-va, rồi Ngài sẽ xót thương, và về cùng Đức Chúa Trời chúng ta, là Đấng tha thứ dồi dào. 8“Vì — đây là lời tuyên phán của Giê-hô-va — ý tưởng Ta chẳng phải ý tưởng các ngươi, đường lối các ngươi chẳng phải đường lối Ta,
9vì các tầng trời cao hơn đất thể nào, thì đường lối Ta cao hơn đường lối các ngươi, ý tưởng Ta cao hơn ý tưởng các ngươi cũng thể ấy.10Vì, như mưa và tuyết từ trời đổ xuống mà không trở lại nếu chưa dầm thấm đất, khiến đất sinh sản cây con và cung cấp hạt giống cho kẻ gieo, bánh cho kẻ ăn,
11thì lời Ta ra từ miệng Ta cũng vậy: nó sẽ không trở về cách vô ích, mà sẽ làm trọn điều Ta muốn, hoàn thành việc Ta sai nó làm.12Vì các ngươi sẽ ra đi trong sự vui mừng và được dắt đưa đi cách bình an; trước mặt các ngươi, núi và đồi sẽ trổi tiếng reo vui, mọi cây ngoài đồng sẽ vỗ tay.
13Tùng bách sẽ mọc lên thay cho bụi gai; cây sim sẽ mọc thay cho thạch nam, và việc đó sẽ tôn cao Giê-hô-va, làm rạng danh Ngài, như một dấu hiệu đời đời không bị diệt mất.” 561Đây là lời Giê-hô-va phán: “Hãy tuân giữ điều phải, thực hành điều công bình; vì sự cứu rỗi Ta đã gần, và sự công chính ta sắp được tỏ lộ.2Phước cho người làm như vậy, cũng như ai nắm chặt lấy nó. Họ tuân giữ ngày Sa-bát, không phàm tục hóa nó, kiềm giữ tay mình để khỏi làm điều gì xấu xa.” 3Đừng có người ngoại quốc nào đã đi theo Giê-hô-va mà lại nói: “Hẵn Giê-hô-va sẽ loại bỏ tôi khỏi dân Ngài.” Kẻ đã hoạn đừng bảo: “Này, tôi chỉ là cây khô.” 4Vì đây là lời Giê-hô-va phán: “Đối với những kẻ hoạn biết tuân giữ ngày Sa-bát Ta và chọn điều đẹp lòng Ta, kiên định trong giao ước Ta thì,
5để lưu danh họ, Ta sẽ lập một đài kỷ niệm trong nhà Ta, trong thành Ta — như thế còn quý hơn là có con trai, con gái; Ta sẽ ban cho họ một đài kỷ niệm vĩnh cửu chẳng bị hủy phá.”6Cũng vậy, những người ngoại quốc liên kết với Giê-hô-va để phục vụ Ngài, những kẻ yêu mến danh Giê-hô-va và thờ phượng Ngài, mọi kẻ tuân giữ ngày Sa-bát và giữ để nó khỏi bị uế tục, cùng kẻ trung kiên với giao ước của Ta,
7“Những kẻ này Ta sẽ đem lên núi thánh Ta và khiến họ vui mừng trong nhà cầu nguyện Ta; của lễ thiêu và sinh tế của họ sẽ được chấp nhận trên bàn thờ Ta. Vì nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc,8đó là lời tuyên phán của Chúa Giê-hô-va, Đấng nhóm họp lại những kẻ bơ vơ của Y-sơ-ra-ên — và nhóm họp những kẻ khác nữa cùng với họ.”9Hỡi các loài thú hoang ngoài đồng, hãy đến mà ăn nuốt, toàn bộ thú rừng chúng bay!
10Mọi kẻ canh giữ họ đều đui mù; chúng chẳng hiểu; chúng đều là chó câm; chúng chẳng sủa được; chỉ mơ mộng, nằm nghỉ, ham ngủ. 11Những con chó đó háu ăn; chúng chẳng bao giờ thấy đủ; chúng là kẻ chăn chẳng hiểu biết; chúng đều đi theo đường riêng của mình, ai cũng thèm muốn lợi bất nghĩa.
12Chúng bảo: “Hãy đến, chúng ta sẽ uống rượu vang cùng rượu mạnh; ngày mai sẽ như bữa nay, một ngày vô cùng tuyệt vời.” 571Người công chính bỏ mạng nhưng chẳng ai để tâm suy nghĩ; người trung nghĩa bị đem đi, nhưng chẳng ai hiểu người công chính được đưa đi tránh tai họa.2Người đi vào chốn an bình; những kẻ bước đi trong sự ngay thẳng được an nghỉ ở giường mình. 3Nhưng, các ngươi là con trai của phù thủy, con cái của kẻ ngoại tình và người phụ nữ bán dâm, hãy lại gần đây.
4Các ngươi đang trêu chọc ai đó? Các ngươi mở mồm, le lưỡi xỉa xói ai đó? Chẳng phải các ngươi là con cái bội nghịch, con cái lọc lừa đó sao? 5Các ngươi tự sưởi ấm bằng cách ngủ với nhau dưới các gốc sồi, dưới mọi cây xanh, hỡi những kẻ giết con cái mình nơi lòng sông khô cạn, dưới các mô đá. 6Lẫn trong những thứ nhẵn bóng dưới thung lũng sông là các thứ được phân chia cho các ngươi. Chúng là vật sùng kính của các ngươi. Các ngươi dâng của lễ quán cho chúng, cùng của lễ chay. Ta có nên vui thích về các việc này chăng? 7Các ngươi đã sắm sửa giường mình trên một ngọn núi cao; các ngươi cũng lên đó mà dâng sinh tế.
8Các ngươi dựng các biểu tượng mình đằng sau cửa và trụ cửa; các ngươi lìa bỏ Ta, cởi bỏ quần áo, rồi lên chiếc giường mà các ngươi đã cơi nới. Các ngươi lập giao ước với chúng; các ngươi yêu thích giường của chúng; các ngươi ngắm nhìn sự trần truồng của chúng. 9Các ngươi đem dầu đến gặp vua; các ngươi thêm thật nhiều nước hoa. Các ngươi sai sứ đi xa; các ngươi xuống tận âm phủ.
10Các ngươi mòn mỏi vì đường xa, nhưng lại chưa bao giờ nói: “Chẳng có hy vọng gì.” Các ngươi tìm được sự sống trong tay; vậy nên các ngươi không suy yếu. 11“Các ngươi lo ngại ai? Các ngươi sợ ai đến độ các ngươi hành xử cách gian dối như vậy, đến độ các ngươi chẳng nhớ đến Ta hoặc để tâm đến Ta? Vì Ta đã yên lặng lâu quá nên các ngươi chẳng sợ Ta nữa.
12Ta sẽ công bố mọi việc công chính các ngươi và kể ra mọi điều các ngươi đã làm, nhưng chúng sẽ chẳng ích gì cho các ngươi. 13Khi các ngươi kêu la, ước gì các hình tượng mà các ngươi sưu tập đó giải cứu các ngươi. Nhưng không, gió sẽ đùa chúng đi hết thảy, một hơi thở cũng đủ đem chúng đi hết. Còn kẻ nương náu nơi Ta sẽ thừa hưởng đất và sẽ sở hữu núi thánh Ta. 14Ngài sẽ bảo: ‘Hãy xây dựng, xây dựng đi! Hãy mở đường! Hãy di dời các đá gây vấp váp khỏi đường đi của dân Ta!’”15Vì này là lời của Đấng cao cả và siêu việt, Đấng sống đời đời, danh Ngài là thánh: “Ta ngự ở nơi cao và thánh, nhưng cũng ở với kẻ có tâm thần tan vỡ, khiêm cung, để làm hồi sinh tâm thần của kẻ khiêm nhường, là tươi tỉnh tấm lòng của người biết ăn năn. 16Vì Ta sẽ không cáo tội luôn luôn, cũng chẳng tức giận mãi mãi, vì như vậy tâm linh của người ta sẽ suy sụp trước mặt Ta, tức những sinh mạng mà Ta đã tạo ra.
17Vì tội tham tàn của nó mà ta nổi giận, và Ta đã hình phạt nó; Ta đã giấu mặt đi và giận dữ, nhưng nó vẫn trở lui theo con đường của lòng mình. 18Ta đã nhìn thấy mọi đường lối nó, nhưng Ta sẽ chữa lành nó. Ta sẽ dẫn dắt nó, cũng như vỗ về và yên ủi những kẻ than tiếc nó,
19và Ta làm nên trái của môi miếng. Chúc bình an, bình an cho những kẻ ở xa lẫn những kẻ ở gần — Giê-hô-va phán — Ta sẽ chữa lành chúng.20Nhưng kẻ ác giống như biển động, chẳng thể nghỉ yên, nước nó khuấy tung sình lầy lên.
21Chẳng có sự bình an cho kẻ ác — Đức Chúa Trời phán vậy.” 581“Hãy kêu la cho lớn, đừng kìm nén, hãy cất tiếng lên như cái kèn, rao báo cho dân ta sự bội nghịch của chúng, và cho nhà Gia-cốp biết tội lỗi mình.2Vậy mà chúng lại tìm kiếm Ta mỗi ngày và muốn biết đường lối Ta, như một dân thực hành sự công chính và chưa lìa bỏ luật pháp của Đức Chúa Trời mình. Chúng cầu Ta ban các phán quyết công chính; chúng vui thích khi Đức Chúa Trời đến gần. 3Chúng bảo: ‘Sao chúng tôi kiêng ăn mà Chúa chẳng thấy? Sao chúng tôi hạ mình mà Chúa không để ý?’ Kìa, trong ngày các ngươi kiêng ăn thì các ngươi vẫn tìm lạc thú và áp bức mọi kẻ làm công cho mình. 4Kìa, các ngươi kiêng ăn để cãi cọ, tranh chấp, đánh đấm bằng nắm tay gian ác của mình; các ngươi đâu có kiêng ăn để tiếng mình được nghe thấy trên trời.
5Đó phải chăng là cách kiêng ăn mà Ta ưa muốn: Một ngày để người ta hạ mình xuống, cúi gập đầu như cây sậy, nằm trên vài thô và bụi tro? Ngươi thật gọi đó là kiêng ăn, là ngày làm đẹp lòng Giê-hô-va, ư? 6Cách kiêng ăn mà Ta ưa thích chẳng phải là tháo cùm hung ác, mở dây buộc ách, trả tự do cho người bị áp bức, bẻ gãy mọi ách, hay sao?
7Đó chẳng phải là chia bánh cho người đói, đem người nghèo và kẻ vô gia cư về nhà mình, sao?” Khi các ngươi thấy ai đó trần truồng thì các ngươi phải mặc đồ cho; các ngươi cũng đừng ẩn mặt trước những người bà con, họ hàng của mình. 8Bấy giờ, ánh sáng của các ngươi sẽ tỏ rạng như bình minh, và ngươi sẽ nhanh chóng được chữa lành; sự công chính các ngươi sẽ đi trước các ngươi, và vinh quang của Giê-hô-va sẽ bảo vệ đằng sau các ngươi. 9Bấy giờ, các ngươi sẽ kêu, và Giê-hô-va sẽ đáp lại; các ngươi sẽ cầu xin cứu giúp, và Ngài sẽ đáp: “Ta đây.” Nếu các ngươi cất khỏi giữa vòng mình cái ách, ngón tay cáo tội và lời nói tàn độc,
10nếu các ngươi giúp bánh cho kẻ đói và đáp ứng nhu cầu của kẻ khốn cùng; được vậy thì ánh sáng các ngươi sẽ mọc lên giữa bóng tối, và bóng tối các ngươi sẽ giống như giữa ban ngày.11Rồi Giê-hô-va sẽ cứ luôn dắt đưa các ngươi và thỏa đáp các ngươi ở những nơi thiếu nước, và Ngài sẽ khiến cứng chắc xương cốt các ngươi. Các ngươi sẽ như khu vườn được tưới, như dòng suối có nước chẳng bao giờ cạn tắt. 12Một số các ngươi sẽ tái thiết các nơi đổ nát ngày xưa; các ngươi sẽ dựng lại các tàn tích thuộc nhiều đời trước; các ngươi sẽ được gọi là “Kẻ trùng tu vách thành,” “Kẻ tái thiết đường phố để cư ngụ.” 13Nếu các ngươi giữ bàn chân mình để khỏi đi lại trong ngày Sa-bát, và không tìm lạc thú riêng trong ngày thánh của ta; nếu các ngươi xưng ngày Sa-bát là niềm vui và nếu các ngươi xưng các việc của Giê-hô-va là thánh và đáng tôn trọng; nếu các ngươi giữ ngày Sa-bát khi gác lại công việc riêng, không tìm kiếm lạc thú riêng và không nói lời theo ý riêng mình; 14“bấy giờ các ngươi sẽ tìm được sự vui thích nơi Giê-hô-va; và Ta sẽ khiến các ngươi cưỡi trên các nơi cao trên đất; Ta sẽ lấy sản nghiệp của Gia-cốp, tổ phụ các ngươi, để nuôi các ngươi — vì miệng của Giê-hô-va đã phán như vậy.” 591Này, tay của Giê-hô-va chẳng ngắn đến nỗi không cứu được; tai Ngài cũng chẳng nặng đến nỗi không nghe được.2Tuy nhiên, chính việc làm tội lỗi các ngươi đã ngăn cách các ngươi với Đức Chúa Trời mình, chính tội lỗi các ngươi đã khiến Ngài ẩn mặt với các ngươi và không nghe các ngươi. 3Vì bàn tay các ngươi vấy máu, ngón tay các ngươi nhuốm tội. Môi các ngươi nói dối, lưỡi các ngươi nói lời hiểm độc.
4Không ai lấy lẽ công chính mà kêu nài, chẳng ai lấy sự chân thật mà biện hộ cho mình. Chúng cậy vào những lời sáo rỗng và ăn nói dối trá; chúng cưu mang chuyện phiền toái và sinh ra tội lỗi. 5Chúng ấp trứng rắn độc và dệt mạng nhện. Ai ăn trứng của chúng sẽ chết, và nếu trứng giập thì sẽ nở ra rắn độc.
6Mạng chúng dệt thì không dùng làm áo được, chúng không thể che thân bằng hàng của mình. Đồ chúng làm ra là sản phẩm tội lỗi, bàn tay của chúng làm chuyện hung bạo. 7Bàn chân chúng chạy đi làm ác, lẹ làng làm đổ máu vô tội. Ý tưởng của chúng là ý tưởng tội lỗi; bạo hành và hủy diệt là con đường chúng đi.
8Chúng chẳng biết đường bình an, chẳng có sự công bằng trong các đường lối chúng. Chúng khiến các lối đi cong quẹo; ai đi trong các lối đó chẳng biết bình an. 9Vậy nên sự công bình vẫn cách xa chúng ta, sự công chính cũng không đến với chúng ta. Chúng ta trông chờ ánh sáng, nhưng lại thấy bóng tối; chúng ta tìm kiếm sự rạng rỡ, nhưng vẫn bước trong sự tối tăm.
10Chúng ta mò tìm vách tường như kẻ mù, như người khiếm thị. Giữa ban ngày mà chúng ta vấp chân như lúc chạng vạng; giữa vòng kẻ mạnh sức mà chúng ta lại như người đã chết. 11Chúng ta gầm gừ như gấu, rên rỉ như chim bồ câu; chúng ta trông chờ sự công bằng, nhưng chẳng có; trông chờ sự giải cứu, nhưng nó thật xa vời. 12Vì các vi phạm của chúng tôi trước mặt Ngài thật là nhiều, và tội lỗi chúng tôi làm chứng chống lại chúng tôi; vì các vi phạm của chúng tôi ở với chúng tôi, và chúng tôi biết các tội mình.
13Chúng tôi đã bội nghịch mà chối bỏ Giê-hô-va và trở lòng không chịu theo Đức Chúa Trời mình. Chúng tôi đã nói lời bạo ngược và phản loạn, cưu mang trong lòng thái độ oán trách cùng lời dối trá. 14Lẽ công bằng phải lùi lại, còn sự công chính phải đứng đằng xa; vì sự thật bị vấp ngã ở chốn công cộng, còn điều phải thì chẳng đến được.
15Lòng trung thành đã biến mất, và kẻ lìa bỏ điều ác trở thành nạn nhân. Giê-hô-va nhìn thấy điều đó và Ngài không hài lòng vì chẳng có lẽ công bằng. 16Ngài thấy chẳng có người nào, và ngạc nhiên vì không có ai can thiệp. Vì vậy, chính tay Ngài đem đến sự cứu rỗi cho người, và sự công chính Ngài nâng đỡ người. 17Ngài lấy sự công chính làm áo giáp, đội lên đầu nón cứu rỗi. Ngài mặc áo báo thù và lấy lòng nhiệt thành làm áo choàng.
18Ngài báo trả chúng về những việc chúng đã làm, tức sự phán xét thịnh nộ dành cho kẻ đối địch Ngài, sự báo oán dành cho kẻ thù Ngài, hình phạt dành cho các hải đảo như là phần của chúng. 19Như vậy, từ phương tây, người ta sẽ kinh sợ danh Giê-hô-va, và từ hướng mặt trời mọc, người ta sẽ kinh sợ vinh quang Ngài. Vì Ngài sẽ đến như dòng suối cuồn cuộn, nhờ hơi thở của Giê-hô-va thổi giục.
20“Một Đấng cứu chuộc sẽ đến với Si-ôn và với những kẻ từ bỏ các việc làm bội nghịch của Gia-cốp — đó là lời tuyên phán của Giê-hô-va. 21Về phần Ta — Giê-hô-va phán — Thần Ta vốn ở trên các ngươi, cùng với lời mà Ta đã đặt vào miệng các ngươi, sẽ không lìa khỏi miệng các ngươi, cũng không lìa khỏi miệng con cái các ngươi, hoặc lìa khỏi miệng của cháu chắt các ngươi — Giê-hô-va phán — từ nay cho đến đời đời.” 601Hãy đứng lên, chiếu sáng ra; vì ánh sáng ngươi đã đến, và vinh quang Giê-hô-va đã hiện ra trên ngươi.2Dầu bóng tối sẽ che phủ trái đất, sự tối tăm dày đặc bao trùm lên các dân; nhưng Giê-hô-va sẽ phủ bao ngươi, vinh quang Ngài sẽ tỏa rạng trên ngươi.
3Các dân sẽ đến cùng ánh sáng ngươi, các vua sẽ đến với sự sáng chói lòa đang hiện ra. 4Hãy nhìn quanh để thấy. Tất cả họ đều tập hợp lại và đến cùng ngươi. Con trai ngươi từ xa đến, còn con gái ngươi được họ bồng ẳm.
5Rồi ngươi sẽ nhìn và hớn hở, lòng ngươi sẽ vui sướng tràn dâng, vì sự giàu có của biển cả tuôn đổ trên ngươi, tài sản của các dân sẽ đến với ngươi. 6Từng đoàn lạc đà sẽ tràn ngập chỗ ngươi, các lạc đà một gu của Ma-đi-an và Ê-pha; họ đều đến từ Sê-ba; họ sẽ mang theo vàng cùng trầm hương, và sẽ hát ca ngợi Giê-hô-va.
7Mọi bầy vật của Kê-đa sẽ tập hợp lại chỗ ngươi, chiên đực của Nê-ba-giốt sẽ đáp ứng các nhu cầu của ngươi; chúng sẽ là những của lễ được nhậm trên bàn thờ Ta; và Ta sẽ làm rạng rỡ nhà vinh hiển của Ta. 8Những kẻ bay như mây, như chim bồ câu về chuồng đó là ai vậy?
9Các xứ ven biển trông mong Ta, và đi đầu là các tàu bè Ta-rê-si, đem các con trai ngươi về từ phương xa, cùng với bạc và vàng của chúng, vì cớ danh của Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, và vì cớ Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên, bởi Ngài đã tôn quý ngươi. 10Các con trai dân ngoại quốc sẽ xây lại các vách thành ngươi, các vua chúng nó sẽ phục vụ ngươi; vì đang cơn giận Ta đã phạt ngươi, nhưng để thi ân, Ta sẽ thương xót ngươi.
11Các cổng ngươi cũng sẽ luôn để mở; chúng sẽ không bị đóng lại, dù là ngày hay đêm, để tài sản của các dân được đem vào, cùng với các vua của chúng bị dẫn theo. 12Thật, các dân và các nước không thần phục ngươi sẽ tiêu vong; các dân đó sẽ bị tuyệt diệt.
13Cây bách, cây tùng, cây thông, là vinh quang của Li-ban, sẽ cùng đến chỗ ngươi, để tô điểm nơi thánh của Ta; và Ta sẽ làm vinh hiển chỗ Ta đặt chân. 14Con trai của những kẻ đã hạ nhục ngươi sẽ đến sấp mình xuống; chúng sẽ sấp xuống nơi chân ngươi; chúng sẽ gọi ngươi là Thành của Giê-hô-va, là Si-ôn của Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên. 15Thay vì cứ để cho ngươi bị ruồng bỏ và thù ghét, không có ai qua lại, Ta sẽ khiến ngươi thành ra niềm kiêu hãnh đến muôn đời, thành sự vui mừng từ thế hệ này sang thế hệ khác.
16Ngươi cũng sẽ uống sữa của các dân, và bú vú của các vua; ngươi sẽ biết rằng Ta, Giê-hô-va, là Đấng Cứu Rỗi và Đấng Cứu Chuộc ngươi, Đấng Quyền Năng của Gia-cốp. 17Thay vì đồng, Ta sẽ đem cho vàng, thay vì sắt, Ta sẽ đem cho bạc; thay vì gỗ, Ta sẽ đem cho đồng, thay vì đá, ta sẽ đem cho sắt. Ta sẽ cắt đặt hòa bình làm kẻ cai quản ngươi, sự công bình làm kẻ cai trị ngươi.
18Trong xứ ngươi sẽ chẳng còn nghe về bạo hành, sự tàn hại và hủy phá cũng không còn nghe thấy trong lãnh thổ ngươi. 19Mặt trời sẽ không còn làm ánh sáng cho ngươi vào ban ngày; ánh trăng cũng không còn chiếu sáng ngươi lúc ban đêm; mà Giê-hô-va sẽ là ánh sáng đời đời của ngươi, và là Đức Chúa Trời ngươi, vinh quang của ngươi.
20Mặt trời ngươi sẽ không lặn nữa, mặt trăng ngươi cũng không tàn và biến mất; vì Giê-hô-va sẽ là ánh sáng đời đời của ngươi, những ngày than khóc của ngươi sẽ chấm dứt. 21Hết thảy dân ngươi sẽ đều công chính; họ sẽ chiếm hữu xứ đến muôn đời, tức nhánh mà Ta trồng, là công việc của tay Ta, để Ta được vinh hiển.
22Kẻ nhỏ bé sẽ thành cả ngàn, kẻ tầm thường sẽ thành cả dân tộc; Ta, Giê-hô-va, sẽ sớm làm thành các việc này vào đúng thời điểm. 611Thần của Chúa Giê-hô-va ở trên ta, vì Giê-hô-va đã xức dầu cho ta để công bố tin mừng cho kẻ khiêm nhường. Ngài đã sai ta chữa lành kẻ có lòng tan vỡ, rao sự tự do cho kẻ tù tội, mở cửa ngục tù giải thoát kẻ bị xiềng xích.2Ngài đã sai ta công bố năm thi ân của Giê-hô-va, ngày báo thù của Đức Chúa Trời chúng ta, cùng yên ủi kẻ than vãn — 3để ban cho họ khăn xếp thay vì tro bụi, dầu vui mừng thay vì than khóc, áo ngợi khen thay vì tâm thần buồn chán; để gọi họ là những cây sồi công chính, là cây Giê-hô-va trồng để Ngài được vinh hiển.4Họ sẽ xây dựng lại các tàn tích xưa; họ sẽ phục hồi các nơi hoang phế trước đây. Họ sẽ tái thiết những thành bị đổ nát, những nơi hoang tàn từ nhiều thế hệ trước.
5Dân ngoại quốc sẽ đứng chăn bầy cho các ngươi, bọn con trai của người nước ngoài sẽ làm công trong đồng ruộng và vườn nho các ngươi. 6Các ngươi sẽ được gọi là thầy tế lễ của Giê-hô-va; người ta sẽ gọi các ngươi là tôi tớ của Đức Chúa Trời. Các ngươi sẽ được hưởng tài sản của các dân, và các ngươi sẽ kiêu hãnh về của cải chúng nó.
7Thay vì xấu hổ, các ngươi sẽ nhận được gấp đôi; thay vì sỉ nhục, chúng sẽ vui mừng về phần được chia cho mình. Như vậy, chúng sẽ được chia phần đất gấp đôi; niềm vui đời đời sẽ thuộc về chúng. 8Vì Ta, Giê-hô-va, yêu thích sự công bình, và ghét sự cướp bóc cùng sự bất công hung bạo. Ta sẽ báo lại cho chúng một cách thành tín, và Ta sẽ lập với chúng một giao ước đời đời.
9Con cháu chúng nó sẽ được biết đến giữa các nước, dòng dõi chúng nó sẽ nổi tiếng giữa các dân. Mọi kẻ nào thấy đều nhìn biết chúng nó, công nhận rằng chúng nó là dân được Giê-hô-va ban phước. 10Ta sẽ rất vui mừng nơi Giê-hô-va; ta sẽ thật vui sướng nơi Đức Chúa Trời ta. Vì Ngài đã mặc cho ta áo cứu rỗi; Ngài đã mặc cho ta chiếc áo công chính, như chú rể diện khăn đội đầu, như cô dâu trang điểm châu ngọc.
11Vì như đất khiến cây cỏ đâm chồi, như vườn khiến cây cối lớn lên thể nào, thì Chúa Giê-hô-va cũng sẽ khiến sự công chính và ngợi khen mọc lên trước mặt mọi dân, mọi nước giống như vậy. 621Vì cớ Si-ôn, Ta sẽ chẳng im tiếng, vì cớ Giê-ru-sa-lem, Ta sẽ không nín lặng, cho đến khi sự công chính nó chói rạng, và sự cứu rỗi nó cháy sáng như ngọn đuốc.2Các dân sẽ nhìn thấy sự công chính ngươi, mọi vua sẽ nhìn thấy vinh quang ngươi. Ngươi sẽ được gọi bằng một tên mới mà Giê-hô-va sẽ chọn cho. 3Ngươi cũng sẽ là một vương miện hoa mỹ trong tay Giê-hô-va, một chiếc khăn đội đầu thể hiện vương quyền trong tay Đức Chúa Trời mình.
4Ngươi sẽ không còn bị nói đến như “Đồ bị ruồng bỏ”; xứ ngươi cũng sẽ chẳng còn bị gọi là “Đất hiu quạnh” nữa. Thật, ngươi sẽ được gọi là “Kẻ Ta vui thích,” và xứ ngươi sẽ được gọi là “Kẻ có chồng,” vì Giê-hô-va vui thích về ngươi, và xứ ngươi sẽ có chồng. 5Như người thanh niên đi cưới một thiếu nữ, thì cũng vậy, các con trai ngươi sẽ cưới ngươi; chàng rể vui mừng về vợ mới mình thể nào, thì Giê-hô-va cũng sẽ vui mừng về ngươi thể ấy. 6Hỡi Giê-ru-sa-lem, Ta đã đặt người canh gác trên các tường thành ngươi; chúng nó chẳng nín lặng, dầu là ngày hay đêm. Các ngươi là kẻ vẫn nhắc nhở Giê-hô-va, đừng có ngưng nghỉ.
7Đừng để Ngài nghỉ ngơi cho đến khi Ngài tái lập Giê-ru-sa-lem và khiến nó thành cớ ngợi khen trên đất. 8Giê-hô-va đã dùng bàn tay hữu và cánh tay quyền năng Ngài mà thề, rằng: “Chắc chắn Ta sẽ không ban lúa mì ngươi làm lương thực cho kẻ thù ngươi nữa. Dân ngoại quốc sẽ chẳng còn uống rượu mới mà các ngươi đã làm ra.
9Vì những kẻ gặt hái lúa mì sẽ được ăn nó và ca ngợi Giê-hô-va; những kẻ hái nho sẽ được uống rượu trong hành lang của nơi thánh Ta.” 10Hãy đi qua, đi qua cổng thành! Hãy sửa soạn lối đi cho dân chúng! Hãy xây đắp, xây đắp đường lộ! Hãy dọn sạch đá! Hãy giương cờ hiệu cho các dân! 11Kìa, Giê-hô-va đã loan báo cho các nơi tận cùng trái đất, rằng: “Hãy nói với con gái Si-ôn: Này, Đấng Cứu Rỗi ngươi đang đến! Kìa, Ngài đem phần thưởng theo, phần thưởng Ngài đi trước Ngài.”
12Người ta sẽ gọi ngươi là “Dân thánh, kẻ được chuộc của Giê-hô-va,” và ngươi sẽ được gọi là “Nơi được tìm đến, thành không bị ruồng bỏ.” 631Ai từ Ê-đôm, từ Bốt-ra đến mà mặc đồ đỏ thế kia? Ai vận trang phục quân vương, đang bước đi đầy tự tin vì uy lực lớn lao của mình vậy? Chính là Ta, Đấng phán lời công chính và có trọn quyền cứu rỗi.2Sao đồ Ngài mặc lại nhuộm đỏ, giống như người vừa đạp nho nơi bàn ép rượu vậy? 3Ta đã đạp nho nơi bàn ép rượu một mình, chẳng có ai từ các dân cùng tham gia. Ta đã giẫm lên chúng nó đang lúc thạnh nộ, và giày đạp chúng nó trong cơn giận dữ mình. Máu chúng nó bắn tóe lên quần áo Ta và vấy đỏ toàn bộ y phục Ta.
4Vì Ta trông đợi đến ngày báo thù, và năm cứu chuộc của Ta đã đến. 5Ta nhìn mà chẳng thấy ai giúp đỡ. Ta ngạc nhiên vì chẳng có người nào hỗ trợ, nhưng chính tay Ta đã đem về cho Ta chiến thắng, chính cơn giận phừng phừng của Ta là động lực thúc đẩy.
6Đang cơn giận, Ta giày đạp các dân, khiến chúng say trong cơn thạnh nộ Ta, và khiến máu chúng nó văng tóe ra trên đất. 7Tôi sẽ nói về các việc làm thành tín của Giê-hô-va, các công việc đáng ca ngợi của Giê-hô-va. Tôi sẽ nói về mọi việc mà Giê-hô-va đã làm cho chúng ta, cũng như về lòng nhân từ lớn lao của Ngài đối với nhà Y-sơ-ra-ên. Ngài đã thể hiện ơn thương xót như vậy đối với chúng ta vì lòng bao dung của Ngài, kèm theo nhiều việc làm thành tín.
8Vì Ngài phán: “Thật, họ là dân ta, những đứa con chẳng bội tín.” Ngài trở nên Đấng Cứu Rỗi họ. 9Trong mọi sự khốn khổ họ chịu thì Ngài cũng khốn khổ, và thiên sứ từ trước mặt Ngài đã giải cứu họ. Bởi tình yêu thương và lòng khoan dung mà Ngài đã cứu họ; Ngài đã nâng họ lên và bồng ẵm họ suốt thời xa xưa. 10Nhưng họ đã bội nghịch và làm buồn Thánh Linh Ngài. Vậy nên Ngài trở thành kẻ thù của họ chống lại họ. 11Dân Ngài nhớ về thời Môi-se thuở xưa. Họ bảo: “Đức Chúa Trời mà đã cứu dân chúng khỏi lòng biển cùng với những kẻ chăn bầy của Ngài ở đâu? Đức Chúa Trời mà đã đặt Thánh Linh Ngài giữa vòng họ ở đâu vậy? 12Đâu rồi Đức Chúa Trời mà đã khiến quyền năng mình đi kèm tay phải của Môi-se cũng như phân rẽ nước trước mặt họ, để tạo lập một danh đời đời cho Ngài?
13Đâu rồi Đức Chúa Trời, Đấng đã dắt đưa họ qua nước sâu? Như ngựa chạy trên đất bằng phẳng, họ chẳng bị sẩy chân. 14Thần Linh của Giê-hô-va cho họ an nghỉ, như đàn gia súc được vào thung lũng. Ngài dẫn dắt dân Ngài như vậy, để khiến người ta phải ca ngợi danh Ngài. 15Từ trên trời, xin Chúa hãy nhìn xuống, từ nơi ngự thánh và vinh quang của Ngài, xin hãy xem. Lòng nhiệt thành cùng các việc quyền năng Ngài đâu rồi? Ngài chẳng thương cảm và động lòng trắc ẩn đối với chúng con.
16Vì Chúa là Cha chúng con, dầu Áp-ra-ham không biết chúng con, dầu Y-sơ-ra-ên không nhận ra chúng con, nhưng Ngài, Giê-hô-va, là Cha chúng con. Từ thời xưa thì Ngài đã mang danh là ‘Đấng Cứu Chuộc chúng con.’ 17Giê-hô-va ôi, sao Chúa lại khiến chúng con đi lạc khỏi đường lối Chúa và làm cho lòng chúng con chai đá, chẳng còn tuân phục Ngài? Xin hãy vì các tôi tớ Ngài, là các bộ tộc làm cơ nghiệp Ngài, mà quay trở lại. 18Chỉ trong thời gian ngắn dân Ngài được sở hữu nơi thánh Ngài, nhưng rồi kẻ thù chúng con giày đạp nó.
19Chúng con đã trở nên như kẻ chưa bao giờ được Ngài cai trị, kẻ chưa bao giờ được xưng bằng danh Ngài.” 641“Ôi, ước gì Chúa mở toang các tầng trời và ngự xuống! Núi non hẳn rúng động trước sự hiện diện của Ngài,2như khi lửa đốt cháy củi vụn, như khi lửa làm sôi nước. Ôi, ước gì danh Ngài được các kẻ thù địch Ngài biết đến, ước gì các dân run rẩy trước mặt Ngài!3Ngày trước, khi Chúa làm những việc diệu kỳ mà chúng con không ngờ, thì Ngài đã ngự xuống và núi non phải run sợ trước mặt Ngài.
4Từ xưa, chẳng ai từng nghe hay nghĩ đến, cũng chẳng mắt nào thấy có Đức Chúa Trời nào ngoài Ngài, Đấng làm việc này việc nọ cho kẻ trông đợi Ngài. 5Chúa đến cứu giúp những kẻ vui mừng thực hành điều phải, những kẻ lưu ý đến các đường lối Ngài và vâng giữ. 6Vì chúng con đều trở nên như kẻ ô uế, mọi việc công chính của chúng con giống như miếng giẻ bẩn thỉu. Chúng con đều khô héo đi như chiếc lá, tội lỗi chúng con như gió đùa mình đi.
7Chẳng có ai kêu cầu danh Chúa, ra sức nắm lấy Ngài, vì Chúa đã ẩn mặt với chúng con và bỏ mặc chúng con cho tội lỗi mình. 8Dầu vậy, Giê-hô-va ôi, Chúa là Cha chúng con; chúng con là đất sét. Chúa là thợ gốm; và chúng con đều là công việc của tay Ngài.
9Hỡi Giê-hô-va, xin đừng quá giận, cũng chớ mãi nhớ đến các tội của chúng con. Xin hãy đoái xem hết thảy chúng con, là dân Chúa. 10Các thành thánh Ngài đã trở nên hoang mạc; Si-ôn đã trở nên hoang vắng, Giê-ru-sa-lem thành chốn quạnh hiu.
11Đền thánh đẹp đẽ của chúng con, nơi cha ông chúng con ca ngợi Ngài, đã bị lửa thiêu hủy, và mọi thứ thân thiết đều tan hoang.
12Giê-hô-va ôi, sao Ngài vẫn có thể giữ yên lặng và khiến chúng con chịu sỉ nhục?” 651“Ta đã sẵn sàng cho những kẻ chưa từng cầu hỏi Ta tìm gặp; Ta đã sẵn sàng cho những kẻ chưa từng tìm kiếm Ta tìm được. Ta đã phán với một dân chưa kêu cầu danh Ta, rằng: ‘Ta đây! Ta đây!’2Suốt ngày Ta đã đưa tay ra hướng về một dân ương ngạnh, đi trong con đường chẳng thánh lành, cứ bước theo ý tưởng và toan tính riêng của mình! 3Chúng là dân không ngừng xúc phạm Ta, cúng tế trong các khu vườn, dâng hương trên gạch ngói.
4Chúng ngồi nơi mồ mả, canh giữ thâu đêm, rồi ăn thịt heo với nước thịt bẩn trong bát đĩa mình. 5Chúng bảo: ‘Đứng tránh ra, đừng lại gần, vì tôi thánh sạch hơn các người.’ Các thứ này là khói trong mũi Ta, là đám lửa cháy suốt ngày. 6Này, trước mặt Ta có lời chép: Ta sẽ chẳng giữ im lặng, vì Ta sẽ báo trả; Ta sẽ báo lại chúng nó vào lòng chúng nó,
7về tội lỗi chúng nó cùng tội lỗi cha ông chúng nó,” Giê-hô-va phán vậy. “Ta sẽ báo trả chúng nó vì đã dâng hương trên các núi và đã chế nhạo Ta trên các đồi. Vì vậy Ta sẽ đong vào lòng chúng các việc chúng đã làm trong quá khứ.”8Giê-hô-va phán thế này: “Như khi người ta thấy có nước cốt trong chùm nho, và bảo: ‘Đừng làm hư, vì trong đó còn dưỡng chất,’ thì cũng vậy, đây là điều Ta sẽ làm vì các tôi tớ mình: Ta sẽ không diệt hết chúng nó.9Ta sẽ đem về các con cháu của Gia-cốp và của Giu-đa, rồi chúng sẽ sở hữu các núi Ta. Những kẻ được chọn của Ta sẽ sở hữu xứ, và các tôi tớ Ta sẽ sống ở đó.
10Sa-rôn sẽ trở nên đồng cỏ cho các bầy chiên, thung lũng A-cô sẽ là nơi nghỉ ngơi cho các đàn gia súc, cho dân Ta, là kẻ tìm kiếm Ta. 11Nhưng các ngươi là kẻ lìa bỏ Giê-hô-va, kẻ quên núi thánh Ta, kẻ dọn tiệc cho thần May Mắn, kẻ rót đầy rượu pha cho thần gọi là Số Mệnh — 12Ta sẽ định cho các ngươi phải chịu gươm đao, và tất cả các ngươi sẽ bị tàn sát, vì khi Ta gọi, các ngươi chẳng đáp lại; khi Ta phán, các ngươi chẳng chịu nghe; thay vì vậy, các ngươi lại làm ác trước mặt Ta, và cố tình làm điều Ta không vui thích.”13Chúa Giê-hô-va phán như vầy: “Này, các tôi tớ Ta sẽ được ăn, còn các ngươi phải chịu đói; này, các tôi tớ Ta sẽ được uống, còn các ngươi phải chịu khát; này, các tôi tớ Ta sẽ hoan hỉ, còn các ngươi phải chịu nhục.
14Này, các tôi tớ Ta sẽ reo mừng vì vui sướng trong lòng, còn các ngươi sẽ khóc lóc vì đau đớn trong lòng, và sẽ than vãn vì tâm thần bị nhàu nát. 15Danh các ngươi lưu lại thì những kẻ được chọn của Ta sẽ dùng để nguyền rủa; Ta, Chúa Giê-hô-va, sẽ giết chết các ngươi; Ta sẽ gọi các tôi tớ Ta bằng một tên khác.
16Ai công bố một phước lành trên đất sẽ được Ta, Đức Chúa Trời của sự thật, ban phước. Ai thề hứa trên đất tức là thề nguyện bằng danh Ta, Đức Chúa Trời của sự thật, vì các hoạn nạn trước đó đã được quên hết, chúng đã khuất khỏi mắt Ta. 17Vì này, Ta sẽ dựng nên trời mới và đất mới; các việc trước sẽ chẳng còn được nhớ đến hay nhắc lại nữa.
18Nhưng các ngươi sẽ sung sướng và vui mừng mãi mãi về những gì Ta sẽ tạo dựng. Này, Ta sẽ dựng nên Giê-ru-sa-lem làm niềm hoan hỉ, và dân thành ấy làm niềm vui thích.
19Ta sẽ vui mừng về Giê-ru-sa-lem, và sung sướng về dân Ta; nơi nó sẽ chẳng còn nghe thấy sự khóc lóc, kêu la nữa. 20Tại đó sẽ chẳng bao giờ lại có trẻ nhỏ chết yểu; cũng chẳng còn người già chết trước kỳ. Người chết lúc trăm tuổi sẽ bị xem là chết trẻ. Kẻ có tội chết lúc trăm tuổi sẽ bị xem là bị rủa.
21Chúng sẽ cất nhà rồi sống trong đó; chúng sẽ trồng vườn nho rồi ăn trái nó. 22Sẽ không còn có chuyện kẻ này xây nhà nhưng lại có kẻ khác vào ở; một người trồng nhưng người khác được ăn; vì số ngày của dân Ta sẽ như số ngày của cây. Những kẻ được chọn của Ta sẽ sống lâu hơn công trình của tay mình.
23Họ sẽ không nhọc công vô ích, cũng không sinh con để rồi kinh sợ. Vì chúng là con cái của những kẻ được Giê-hô-va ban phước, cùng với dòng dõi của chúng. 24Trước khi chúng kêu thì Ta đã đáp lại; trong lúc chúng còn đang nói thì Ta đã nghe.
25Sói với chiên con sẽ gặm cỏ chung với nhau, còn sư tử sẽ ăn rơm như bò; nhưng tro bụi sẽ là thức ăn của loài rắn. Chúng sẽ không còn làm hại hay hủy diệt trên khắp núi thánh Ta,” Giê-hô-va phán vậy. 661Giê-hô-va phán thế này: “Trời là ngai Ta, đất là bệ chân Ta. Vậy thì đâu là nhà mà các ngươi sẽ xây cho Ta? Đâu là nơi Ta nghỉ ngơi?2Tay Ta đã tạo ra mọi vật này; nhờ vậy mới có mọi thứ ấy — đó là lời tuyên phán của Giê-hô-va. Kẻ được Ta đẹp ý là kẻ có tâm thần tan vỡ, ăn năn, kẻ nghe lời Ta mà run sợ. 3Kẻ giết thịt con bò cũng là kẻ giết người; kẻ hiến tế chiên con cũng đi bẻ cổ chó; kẻ dâng của lễ chay lại dâng máu heo; kẻ dâng hương tưởng niệm cũng xưng tụng cái ác. Chúng đã chọn con đường riêng cho mình, và chúng vui thích về các việc gớm ghiếc của mình. 4Thì cũng vậy, Ta sẽ chọn hình phạt cho chính chúng; Ta sẽ giáng trên chúng điều chúng sợ hãi, vì khi Ta gọi chẳng ai đáp lại; khi Ta phán chẳng ai lắng nghe. Chúng đã làm chuyện tà ác trước mặt Ta và cố ý làm những việc Ta chẳng vui thích.” 5Hãy nghe lời của Giê-hô-va phán, hỡi các ngươi là kẻ nghe lời Ngài mà run sợ: “Những anh em các ngươi thù ghét và loại bỏ các ngươi vì cớ Ta, đã bảo: ‘Nguyện Giê-hô-va được vinh hiển rồi bọn tao sẽ thấy niềm vui của chúng bay,’ nhưng chúng sẽ phải xấu hổ. 6Từ thành phố vọng lại tiếng hỗn độn của chiến trận, tiếng ra từ đền thờ, tiếng Giê-hô-va báo trả các kẻ thù Ngài. 7Trước khi chuyển dạ nó đã sinh nở; trước khi chịu đau đớn nó đã sinh con trai.
8Ai đã từng nghe một chuyện như vậy? Ai đã từng thấy những việc như thế? Có xứ nào lại ra đời trong một ngày? Có dân tộc nào lại được thành lập trong chốc lát? Vậy mà vừa khi Si-ôn chuyển dạ thì nó đã sinh ra con cái. 9Phải chăng Ta mở dạ mẹ rồi lại không để cho hài nhi sinh ra? Phải chăng Ta tạo dựng đứa bé được đầy đủ hình hài rồi giữ nó lại? — Đức Chúa Trời ngươi phán hỏi như vậy.” 10Hãy hoan hỉ cùng với Giê-ru-sa-lem và vui vì nó, hỡi những ai yêu quý nó; hãy cùng vui với nó, hỡi những ai đã từng than khóc vì nó!
11Vì các ngươi sẽ được bú và no lòng; nhờ vú nó các ngươi sẽ được yên ủi; vì các ngươi sẽ được uống thỏa thuê và vui thích nhờ vinh quang tột bậc của nó. 12Đây là lời Giê-hô-va phán: “Ta sẽ tuôn đổ sự thịnh vượng xuống trên nó như dòng sông, và của cải của các dân như dòng suối dâng tràn. Các ngươi sẽ được nuôi bằng sữa nó, được nó ẳm bồng, và được vỗ về trên đầu gối nó.13Người mẹ yên ủi con mình thể nào thì Ta cũng sẽ yên ủi các ngươi như vậy, và các ngươi sẽ được khuây khỏa tại Giê-ru-sa-lem.” 14Các ngươi sẽ chứng kiến việc này, rồi lòng các ngươi sẽ vui sướng, xương cốt ngươi sẽ đầy sức sống như cỏ non. Tay của Giê-hô-va sẽ được tỏ ra cho các tôi tớ Ngài, nhưng Ngài sẽ nổi giận với các kẻ thù của Ngài. 15Vì, kìa, Giê-hô-va đang hiện đến trong lửa, các xe chiến mã Ngài xông tới như gió bão, mang theo cơn giận phừng phừng cùng sự quở phạt bừng cháy của Ngài.
16Vì Giê-hô-va thi hành sự đoán phạt nhân loại bằng lửa và bằng thanh gươm Ngài. Số những kẻ bị Ngài giết chết sẽ nhiều lắm. 17Chúng biệt mình ra và khiến mình nên thánh, để chúng được vào các khu vườn, đi theo những kẻ ăn thịt heo và những thứ kinh tởm như chuột chẳng hạn. “Chúng sẽ xong đời — đó là lời tuyên phán của Giê-hô-va.18Vì Ta biết các việc làm chúng nó cùng ý tưởng chúng nó. Sắp đến lúc Ta tập hợp mọi dân thuộc mọi thứ tiếng lại. Chúng sẽ đến và sẽ thấy vinh quang Ta.19Ta sẽ đặt một dấu hiệu giữa chúng. Rồi Ta sẽ sai những kẻ sống sót của chúng đến các nước: Đến Ta-rê-si, Phun, Lút, là các cung thủ giương cung mình, đến Tu-banh, Gia-van, và đến các vùng duyên hải xa xôi nơi chưa từng nghe biết về Ta hoặc nhìn thấy vinh quang Ta. Chúng sẽ công bố vinh quang Ta ra giữa các dân.20Chúng sẽ đem tất cả anh em các ngươi từ mọi nước trở về, như lễ vật dâng lên cho Giê-hô-va. Chúng sẽ đến Giê-ru-sa-lem, núi thánh Ta, bằng ngựa, bằng xe chiến mã, bằng xe ngựa kéo, bằng la và bằng lạc đà — Giê-hô-va phán như vậy. Vì dân Y-sơ-ra-ên sẽ dùng chén thanh sạch mà đem của lễ chay vào nhà Giê-hô-va.21Thậm chí Ta sẽ chọn một số người này làm thầy tế lễ và người Lê-vi — Giê-hô-va phán như vậy.22Vì như trời mới và đất mới mà Ta sẽ dựng nên sẽ cứ tồn tại trước mặt Ta, thì cũng vậy, dòng dõi các ngươi sẽ cứ tồn tại, danh các ngươi sẽ vẫn còn mãi — đó là lời tuyên phán của Giê-hô-va.23Từ tháng này đến tháng kia, hết ngày Sa-bát này đến ngày Sa-bát khác, mọi người sẽ đến sấp mình xuống trước mặt Ta — Giê-hô-va phán như vậy.24Chúng sẽ đi ra và nhìn thấy thây của những kẻ đã bội nghịch chống lại Ta, vì sâu ăn chúng nó sẽ chẳng chết, lửa thiêu đốt chúng nó sẽ chẳng bị tắt; và đó sẽ là điều ghê tởm đối với mọi xác phàm.” Giê-rê-mi
11Đây là lời của Giê-rê-mi, con trai Hinh-kia; một trong số những thầy tế lễ ở A-na-tốt trong xứ Bên-gia-min.2Có lời Đức Giê-hô-va phán với ông trong đời của Giô-si-a, con trai A-môn, vua Giu-đa, vào năm thứ mười ba thuộc triều đại của vua ấy.3Lời Ngài cũng đến với ông trong đời Giê-hô-gia-kim, con trai Giô-si-a, vua Giu-đa, đến tháng năm năm thứ mười một trong đời Sê-đê-kia, con trai Giô-si-a, vua Giu-đa, khi dân thành Giê-ru-sa-lem bị bắt làm tù binh.4Đức Giê-hô-va phán với tôi rằng:5“Trước khi Ta dựng nên ngươi trong lòng mẹ, Ta đã chọn ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã biệt riêng ngươi; Ta đã lập ngươi làm tiên tri cho các nước.”6“Ôi, Đức Giê-hô-va!” Tôi trả lời: “Con không biết cách nói chuyện, vì con còn trẻ quá.”7Nhưng Đức Giê-hô-va phán cùng tôi: “Chớ nói: ‘Con còn trẻ quá.’ Ngươi phải đi bất cứ nơi nào Ta sai ngươi đi, và ngươi phải nói bất cứ điều gì Ta truyền cho ngươi nói!8Chớ sợ chúng, vì Ta ở với ngươi đặng giải cứu ngươi – Đức Giê-hô-va phán vậy.”9Sau đó, Đức Giê-hô-va giơ tay Ngài ra, chạm vào miệng tôi, và phán với tôi: “Bây giờ, Ta đã đặt lời Ta trong miệng ngươi.10Ngày nay, Ta sẽ lập ngươi trên các nước và trên các vương quốc, đặng nhổ và đập tan, hủy diệt và phá đổ, xây dựng và thiết lập.”11Lời của Đức Giê-hô-va đến cùng tôi rằng: “Giê-rê-mi, ngươi thấy gì?” Tôi nói: “Con thấy một nhánh hạnh nhân.”12Đức Giê-hô-va phán với tôi: “Ngươi đã thấy đúng, vì Ta đang canh chừng lời Ta để thực hiện nó.”13Lời của Đức Giê-hô-va đến với tôi lần thứ nhì rằng: “Ngươi thấy gì?” Tôi đáp: “Con thấy một nồi nước sôi sùng sục, bắn lên từ phương bắc.”14Đức Giê-hô-va phán với tôi: “Tai họa sẽ ra từ phương bắc đổ xuống dân cư trong xứ này.15Vì Ta sẽ gọi các bộ tộc từ các vương quốc phương bắc, Đức Giê-hô-va phán. Chúng sẽ đến, mỗi người sẽ đặt ngai mình ở lối cổng thành Giê-ru-sa-lem, đánh hạ các tường thành xung quanh và các thành phố của Giu-đa.
16Ta sẽ tuyên bố án phạt trên chúng vì việc ác của chúng khi từ bỏ Ta, dâng hương cho các thần khác, và thờ lạy những thứ do chính tay chúng dựng nên. 17Hãy sẵn sàng! Hãy đứng dậy và nói với chúng bất cứ điều gì Ta truyền cho ngươi. Chớ kinh sợ trước mặt chúng, nếu không Ta sẽ khiến ngươi sợ sệt trước mặt chúng!18Kìa! Ngày nay Ta đã lập cho ngươi một thành trì kiên cố, một trụ sắt, và các bức tường bằng đồng nghịch với cả xứ này – nghịch với các vua Giu-đa, các quan chức, thầy tế lễ, và dân cư trong xứ.19Chúng sẽ đánh ngươi, nhưng chúng sẽ không thắng được ngươi, vì Ta sẽ ở cùng ngươi đặng giải cứu ngươi – Đức Giê-hô-va phán vậy.” 21Lời của Đức Giê-hô-va phán cùng tôi rằng:2“Hãy đi và công bố đến tai Giê-ru-sa-lem. Hãy nói rằng: ‘Đức Giê-hô-va phán như vầy: Ta còn nhớ lòng trung tín thỏa ước của ngươi khi ngươi còn xuân xanh, tình yêu của ngươi khi chúng ta mới ước hẹn, khi ngươi theo Ta vào hoang mạc, là xứ không được gieo trồng.3Y-sơ-ra-ên được biệt riêng cho Đức Giê-hô-va, là trái đầu mùa thu hoạch! Tất cả những ai ăn trái đầu mùa đều phạm tội! Tai họa sẽ giáng trên chúng – Đức Giê-hô-va phán vậy.’” 4Hãy nghe lời của Đức Giê-hô-va, hỡi nhà Gia-cốp và mọi gia đình trong nhà Y-sơ-ra-ên. 5Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Tổ phụ các ngươi đã thấy Ta có gì sai chăng, đến nỗi họ không theo Ta nữa? Đến nỗi họ theo các thần vô dụng và chính họ trở nên vô dụng?6Họ không nói: ‘Đức Giê-hô-va ở đâu, là Đấng đem chúng ta ra khỏi xứ Ai Cập? Đức Giê-hô-va ở đâu, là Đấng dẫn chúng ta đến hoang mạc, vào xứ A-ra-ba, vào một xứ khô cằn, tối tăm đầy hầm hố, một xứ chẳng có ai đi ngang qua và chẳng có ai sống? 7Nhưng Ta đã đem các ngươi đến xứ Cạt-mên, để các ngươi ăn hoa quả và những vật tốt! Nhưng khi các ngươi đến, các ngươi làm ô uế đất của Ta, các ngươi khiến sản nghiệp của Ta trở nên gớm ghiếc!
8Thầy tế lễ không nói: ‘Đức Giê-hô-va ở đâu?’ và các thầy dạy luật chẳng quan tâm đến Ta! Những người chăn bầy chống nghịch Ta. Các tiên tri nói tiên tri cho Ba-anh và bắt chước những việc vô ích. 9Vậy, Ta vẫn sẽ buộc tội các ngươi – Đức Giê-hô-va phán vậy – và Ta sẽ buộc tội con cháu các ngươi.
10Vì các ngươi vượt qua bờ biển Kít-tim và nhìn. Các ngươi sai sứ giả đến Kê-đa đặng tìm kiếm và xem coi có điều gì giống vậy chăng.
11Có nước nào từng đổi các thần, dù chúng không phải là thần? Nhưng dân Ta đã đổi sự vinh quang của họ để lấy thứ không thể giúp họ. 12Hỡi các từng trời, hãy kinh hoàng về việc này! Hãy hoảng hốt và khiếp sợ - Đức Giê-hô-va phán vậy.
13Vì dân Ta đã phạm hai điều ác đối với Ta: Họ đã từ bỏ các suối nước sống qua việc đào bới tìm kiếm các bể chứa, là những bể chứa nứt ra và không thể trữ nước! 14Có phải Y-sơ-ra-ên là nô lệ không? Nó không được sinh ra trong nhà? Vậy tại sao nó trở thành của cướp bóc?
15Sư tử con gầm rống chống lại nó. Chúng rống thật to và biến xứ của nó thành một sự kinh khiếp! Các thành của nó bị hủy diệt đến nỗi không còn dân cư.
16Ngoài ra, dân Mem-phi và Ta-pan-hê cạo nát sọ và bắt các ngươi làm nô lệ!
17Chẳng phải các ngươi đã tự làm việc này khi các ngươi lìa bỏ Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi, khi Ngài dẫn các ngươi đi trên đường sao? 18Vậy bây giờ, sao các ngươi lên đường đến Ai Cập và uống nước ở Si-ho? Sao các ngươi lên đường đến A-sy-ri và uống nước Sông Ơ-phơ-rát?
19Sự gian ác của các ngươi quở trách các ngươi, và sự thất tín của các ngươi đoán phạt các ngươi. Vậy hãy nghĩ về điều đó; hãy hiểu rằng việc các ngươi từ bỏ Ta, Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ngươi, là việc ác và đầy cay đắng, và các ngươi không còn kinh sợ Ta nữa – Đức Giê-hô-va vạn quân đã phán vậy. 20Vì Ta đã bẻ ách ngươi vào xưa kia; Ta đã tháo cùm cho ngươi. Nhưng ngươi vẫn nói: ‘Con sẽ không phục vụ!’ vì ngươi đã quỳ lạy ở trên đồi cao và dưới cây rậm lá, các ngươi là những kẻ ngoại tình.
21Nhưng chính Ta đã trồng các ngươi như cây nho được chọn, như hột giống tốt nhất. Tuy nhiên, các ngươi đã thay đổi trước mặt Ta, từ một cây nho ngoại thành một cây nho hoang!
22Vì ngay cả nếu các ngươi làm sạch mình ở dưới sông hoặc dùng chất tẩy rửa, tội lỗi các ngươi vẫn là vết nhơ trước mặt Ta – Chúa Giê-hô-va đã phán vậy. 23Làm sao các ngươi có thể nói: ‘Con không ô uế! Con không theo thần Ba-anh?’ Hãy nhìn xem hành vi của các ngươi ở các thung lũng! Hãy hiểu việc các ngươi làm, các ngươi như lạc đà nhanh nhảu chạy theo đường nó!
24Các ngươi là lừa hoang, quen nơi hoang mạc, động dục và huýt gió! Ai xoay chuyển nó khi nó động đực? Ai tìm nó chẳng thấy mệt nhọc. Chúng đến gặp nó vào tháng động tình.
25Hãy giữ chân ngươi khỏi để trần và cổ ngươi khỏi cơn khát! Nhưng ngươi nói: ‘Thật vô vọng! Không, con yêu những người lạ và đi theo họ!’ 26Như tên trộm xấu hổ khi bị phát hiện, nhà Y-sơ-ra-ên cũng sẽ xấu hổ - họ, các vua, các vương tử, thầy tế lễ và những tiên tri!
27Đây là những người nói với cây rằng: ‘Ngài là cha tôi,’ và nói với cục đá: ‘Ngài là mẹ tôi.’ Vì họ xây lưng lại với Ta chứ không xây mặt về phía Ta. Tuy nhiên, họ nói trong lúc khốn khó: ‘Xin trỗi dậy và cứu chúng con!’
28Nhưng các thần mà ngươi đã dựng cho chính mình ở đâu? Hãy để chúng trỗi dậy nếu chúng muốn cứu các ngươi khi khốn khó, vì số thần của các ngươi bằng với số thành phố của các ngươi, hỡi Giu-đa! 29Vậy sao các ngươi kết tội Ta làm sai? Tất cả các ngươi đã phạm tội trước mặt Ta – Đức Giê-hô-va đã phán.
30Ta đã phạt dân ngươi thật vô ích. Chúng chẳng chịu kỷ luật. Gươm các ngươi nuốt các tiên tri như sư tử vồ mồi! 31Hỡi các ngươi là những người thuộc thế hệ này! Hãy chú ý lời Ta, là lời của Đức Giê-hô-va! Ta là một hoang mạc cho Y-sơ-ra-ên sao? Hay Ta là một xứ tối tăm? Sao dân Ta nói: ‘Hãy để chúng tôi lang thang, chúng tôi sẽ không đến gặp Ngài nữa’?32Trinh nữ sẽ quên trang sức mình chăng, nàng dâu sẽ quên mạng che mặt chăng? Nhưng dân Ta đã quên Ta từ rất lâu rồi!
33Các ngươi thật khéo tính toán đường lối để kiếm người tình. Các ngươi thậm chí dạy đường lối các ngươi cho phụ nữ xấu xa.
34Huyết của mạng người vô tội, người nghèo vấy trên quần áo ngươi. Họ không bị bắt quả tang trộm cắp. 35Trái lại, dù sự thật là như vậy, nhưng các ngươi cứ nói: ‘Con vô tội. Chắc chắn cơn giận của Đức Giê-hô-va sẽ giáng trên con.’ Nhưng kìa! Các ngươi sẽ bị đoán xét vì các ngươi nói: ‘Con không phạm tội.’
36Sao các ngươi thay đổi đường lối các ngươi dễ dàng vậy? Ai Cập sẽ làm các ngươi xấu hổ, như A-sy-ri đã làm đối với các ngươi.
37Các ngươi cũng sẽ đi ra khỏi nơi khiến thất vọng, tay giơ trên đầu, vì Đức Giê-hô-va đã từ bỏ những người mà các ngươi tin, để họ sẽ không giúp các ngươi. 31Họ nói: ‘Một người nam đuổi vợ mình, nàng rời khỏi người và làm vợ của người khác. Lẽ nào người nên trở lại bên nàng? Chẳng phải nàng hoàn toàn không bị ô uế sao?’ Người nữ đó chính là xứ này! Ngươi đã hành dâm như gái điếm với nhiều người, rồi bây giờ ngươi muốn trở về bên Ta? – Đức Giê-hô-va phán vậy.2Hãy ngước mắt lên các nơi cao hoang phế và nhìn xem! Có chỗ nào mà ngươi không hãm hiếp? Ngươi ngồi bên lề đường chờ người tình, như dân du cư trong hoang mạc. Ngươi đã làm ô uế xứ này bằng sự điếm đĩ và tội ác của ngươi. 3Vì vậy, mưa xuân bị ngăn lại và mưa cuối mùa không đến. Nhưng ngươi vênh mặt kiêu ngạo, như mặt đàn bà tạp hôn. Ngươi không biết xấu hổ.
4Chẳng phải từ bây giờ ngươi sẽ không kêu cầu Ta: ‘Thưa Cha của con! Ngài là bạn thân nhất của con từ khi con còn trẻ.
5Ngài sẽ giận đời đời sao? Ngài sẽ luôn giận sao?’ Kìa! Ngươi tuyên bố rằng ngươi sẽ phạm điều ác, và ngươi đã phạm nó. Vậy hãy cứ làm đi!” 6Sau đó, trong đời vua Giô-si-a, Đức Giê-hô-va phán cùng tôi: “Ngươi thấy Y-sơ-ra-ên xảo trá với Ta thế nào chưa? Nó đến mọi núi cao và dưới gốc cây xum xuê và hành dâm tại đó.7Ta đã nói: ‘Sau khi nó làm những việc này, nó sẽ trở lại bên Ta,’ nhưng nó đã không trở lại. Chị gái lật lọng của nó đã thấy việc nó làm.8Vậy nên Ta đã thấy nó phạm tội tà dâm vì tất cả những lý do này. Y-sơ-ra-ên bội giáo! Ta đã đuổi nó và đưa cho nó một tờ ly dị. Nhưng chị gái Giu-đa phản nghịch của nó không sợ, nó ra ngoài và hành dâm!9Việc nó làm ô uế xứ được xem là tầm thường, vì vậy chúng làm thần tượng bằng đá và cây.10Sau mọi việc này, chị gái Giu-đa lật lọng của nó không hết lòng trở về bên Ta, nhưng chỉ là một lời dối trá! – Đức Giê-hô-va đã phán vậy.”11Đức Giê-hô-va phán cùng tôi: “Y-sơ-ra-ên vô đạo còn công bình hơn Giu-đa lật lọng!12Hãy đi và rao những lời này cho phương bắc. Hãy nói: ‘Y-sơ-ra-ên vô đạo, hãy trở về! – Đức Giê-hô-va phán vậy – Ta sẽ không giận ngươi đâu. Vì Ta là Đấng thành tín – Đức Giê-hô-va phán vậy – Ta sẽ không giận ngươi đời đời.13Ngươi hãy nhận tội, vì ngươi đã phạm tội nghịch lại Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi; ngươi đã hành dâm với khách lạ dưới cây xanh! Vì ngươi không lắng nghe tiếng Ta! – Đức Giê-hô-va phán vậy.
14Hỡi dân vô đạo, hãy trở về! – Đức Giê-hô-va phán vậy – vì Ta đã cưới ngươi! Ta sẽ lấy từ giữa ngươi mỗi thành một người và mỗi thị tộc hai người, Ta sẽ đem ngươi vào Si-ôn!
15Ta sẽ cho ngươi những người chăn đẹp lòng Ta, họ sẽ chăn dắt ngươi bằng tri thức và sự sáng suốt. 16Rồi ngươi sẽ tăng dân số và sanh bông trái tốt trong xứ vào những ngày đó – Đức Giê-hô-va phán vậy. Họ sẽ không còn nói: “Hòm giao ước của Đức Giê-hô-va!” Lòng họ sẽ không còn nhớ việc này nữa, vì họ sẽ không còn nghĩ đến hoặc chú ý về nó nữa. Lời tuyên bố này sẽ không còn được thực hiện nữa.’ 17Khi đó, họ sẽ rao báo về Giê-ru-sa-lem: ‘Đây là ngai của Đức Giê-hô-va,’ và mọi nước sẽ tập hợp tại Giê-ru-sa-lem trong danh Đức Giê-hô-va. Họ sẽ không còn bước đi trong sự cứng cỏi của lòng gian ác nữa.
18Khi ấy, nhà Giu-đa sẽ đi cùng nhà Y-sơ-ra-ên. Từ xứ ở phương bắc, họ sẽ cùng đến xứ mà Ta đã ban cho tổ phụ ngươi làm sản nghiệp. 19Còn về phần Ta, Ta nói: ‘Ta muốn ban vinh dự cho ngươi như con trai Ta và ban cho ngươi một xứ tươi tốt, một cơ nghiệp còn đẹp hơn sản nghiệp ở bất kỳ nước nào!” Ta sẽ nói: ‘Ngươi sẽ gọi Ta là “Cha của con.”’ Ta hẳn sẽ nói rằng ngươi sẽ không rời bỏ Ta.20Nhưng như một người nữ lật lọng với chồng mình, ngươi đã phản bội Ta, hỡi nhà Y-sơ-ra-ên – Đức Giê-hô-va phán như vầy.” 21“Có tiếng huyên náo ở nơi đồng bằng, tiếng than khóc và nài xin của dân Y-sơ-ra-ên! Vì họ đã đổi đường lối mình; họ đã quên Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của họ.
22Hãy trở về, hỡi dân vô đạo! Ta sẽ chữa lành sự phụ bạc của ngươi!” “Kìa! Chúng con sẽ đến với Ngài, vì Ngài là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng con! 23Chỉ những lời giả dối đến từ trên đồi núi. Chắc chắn sự cứu rỗi Y-sơ-ra-ên chỉ thuộc về Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng con.
24Tuy nhiên các thần tượng đáng hổ thẹn đã nuốt lấy những gì tổ phụ chúng con đã làm – bầy chiên và gia súc, con trai và con gái!
25Chúng ta hãy nằm xuống chịu xấu hổ. Nguyện nỗi xấu hổ bao phủ chúng ta, vì chúng ta đã phạm tội nghịch lại Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta! Chính chúng ta và tổ phụ chúng ta, từ khi chúng ta còn trẻ đến bây giờ, đã không lắng nghe tiếng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta!” 41“Hỡi Y-sơ-ra-ên, nếu ngươi trở về - Đức Giê-hô-va phán như vầy – thì ngươi phải trở về. Nếu ngươi từ bỏ những việc gớm ghiếc khỏi trước mặt Ta và không đi sai lạc nữa,2và nếu ngươi thề: ‘Đức Giê-hô-va hằng sống trong lẽ thật, công bình và chính trực,’ các nước sẽ xin ơn phước của ngươi, và họ sẽ ngợi khen Ta.3Vì Đức Giê-hô-va phán điều này cho mỗi người tại Giu-đa và Giê-ru-sa-lem: ‘Hãy cày đất của ngươi, chớ gieo giữa gai góc.4Hãy cắt bì mình cho Đức Giê-hô-va và loại bỏ dương bì khỏi lòng ngươi, hỡi người Giu-đa và dân cư Giê-ru-sa-lem, nếu không cơn giận của Ta sẽ nổi bừng như lửa, không ai có thể dập tắt. Việc này sẽ xảy đến vì cớ những việc ác của các ngươi.
5Hãy rao ra trong Giu-đa và hãy truyền cho Giê-ru-sa-lem rằng: “Hãy thổi kèn trong xứ. Hãy tập hợp lại. Chúng ta hãy đến các thành trì kiên cố.”
6Hãy giơ cờ hiệu và hướng nó về Si-ôn, hãy chạy trốn! Chớ chần chừ, vì Ta sẽ đem tai họa từ phương bắc và một đại họa khủng khiếp. 7Một con sư tử sẽ ra từ bụi cây và một kẻ hủy diệt các nước sẽ đi ra. Nó sẽ rời khỏi chỗ mình đặng đem sự kinh khiếp đến xứ ngươi, khiến các thành phố ngươi ra điêu tàn, là nơi sẽ chẳng có ai ở. 8Vì vậy, hãy mặc áo vải gai, hãy kêu van và than khóc. Vì ảnh hưởng từ cơn giận của Đức Giê-hô-va chưa lìa khỏi chúng ta.9Trong ngày đó – Đức Giê-hô-va phán – lòng của các vua và các quan sẽ chết lặng. Các thầy tế lễ sẽ kinh hãi, các tiên tri sẽ hoảng sợ.’” 10Tôi nói: “Ôi! Lạy Chúa Giê-hô-va. Rõ ràng là Ngài đã lừa dân này và thành Giê-ru-sa-lem khi nói rằng: ‘Các ngươi sẽ có sự bình an.’ Nhưng gươm đang dí vào mạng sống họ.”11Khi đó, người ta sẽ nói về dân này và Giê-ru-sa-lem: “Một ngọn gió nóng từ những gò trọi trong hoang mạc sẽ thổi đến con gái của dân Ta. Nó sẽ không rê cũng không làm sạch chúng.12Ta sẽ sai đến một ngọn gió mạnh hơn, Ta sẽ hình phạt chúng. 13Kìa, nó ập đến như đám mây, và xe chiến mã của nó như một cơn bão. Ngựa của nó nhanh hơn đại bàng. Khốn cho chúng ta, vì chúng ta sẽ bị tiêu diệt!
14Hãy làm sạch lòng ngươi khỏi sự gian ác, hỡi Giê-ru-sa-lem, để ngươi được cứu. Ngươi sẽ còn giữ những ý tưởng thâm hiểm nhất để phạm tội cho đến khi nào?
15Vì có tiếng đem tin tức từ Đan, và từ núi Ép-ra-im có tai họa. 16Hãy khiến các nước nghĩ đến điều này: Kìa, hãy thông báo cho Giê-ru-sa-lem rằng những kẻ bao vây sẽ đến từ một xứ xa xăm để hò hét tranh chiến các thành của Giu-đa.
17Chúng sẽ vây hãm như người giữ ruộng, vì nó đã nổi loạn nghịch lại Ta – Đức Giê-hô-va phán vậy –
18cách cư xử và việc làm của ngươi đã khiến ngươi nhận lãnh những việc này. Đây sẽ là hình phạt dành cho ngươi. Thật khủng khiếp! Nó sẽ đánh vào lòng ngươi.19Tôi thật đau lòng! Tôi thật đau lòng! Lòng tôi thật đau đớn. Lòng tôi thật bối rối. Tôi không thể im lặng vì tôi nghe có tiếng tù và, là tiếng báo chiến trận.
20Thảm họa chồng thêm thảm họa như đã công bố, vì cả xứ bỗng nhiên bị tàn phá. Chúng bất ngờ tàn phá nhà tạm và lều của tôi. 21Tôi sẽ còn thấy cờ hiệu cho đến khi nào? Tôi sẽ còn nghe tiếng tù và không?
22Vì dân Ta thật dại dột – họ không biết Ta. Họ là một dân thờ thần tượng và không có hiểu biết. Họ khéo làm ác, nhưng không biết làm việc thiện. 23Tôi nhìn xứ này, và đã thấy! Đó là một xứ vô hình và trống không. Xứ ấy không có ánh sáng từ trời.
24Tôi xem các ngọn núi. Kìa, chúng rúng động, mọi đồi đều rúng động.
25Tôi xem. Kìa, chẳng có ai cả, mọi loài chim trời đều đã bỏ trốn.
26Tôi nhìn. Kìa, các vườn cây ăn quả đều thành đồng hoang và các thành phố đều bị tàn lụi trước mặt Đức Giê-hô-va, trước cơn thạnh nộ của Ngài.” 27Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Cả xứ sẽ trở nên điêu tàn, nhưng Ta sẽ không hoàn toàn hủy diệt chúng.28Vì vậy, xứ ấy sẽ than khóc, các tầng trời sẽ trở nên tối tăm. Vì Ta đã công bố ý định của Ta; Ta sẽ không rút lời; Ta sẽ không đổi ý.
29Mỗi thành sẽ chạy trốn khi nghe tiếng kỵ binh và cung của xạ thủ; chúng sẽ chạy vào rừng. Thành nào thành nấy đều leo lên những hốc đá. Các thành sẽ bị bỏ hoang, vì sẽ không ai cư trú tại đó. 30Bấy giờ ngươi đã trở nên hoang vu, ngươi sẽ làm gì? Vì dù ngươi mặc quần áo màu đỏ tươi, trang điểm bằng trang sức vàng, kẻ mắt cho to đậm, nhưng những kẻ thèm muốn ngươi giờ đây từ bỏ ngươi. Trái lại, chúng sẽ cố đoạt mạng ngươi.
31Tôi nghe tiếng kêu đau đớn, kiệt sức của người sanh con đầu lòng, tiếng của con gái Si-ôn. Nó thở hổn hển. Nó đương kêu gào: “Khốn cho tôi! Tôi nản lòng bởi bọn sát nhân.” 51”Hãy đi khắp các đường phố Giê-ru-sa-lem; cũng hãy tìm kiếm ở các quảng trường trong thành ấy. Hãy xem và nghĩ về điều này: Nếu ngươi có thể tìm được người nào hay bất cứ ai làm việc đúng đắn và trung thực, thì Ta sẽ tha thứ Giê-ru-sa-lem.2Thậm chí nếu chúng nói: ‘Có Đức Giê-hô-va hằng sống chứng giám,’ thì chúng đang thề dối.”
3Lạy Đức Giê-hô-va, chẳng phải mắt Ngài không tìm sự thành tín sao? Ngài đánh họ, nhưng họ không cảm thấy đau đớn. Ngài hoàn toàn đánh bại họ, nhưng họ vẫn không tuân thủ kỷ luật. Họ chai mặt hơn đá, vì họ không chịu ăn năn. 4Vậy tôi nói: “Chắc chắn đây chỉ là người nghèo. Họ ngu dại, vì họ không biết đường lối Đức Giê-hô-va, cũng không biết giới mạng của Đức Chúa Trời.
5Tôi sẽ đi đến những người sang trọng và công bố sứ điệp của Đức Chúa Trời cho họ, vì ít nhất thì họ biết đường lối Đức Giê-hô-va, tức là giới mạng của Đức Chúa Trời họ.
6Vậy, một con sư tử từ bụi cây sẽ vồ lấy họ. Một con sói từ A-ra-ba sẽ cắn xé họ. Một con báo sẽ rình các thành của họ. Hễ ai ra khỏi thành sẽ bị xé xác. Vì sự vi phạm của họ gia tăng. Hành động thất tín của họ nhiều quá đỗi. 7Làm sao Ta tha thứ dân này được? Các con trai ngươi đã từ bỏ Ta và lấy danh những kẻ không phải là thần mà thề. Ta đã nuôi chúng mập béo, nhưng chúng phạm tội ngoại tình và chen nhau đến nhà đĩ điếm.
8Chúng như ngựa động đực. Chúng đi rong tìm kiếm bạn tình. Ai nấy đều hí theo vợ người lân cận mình.
9Vậy Ta chẳng nên trừng phạt chúng sao – Đức Giê-hô-va phán vậy – và Ta chẳng nên báo thù một quốc gia như vậy sao? 10Hãy đi lên các dãy nho của nó và phá hủy. Nhưng chớ hoàn toàn hủy diệt chúng. Hãy chặt những cây nho của chúng, vì các cây nho đó không đến từ Đức Giê-hô-va.
11Vì nhà Y-sơ-ra-ên và Giu-đa hoàn toàn phản bội Ta – Đức Giê-hô-va phán vậy –
12chúng đã từ bỏ Ta. Chúng nói: ‘Ngài không có thật. Hoạn nạn sẽ không xảy đến trên chúng ta, chúng ta cũng sẽ không thấy gươm hoặc đói kém.13Vì các tiên tri đã trở nên vô ích như gió và chẳng còn ai để rao báo sứ điệp của Đức Giê-hô-va cho chúng ta. Hãy để sự đe dọa giáng trên chúng.’” 14Vậy Giê-hô-va, Đức Chúa Trời vạn quân phán như vầy: “Vì ngươi đã nói vậy, kìa, Ta sẽ đặt Lời Ta trong miệng ngươi. Lời ấy sẽ như lửa, và dân này sẽ như gỗ! Lửa sẽ thiêu đốt chúng.15Kìa! Ta sẽ đem một nước từ phương xa đến nghịch lại ngươi, hỡi nhà Y-sơ-ra-ên – Đức Giê-hô-va phán vậy – đây là một nước trường cửu, một nước có từ đời xưa! Đó là một nước mà ngươi chẳng biết tiếng của nó, ngươi cũng chẳng hiểu chúng nói gì. 16Bao tên của nó như cửa mồ mở rộng. Chúng là lính chiến.
17Mùa gặt của ngươi sẽ bị tàn phá, con trai con gái của ngươi cũng vậy, kể cả thức ăn của ngươi. Chúng sẽ ăn bầy chiên và gia súc ngươi; chúng sẽ ăn trái nho và trái vả của ngươi. Chúng sẽ dùng gươm triệt hạ các thành trì kiên cố của ngươi mà ngươi đã nương dựa. 18Nhưng ngay cả trong những ngày ấy – Đức Giê-hô-va phán như vầy – Ta không có ý định diệt ngươi hoàn toàn.19Việc đó sẽ xảy đến khi dân ngươi, Y-sơ-ra-ên và Giu-đa, nói: ‘Sao Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta giáng những việc này trên chúng ta?’ thì khi đó ngươi, Giê-rê-mi, sẽ nói với chúng: ‘Vì ngươi đã lìa bỏ Đức Giê-hô-va và thờ lạy các thần của dân ngoại trong xứ mình, nên ngươi cũng sẽ hầu hạ khách lạ trong xứ chẳng phải của ngươi.’ 20Hãy báo tin này cho nhà Gia-cốp và loan tin trong khắp Giu-đa. Hãy nói:
21‘Hãy nghe, hỡi dân ngu dại! Vì thần tượng không có ý chí; chúng có mắt nhưng không thể thấy. Chúng có tai nhưng không nghe.22Đức Giê-hô-va phán như vầy – ngươi không sợ Ta hoặc run sợ trước mặt Ta sao? Ta đã lấy cát làm biên giới cho biển cả, một giới mạng đời đời không thể nào vượt qua được – ngay cả khi biển cả nổi sóng tới lui cũng không ảnh hưởng. Ngay cả khi biển gầm sóng, chúng cũng không vượt qua được. 23Nhưng dân này cứng lòng. Chúng phản nghịch và lìa bỏ Ta.
24Vì chúng không tự nhủ: “Chúng ta hãy kính sợ Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta, là Đấng ban mưa – mưa đầu mùa và mưa cuối mùa – vào đúng thời điểm, Ngài dành cho chúng ta những tuần lễ cố định để thu hoạch.”
25Tội lỗi các ngươi đã ngăn những điều này. Tội các ngươi đã ngăn điều tốt lành đến trên các ngươi. 26Vì trong dân Ta có những kẻ gian ác. Chúng nằm rình như kẻ bắt chim; chúng đặt bẫy và bắt dân sự.
27Như một chiếc lồng đầy ắp chim, nhà của chúng cũng đầy ắp sự giả dối. Vậy chúng lớn mạnh và giàu sang.
28Chúng trở nên mập béo; chúng đẫy đà. Tội ác của chúng thật quá nhiều. Chúng không bênh vực duyên cớ của dân sự, hoặc duyên cớ của người mồ côi. Chúng thịnh vượng mặc dù chúng không đối xử công bằng với người thiếu thốn.
29Ta chẳng nên trừng phạt chúng vì những điều này sao – Đức Giê-hô-va phán vậy – và Ta sẽ không báo thù một quốc gia như vậy sao? 30Sự tàn ác và kinh khiếp đã xảy ra trong xứ.
31Các tiên tri nói tiên tri giả, và thầy tế lễ cai trị bằng quyền lực của riêng họ. Dân ta yêu mến đường lối này, nhưng cuối cùng thì điều gì sẽ xảy ra? 61Hỡi dân Bên-gia-min, hãy rời khỏi Giê-ru-sa-lem để được an toàn. Hãy thổi kèn ở Tê-cô-a. Hãy giương cao cờ ở Bết Ha-kê-rem, vì sự ác ôn đang đến từ phương bắc; một sự tiêu diệt lớn đang đến.2Con gái Si-ôn, một ái nữ xinh đẹp và thanh nhã, sẽ bị tiêu diệt.
3Những người chăn chiên và bầy chiên sẽ đến với chúng; họ sẽ dựng lều chung quanh nàng; mỗi người sẽ chăn bầy bằng chính tay mình. 4Các vua sẽ nói: “Hãy dâng mình cho các thần để chiến trận. Hãy trỗi dậy, chúng ta hãy đánh vào buổi trưa. Thật tệ khi chiều đã gần tới, bóng tối đang dần buông.
5Nhưng chúng ta hãy đánh vào ban đêm và hủy diệt các pháo đài của nàng.” 6Vì Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Hãy chặt cây của nó, hãy đắp chiến hào công phá Giê-ru-sa-lem. Đây đúng là thành phải bị đánh, vì nó đầy dẫy sự đàn áp.7Như giếng luôn có nước, thành này luôn sản sinh điều ác. Người ta nghe có bạo lực và hỗn loạn ở đó. Đau khổ và tai họa thường xảy ra không ngớt trước mặt Ta.
8Hỡi Giê-ru-sa-lem, hãy chấp nhận kỷ luật, nếu không Ta sẽ từ bỏ ngươi và khiến ngươi hoang phế, trở thành một xứ hoang vu.’” 9Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: “Chúng chắc chắn sẽ mót những kẻ còn sót lại ở Y-sơ-ra-ên như trong vườn nho. Hãy giơ tay ra mót nho trong vườn.10Ta nên nói và cảnh cáo ai để họ nghe? Kìa! Tai chúng chưa được cắt bì; chúng không thể chú ý! Kìa! Lời của Đức Giê-hô-va đã đến trên chúng đặng sửa trị chúng, nhưng chúng không muốn.” 11Nhưng tôi đầy cơn giận của Đức Giê-hô-va. Tôi mệt vì phải nín lặng. Ngài phán với tôi: “Hãy trút xuống trên trẻ con ngoài đường và trên những nhóm nam thanh nữ tú. Vì cả chồng và vợ đều sẽ bị bắt đem đi; kể cả những người cao tuổi cũng vậy.
12Nhà của chúng sẽ bị trao cho người khác, kể cả ruộng vườn và vợ của chúng. Vì chính tay Ta sẽ đánh cư dân trong xứ - Đức Giê-hô-va phán vậy – 13từ kẻ nhỏ cho đến người lớn – ai nấy đều tham lợi bất chính. Từ tiên tri đến thầy tế lễ - ai nấy đều hành động gian xảo.14Nhưng chúng chữa lành sự tan vỡ của dân Ta thật sơ sài, chúng nói: ‘Bình an! Bình an!’ khi chẳng có sự bình an.
15Chúng có xấu hổ khi phạm tội ghê tởm không? Chúng không xấu hổ đâu; chúng không kinh nghiệm lòng khiêm nhường. Vậy chúng sẽ ngã rạp cùng với những kẻ ngã rạp mà Ta đoán phạt. Chúng sẽ bị phá đổ,” Đức Giê-hô-va phán. 16Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Hãy đứng ở nơi giao lộ và nhìn; hãy hỏi xem các đường mòn cũ. ‘Đường lối tốt đẹp ở đâu?’ Sau đó hãy tiếp tục đi và tìm nơi nghỉ ngơi. Nhưng chúng nói: ‘Chúng tôi không đi.’17Ta đã đặt những người canh gác để lắng nghe tiếng kèn. Nhưng chúng nói: ‘Chúng tôi không đi.’
18Vậy, hỡi các dân, hãy nghe! Kìa, hỡi những người làm chứng, chuyện gì sẽ xảy ra với chúng.
19Hỡi đất, hãy nghe! Kìa, Ta sẽ giáng tai họa trên dân này – vì hậu quả của tư tưởng chúng. Chúng không chú ý đến lời hoặc luật pháp của Ta, nhưng chúng từ bỏ.” 20“Nhũ hương từ Sê-ba đem đến có ý nghĩa gì với Ta? Những của lễ thiêu có mùi thơm từ phương xa có ích gì? Ta không nhận của lễ thiêu của ngươi cũng như vật tế lễ của ngươi. 21Vậy Đức Giê-hô-va phán như vầy: ‘Kìa, Ta sẽ đặt một chướng ngại vật trước mặt dân này. Chúng sẽ vấp ngã – cả cha và con cái. Cư dân và người lân cận của chúng cũng sẽ bị hư mất.’22Đức Giê-hô-va phán vầy: ‘Kìa, một dân từ phương bắc đang đến. Vì một nước lớn đã được dấy lên từ một xứ xa xôi.23Chúng sẽ nhặt cung và giáo. Chúng độc ác và không có lòng thương xót. Tiếng của chúng như biển gầm thét, chúng cưỡi ngựa theo đội hình lính chiến, hỡi con gái Si-ôn.’”
24Chúng tôi đã nghe tin về chúng. Tay chúng tôi bủn rủn. Tội lỗi bao vây chúng tôi như người nữ đau đẻ. 25Chớ ra đồng, chớ đi ngoài đường, vì gươm của kẻ thù và sự kinh khiếp ở khắp nơi.
26Hỡi con gái của dân Ta, hãy mặc áo vải gai và lăn mình trong tro bụi tang lễ như vừa mất con một. Hãy làm một đám tang cay đắng cho ngươi, vì kẻ hủy diệt sẽ thình lình đến trên ngươi. 27“Hỡi Giê-rê-mi, Ta đã dựng nên ngươi, là người thử luyện dân Ta như người thử kim loại, ngươi sẽ xem xét và thử đường lối của chúng.28Tất cả chúng đều là dân cứng đầu nhất, chúng đi quanh quẩn giết người khác. Tất cả chúng đều như đồng và sắt, hành động đồi bại.
29Tiếng rầm vang bị lửa làm cháy sém; chì tan chảy trong lửa. Việc tôi luyện vẫn diễn ra giữa chúng, nhưng vô ích, vì cái ác không bị loại bỏ.
30Chúng sẽ được gọi là bạc bị loại, vì Đức Giê-hô-va đã loại chúng.” 71Đây là lời Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi,2“Hãy đứng nơi cổng vào nhà Đức Giê-hô-va và công bố lời này! Hãy nói: ‘Hãy nghe lời của Đức Giê-hô-va, hỡi nhà Giu-đa, những người vào các cổng này để thờ lạy Đức Giê-hô-va.3Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Hãy sửa đường lối ngươi và những việc làm của các ngươi, Ta sẽ cho các ngươi tiếp tục sống ở nơi này.4Đừng tin những lời giả dối và nói rằng: “Đền thờ của Đức Giê-hô-va! Đền thờ của Đức Giê-hô-va! Đền thờ của Đức Giê-hô-va!”5Vì nếu các ngươi hoàn toàn sửa chữa đường lối và việc làm của các ngươi; nếu các ngươi thực thi công lý trọn vẹn giữa người và người lân cận của người đó –6nếu các ngươi không bóc lột người cư ngụ trong xứ, người mồ côi, hoặc người góa bụa và không làm đổ huyết vô tội trong nơi này, và không bước theo các thần khác để làm hại mình –7thì Ta sẽ cho các ngươi ở trong nơi này, trong xứ mà Ta đã ban cho tổ phụ các ngươi từ đời xưa và đời đời.8Này! Các ngươi cậy những lời giả dối mà chẳng có ích gì.9Các ngươi có trộm cắp, giết người, và phạm tội tà dâm không? Các ngươi có thề dối và dâng hương cho Ba-anh và đi theo các thần khác là những thần mà các ngươi chẳng biết không?10Sau đó, các ngươi có đến và đứng trước mặt Ta trong nhà này, nhân danh Ta và nói rằng: “Chúng tôi được cứu,” để các ngươi có thể làm mọi việc gớm ghiếc này không?11Có phải nhà này, là nhà mang danh Ta, bị các ngươi xem là hang trộm cướp sao? Nhưng kìa, Ta đã thấy điều đó – Đức Giê-hô-va phán vậy.’12‘Vậy, hãy đến chỗ của Ta tại Si-lô, là nơi Ta để danh Ta ngự tại đó từ ban đầu, và xem việc Ta đã làm cho nó vì cớ tội ác của Y-sơ-ra-ên, dân Ta.13Bây giờ, vì các ngươi đã làm những việc này – Ta đã nói với các ngươi hết lần này đến lần khác, nhưng các ngươi chẳng nghe. Ta đã mời gọi các ngươi, nhưng các ngươi không trả lời.14Vậy, điều Ta đã làm tại Si-lô, Ta cũng sẽ làm với nhà này, là nhà được gọi bằng danh Ta, nhà mà các ngươi tin, là nơi mà Ta đã ban cho các ngươi và tổ phụ các ngươi.15Vì Ta sẽ vứt bỏ các ngươi khỏi trước mắt Ta như Ta đã vứt bỏ hết thảy anh em các ngươi, tức là tất cả con cháu Ép-ra-im.’16Còn ngươi, Giê-rê-mi, chớ cầu thay cho dân này, và chớ khóc lóc van xin hay khẩn nguyện cho chúng, chớ cầu xin Ta, vì Ta sẽ không nghe ngươi đâu.17Ngươi không thấy việc chúng làm trong các thành ở Giu-đa và trên các đường phố ở Giê-ru-sa-lem sao?18Trẻ con đi gom củi và cha nhóm lửa! Phụ nữ nhào bột làm bánh dâng cho nữ thần của các từng trời và đổ của lễ quán cho các thần khác để chọc giận Ta.19Có phải chúng thật đang chọc giận Ta không? – Đức Giê-hô-va phán vậy – chẳng phải chúng nó tự chọc mình, để chuốc lấy sự hổ thẹn sao?20Vậy, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: ‘Kìa, cơn giận và cơn thạnh nộ của Ta sẽ đổ xuống trên nơi này, trên cả loài người và thú vật, trên cây cối ở ruộng vườn và bông trái trên đất. Nó sẽ đốt cháy và chẳng bao giờ bị dập tắt.’21Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán vầy: ‘Hãy thêm của lễ thiêu của các ngươi vào các lễ vật khác và ăn thịt đi.22Vì khi Ta đem tổ phụ các ngươi ra khỏi xứ Ai cập, Ta không đòi hỏi thứ gì ở chúng cả. Ta không truyền lệnh cho chúng về của lễ thiêu và của tế lễ.23Ta chỉ truyền cho chúng lệnh này: “Hãy lắng nghe tiếng Ta, rồi Ta sẽ là Đức Chúa Trời của các ngươi và các ngươi sẽ là dân Ta. Vậy hãy bước đi trong mọi đường lối mà Ta truyền cho các ngươi, để các ngươi được phước.”24Nhưng chúng không nghe và cũng không chú tâm. Chúng sống theo những mưu toan cứng cỏi từ lòng gian ác của chúng, chúng đi thụt lùi chứ không tiến về trước.25Kể từ ngày tổ phụ các ngươi ra khỏi xứ Ai Cập cho đến ngày nay, Ta đã sai mọi tôi tớ, tiên tri của Ta, đến cùng các ngươi. Ta vẫn sai họ ra đi.26Nhưng chúng không nghe Ta. Chúng không chú tâm. Trái lại, chúng cứng cổ. Chúng gian ác hơn tổ phụ chúng.’27Vậy hãy tuyên bố những lời này cho chúng, nhưng chúng sẽ không nghe ngươi. Hãy tuyên bố những lời này cho chúng, nhưng chúng sẽ không trả lời ngươi.28Hãy nói với chúng: “Đây là một dân không nghe tiếng Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng và không nhận lấy kỷ luật. Lẽ thật bị triệt phá và bị dứt khỏi miệng chúng.29Hãy cắt tóc và cạo đầu ngươi, hãy vứt tóc ngươi đi. Hãy hát một bài ca tang chế trên các nơi trơ trọi. Vì Đức Giê-hô-va đã loại bỏ và từ bỏ dòng dõi này trong cơn giận Ngài.
30Vì con cái Giu-đa đã làm điều ác trước mặt Ta – Đức Giê-hô-va phán vậy – Chúng đặt những thứ gớm ghiếc trong nhà, là nơi danh Ta được rao truyền, và làm ô uế nó.31Chúng xây điện thờ Tô-phết ở thung lũng Ben Hin-nôm. Chúng thiêu con trai và con gái mình qua lửa – đây là việc mà Ta không truyền cho chúng. Ta không bao giờ nghĩ đến việc đó.32Vậy hãy xem, những ngày gần đến – Đức Giê-hô-va phán vậy – khi nó sẽ không còn được gọi là Tô-phết hay thung lũng Ben Hin-nôm nữa. Nó sẽ là thung lũng Tàn sát; chúng sẽ chôn thây ở Tô-phết cho đến khi không còn chỗ.33Thi hài của dân này sẽ là thức ăn cho chim trời và các loài thú trên đất, sẽ chẳng có ai xua đuổi chúng.34Ta sẽ đặt dấu chấm hết cho các thành ở Giu-đa và các đường phố ở Giê-ru-sa-lem, những tiếng tung hô và reo mừng, tiếng của chàng rể và nàng dâu; vì xứ ấy sẽ trở nên hoang vu.” 81“Khi đó – Đức Giê-hô-va phán như vầy – người ta sẽ đào bới nơi mồ những hài cốt của các vua Giu-đa và các quan, hài cốt của các thầy tế lễ và tiên tri, và hài cốt của cư dân Giê-ru-sa-lem.2Họ sẽ phơi chúng dưới mặt trời, mặt trăng và hết thảy những ngôi sao trên trời; là những vật mà họ đã đi theo và tìm kiếm đặng thờ lạy. Các hài cốt ấy sẽ không được gom lại hoặc chôn cất nữa. Chúng sẽ như phân trên mặt đất.3Ở những nơi còn lại mà Ta đã đuổi chúng, chúng sẽ chọn chết hơn là sống, tức là những kẻ còn sót lại của quốc gia xấu xa này – Đức Giê-hô-va vạn quân phán vậy.4Hãy nói với chúng: ‘Đức Giê-hô-va phán vầy: Có ai vấp ngã mà không đứng dậy không? Có ai lạc lối mà không cố tìm đường về không?5Sao dân Giê-ru-sa-lem này quay lưng bỏ đi miệt mài trong sự bất trung vậy? Chúng cứ bội bạc và không chịu ăn năn. 6Ta đã chú ý và lắng nghe, nhưng chúng không nói thật; không ai buồn lòng về sự gian ác của mình, không ai nói rằng: “Tôi đã làm gì?” Tất cả chúng nó đi theo đường riêng của mình, như ngựa đực xông ra trận mạc.
7Ngay cả con cò trên trời cũng biết đúng mùa; con bồ câu, chim én, và chim nhạn cũng vậy. Chúng di cư vào đúng thời điểm, nhưng dân Ta không biết giới mạng của Đức Giê-hô-va. 8Sao các ngươi nói: “Chúng tôi khôn ngoan! Luật pháp của Đức Giê-hô-va ở cùng chúng tôi”? Thật vậy, hãy xem! Ngòi bút giả dối của các thầy thông giáo đã tạo nên sự lừa dối.
9Những kẻ khôn ngoan này sẽ hổ thẹn. Chúng mất hết can đảm và bị sập bẫy. Kìa! Chúng chối bỏ lời của Đức Giê-hô-va, vậy sự khôn ngoan của chúng có ích gì?
10Vì vậy, Ta sẽ trao vợ của chúng cho người khác, và ruộng vườn của chúng cho những kẻ sẽ sở hữu, vì từ kẻ nhỏ nhất cho đến người già nhất, tất cả đều cực kỳ tham lam! Từ tiên tri đến thầy tế lễ, tất cả đều gian dối. 11Chúng đã điều trị vết thương cho con gái dân Ta như thể đó là một vết thương tầm thường. Chúng nói: “Bình an, Bình an,” nhưng chẳng có bình an.
12Chúng có hổ thẹn khi chúng phạm những việc gớm ghiếc không? Chúng không hổ thẹn. Chúng không khiêm nhường. Vậy, chúng sẽ vấp ngã trong thời điểm đoán phạt, chung với những kẻ đã vấp ngã rồi. Chúng sẽ bị lật đổ, Đức Giê-hô-va phán.
13Ta sẽ loại bỏ chúng hoàn toàn – Đức Giê-hô-va phán vậy – cây nho sẽ chẳng có trái, cây vả cũng sẽ không có trái. Lá sẽ tàn héo, và những gì Ta đã ban cho chúng đều sẽ phôi phai. 14Sao chúng ta đứng đây? Hãy đến; chúng ta hãy đến các thành kiên cố, chúng ta sẽ im lặng và chết tại đó. Vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta sẽ bắt chúng ta phải im. Ngài sẽ khiến chúng ta uống thuốc độc, vì chúng ta đã phạm tội nghịch với Ngài.
15Chúng ta hy vọng có bình an, nhưng sẽ không có điều gì tốt lành. Chúng ta mong chờ thời điểm chữa lành, nhưng kìa, sẽ có sự kinh khiếp. 16Người ta nghe tiếng hí của ngựa đực từ Đan. Khắp đất rúng động khi nghe tiếng hí của chiến mã. Chúng sẽ đến, thiêu nuốt xứ và sự giàu sang của nó, thành phố và cư dân trong đó.
17Vì kìa, Ta sẽ sai rắn đến giữa các ngươi, rắn cực độc mà các ngươi không thể dụ được. Chúng sẽ cắn các ngươi – Đức Giê-hô-va phán vậy.’” 18Nỗi sầu khổ của tôi không dứt, lòng tôi mệt mỏi.
19Kìa! Có tiếng kêu la của con gái dân Ta từ một nơi rất xa! Chẳng phải Đức Giê-hô-va ngự tại Si-ôn sao? Hoặc chẳng phải Ngài là vua của họ sao? Sao chúng xúc phạm Ta bằng tượng chạm và các thần ngoại bang vô dụng của chúng? 20Mùa gặt đã qua, mùa hè đã hết. Nhưng chúng ta chưa được cứu.
21Còn tôi thì đau đớn vì sự xúc phạm của con gái dân tôi. Tôi xót xa vì những việc kinh khủng đã xảy đến trên họ; tôi mất tinh thần.
22Ở Ghi-lê-át không còn thuốc sao? Ở đó không có bác sĩ sao? Sao con gái dân tôi không được chữa lành? 91Ước gì đầu tôi có thể tuôn nước, và mắt tôi là nguồn lụy! Vì tôi muốn than khóc cả ngày và đêm cho những người ở giữa con gái dân tôi đã bị giết.2Ước gì có người cho tôi một chỗ trọ dành cho lữ khách trong hoang mạc, là nơi tôi có thể đi để từ bỏ dân tôi. Ước gì tôi có thể từ bỏ họ, vì họ đều là những người ngoại tình, là phường phản bội!
3Đức Giê-hô-va phán: “Chúng nói những điều giả dối bằng lưỡi, là cung giả dối của chúng, chúng ở trong xứ là mạnh lớn nhưng chẳng trung thành. Chúng liên tục làm điều ác. Chúng không biết Ta.” 4Ai nấy phải đề phòng người lân cận mình và đừng tin vào anh em nào cả. Vì mỗi người anh em là kẻ lừa dối và mỗi người lân cận đều đi dạo nói lời vu khống.
5Ai nấy đều giễu cợt người lân cận mình và không nói lời chân thật. Lưỡi chúng dạy những điều dối trá. Chúng kiệt sức khi phạm tội.
6Ngươi sống giữa sự dối trá; bởi sự dối trá đó mà chúng không nhìn biết Ta – Đức Giê-hô-va phán vậy.” 7Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: “Kìa, Ta sẽ thử chúng. Ta sẽ xem xét chúng. Nếu không thì Ta nên xử con gái dân Ta thế nào?
8Lưỡi chúng là mũi tên sắc nhọn; chúng nói sai sự thật. Lưỡi chúng nói sự bình an cho người lân cận, nhưng trong lòng chúng thì lập mưu gài bẫy.
9Ta chẳng nên phạt chúng vì cớ những việc này sao – Đức Giê-hô-va phán vậy – và Ta chẳng nên báo trả một dân như vậy sao? 10Ta sẽ hát một bài ca buồn và than khóc về núi đồi, và một bài ca tang chế về những đồng cỏ. Vì chúng bị thiêu đốt đến nỗi không ai đi qua đó nữa. Chúng sẽ không còn nghe tiếng của bầy gia súc. Chim trời và thú vật thay thảy đều bỏ chạy.
11Vậy, Ta sẽ biến Giê-ru-sa-lem thành đống hoang tàn, là nơi chó rừng đến ẩn náu. Ta sẽ khiến các thành của Giu-đa thành những nơi hoang phế chẳng có cư dân.”
12Ai là người khôn ngoan để hiểu điều này? Miệng Đức Giê-hô-va phán cùng ai để người thuật lại điều ấy? Tại sao xứ trở nên tàn lụi? Nó bị phá hủy như hoang mạc, là nơi chẳng có ai đi ngang qua. 13Đức Giê-hô-va phán: “Bởi vì chúng đã từ bỏ luật pháp Ta đặt trước mặt chúng, vì chúng không nghe tiếng Ta hoặc bước theo tiếng ấy.14Vì chúng đi theo lòng cứng cỏi của chúng và thờ lạy Ba-anh như tổ phụ chúng đã dạy chúng.15Vậy, Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: ‘Kìa, Ta sẽ khiến dân này ăn ngải cứu và uống nước độc.16Ta sẽ rải chúng ra giữa các nước mà chúng không biết, tổ phụ chúng cũng không biết. Ta sẽ sai gươm đuổi theo chúng cho đến khi Ta hoàn toàn tiêu diệt chúng.’”17Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: “Hãy nghĩ về điều này: Hãy mời những người khóc mướn đến. Hãy gọi những đàn bà khéo than khóc đến.
18Hãy để chúng nhanh chóng tới và hát một bài ai oán cho chúng ta, để chúng ta rơi lệ và tuôn tràn nước mắt. 19Vì có tiếng khóc than tại Si-ôn: ‘Chúng ta bị phá hủy dường nào. Chúng ta rất xấu hổ, vì chúng ta đã bỏ xứ do họ đã phá hủy nhà chúng ta.’
20Vậy, hỡi những người đàn bà, hãy nghe lời Đức Giê-hô-va; hãy chú ý đến những sứ điệp do miệng Ngài phán. Hãy dạy con gái của các bà hát bài ca ai oán, và dạy cho những người nữ láng giềng một bài ca tang chế. 21Vì sự chết đã vào nhà chúng ta qua cửa sổ; nó vào trong cung điện của chúng ta. Nó hủy diệt con trẻ từ bên ngoài, và thanh niên trong các quảng trường thành phố.
22Hãy tuyên bố như vầy: ‘Đây là lời phán của Đức Giê-hô-va – thi thể của người ta sẽ ngã rạp như phân ngoài đồng, và như lúa đã cắt rồi mà còn bỏ tại đó, sẽ không ai đến gom chúng.’” 23Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Người khôn ngoan chớ tự hào về sự khôn ngoan mình, chiến sĩ chớ tự hào về sức mạnh mình. Người giàu chớ tự hào về sự giàu có mình.
24Vì nếu ai tự hào về bất cứ điều gì, hãy tự hào rằng người đó có sự hiểu biết sâu sắc và biết Ta. Vì Ta là Đức Giê-hô-va, Đấng thể hiện sự trung kiên, công lý và công bình trên đất. Vì Ta yêu thích những việc ấy – Đức Giê-hô-va phán vậy.” 25“Kìa, ngày gần đến – Đức Giê-hô-va phán như vầy – là lúc Ta trừng phạt những kẻ được cắt bì chỉ trên thân thể.26Ta sẽ phạt Ai Cập và Giu-đa, Ê-đôm, dân Am-môn, Mô-áp, và tất cả những dân cạo tóc, là dân sống trong hoang mạc. Vì tất cả những dân này là dân không được cắt bì, và hết thảy nhà Y-sơ-ra-ên có một tấm lòng không được cắt bì.” 101“Hãy nghe lời Đức Giê-hô-va phán cùng ngươi, hỡi nhà Y-sơ-ra-ên.2Đức Giê-hô-va phán như vầy: ‘Chớ học theo các thói của các dân, và chớ sợ các dấu trên trời, vì các dân sợ những dấu này. 3Vì phong tục của các dân đều vô dụng. Người ta chặt cây trong rừng; thợ thủ công dùng búa mà đẽo.
4Sau đó chúng trang trí bằng bạc và vàng. Chúng lấy búa và đinh đóng vào để nó không ngã nhào.
5Các thần tượng này giống như bù nhìn giữa ruộng dưa chuột, vì chúng không nói được. Chúng phải được khiêng, vì chúng không thể đi. Chớ sợ chúng, vì chúng không thể giáng điều dữ, chúng cũng không thể làm phước.’” 6Lạy Đức Giê-hô-va, chẳng ai giống như Ngài. Ngài là lớn, danh Ngài có sức mạnh lớn lắm.
7Ai không sợ Ngài, lạy Vua của các nước? Vì Ngài đáng được như vậy, vì chẳng có ai như Ngài giữa người khôn ngoan của các nước hoặc giữa các vương quốc. 8Tất cả chúng đều như nhau, chúng ngu đần và ngu xuẩn, họ là môn đệ của các thần tượng chẳng là gì ngoại trừ làm bằng gỗ.
9Chúng đem bạc được dát từ Tạc-sơ, và vàng từ U-pha do thợ thủ công làm và được tinh chế. Y phục của chúng làm bằng vải xanh dương và đỏ tía. Tất cả những thứ này là sản phẩm của thợ khéo.
10Nhưng Giê-hô-va là Đức Chúa Trời chân thật. Ngài là Đức Chúa Trời hằng sống và vua đời đời. Đất rúng động khi Ngài giận, và các nước không thể chịu đựng cơn giận của Ngài. 11Ngươi hãy nói với chúng như vầy: “Các thần không dựng nên trời và đất sẽ bị diệt khỏi đất và khỏi các từng trời.”12Đấng dựng nên đất bằng quyền năng Ngài đã tạo lập thế gian bằng sự khôn ngoan Ngài và giương các từng trời bằng sự hiểu biết của Ngài.
13Tiếng của Ngài phát ra tiếng ầm ầm của nước trong các từng trời, Ngài ban sương giáng khắp đất. Ngài làm cho chớp theo mưa phát ra và sai gió ra từ kho Ngài. 14Ai nấy đều dốt nát và thiếu hiểu biết. Thợ kim loại xấu hổ vì thần tượng của họ. Vì các hình tượng được đúc đều giả dối; chúng chẳng có sự sống.
15Chúng vô dụng, chúng là sản phẩm của những kẻ chế giễu; chúng sẽ bị phá hủy khi chúng bị trừng phạt.
16Nhưng Đức Chúa Trời, sản nghiệp của Gia-cốp, chẳng giống như vầy, vì Ngài là Đấng nắn lên tất cả. Y-sơ-ra-ên là chi phái của cơ nghiệp Ngài; danh Ngài là Đức Giê-hô-va vạn quân. 17Hãy gom gói đồ của ngươi và rời khỏi xứ này, hỡi dân đang bị bao vây.
18Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Kìa, lần này Ta sẽ quăng xa các dân trong xứ. Ta sẽ khiến chúng đau buồn, và chúng sẽ tỉnh biết.” 19Khốn cho tôi! Vì cớ xương tôi bị gãy, vết thương tôi bị nhiễm trùng. Vậy tôi nói: “Đây chắc chắn là nỗi thống khổ, nhưng tôi phải mang nó.”
20Lều tôi bị hủy, dây lều của tôi bị đứt. Chúng đã bắt con tôi khỏi tôi, chúng nó không còn nữa. Không còn ai giương lều tôi hoặc căng màn tôi. 21Những người chăn chiên trở nên ngu dại. Họ không tìm kiếm Đức Giê-hô-va, vì vậy họ không thành công; các bầy chiên của họ bị tản lạc.
22Có tin đồn rằng: “Kìa! Sự ấy đang đến! Một cơn động đất lớn đang đến từ phương bắc đặng khiến các thành của Giu-đa trở nên hoang tàn, là nơi ở của chó rừng.” 23Lạy Đức Giê-hô-va, con biết rằng đường lối con người chẳng phải đến từ họ. Không ai có thể sắp đặt các bước chân mình.
24Lạy Đức Giê-hô-va, xin kỷ luật con bằng công lý chứ không bởi cơn giận của Ngài, kẻo Ngài sẽ diệt con.
25Xin Chúa đổ cơn giận Ngài trên các dân không biết Ngài và trên các gia đình không kêu cầu danh Ngài. Vì chúng đã cắn xé Gia-cốp và nuốt ông ấy để phá hủy hoàn toàn và đánh đổ chỗ ở của ông ấy. 111Đây là lời Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi,2“Hãy nghe lời giao ước này, và hãy rao cho dân Giu-đa và cư dân Giê-ru-sa-lem.3Hãy nói với chúng rằng: ‘Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Ai không nghe những lời của giao ước này thật đáng bị rủa sả.4Đây là giao ước mà Ta đã truyền cho tổ phụ các ngươi ghi nhớ ngày Ta đem họ ra khỏi xứ Ai Cập, khỏi lò luyện sắt tan chảy. Ta đã phán: “Hãy nghe tiếng Ta và làm mọi điều như Ta đã truyền cho các ngươi, vì các ngươi sẽ là dân Ta và Ta sẽ là Đức Chúa Trời của các ngươi.”5Hãy vâng phục Ta hầu cho Ta giữ lời thề mà Ta đã thề cùng tổ phụ các ngươi, rằng Ta sẽ ban cho họ xứ đượm sữa và mật, là xứ mà các ngươi ngày nay đang cư ngụ.” Sau đó, tôi, Giê-rê-mi, trả lời Ngài: “Vâng, thưa Đức Giê-hô-va!”6Đức Giê-hô-va phán với tôi: “Hãy công bố mọi điều này trong các thành ở Giu-đa và trên các đường phố Giê-ru-sa-lem. Hãy nói: ‘Khá nghe những lời của giao ước này và thực hiện những lời ấy.7Vì Ta đã truyền lệnh cho tổ phụ các ngươi từ ngày Ta đem họ ra khỏi xứ Ai Cập cho đến tận bây giờ, Ta vẫn luôn răn bảo chúng rằng: “Hãy nghe tiếng Ta.”8Nhưng chúng không nghe cũng không chú ý. Ai nấy đều bước theo sự cứng cỏi của lòng dạ gian ác mình. Vậy Ta đã giáng trên họ mọi lời rủa sả trong giao ước mà Ta đã truyền. Nhưng chúng vẫn không vâng phục.”9Đức Giê-hô-va lại phán cùng tôi: “Có một âm mưu giữa dân Giu-đa và dân cư Giê-ru-sa-lem.10Chúng đã hướng về những tội lỗi của tổ phụ chúng, là những kẻ từ chối nghe lời Ta nhưng bước theo các thần khác đặng thờ lạy chúng. Nhà Y-sơ-ra-ên và nhà Giu-đa đã phá vỡ giao ước mà Ta đã lập với tổ phụ chúng.11Vậy, Đức Giê-hô-va phán như vầy: ‘Xem này, Ta sẽ giáng tai họa trên chúng, chúng sẽ không thể thoát khỏi tai họa ấy.12Các thành Giu-đa và dân cư Giê-ru-sa-lem sẽ đi kêu cầu các thần mà chúng đã dâng của lễ, nhưng những thần ấy chắc chắn sẽ không cứu chúng khi chúng gặp tai họa.13Vì số các thần của ngươi bằng với số các thành của ngươi, hỡi Giu-đa. Ngươi đã tăng số các bàn thờ đáng xấu hổ của ngươi ở Giê-ru-sa-lem, là những bàn thờ dâng hương cho Ba-anh, bằng với số các đường phố của ngươi.14Vậy hỡi Giê-rê-mi, ngươi chớ cầu thay cho dân này. Ngươi chớ than khóc hay cầu thay cho chúng. Vì Ta sẽ không nghe khi chúng kêu cầu Ta trong cơn tai họa mình.15Tại sao dân yêu dấu của Ta, là dân có quá nhiều ý định xấu, lại ở trong nhà Ta? Vì thịt dành cho các của tế lễ của ngươi không thể cứu ngươi vì ngươi đã vui mừng khi làm điều ác.16Khi xưa, Đức Giê-hô-va gọi các ngươi là cây ô-liu sum suê, đẹp đẽ và sai trái tốt. Nhưng Ngài đã đốt lửa nơi cây ấy như tiếng ầm ầm của cơn bão; các nhánh nó sẽ gãy. 17Đức Giê-hô-va vạn quân, Đấng đã trồng ngươi, đã tuyên phán giáng phạt tai họa trên ngươi vì những việc ác mà nhà Y-sơ-ra-ên và nhà Giu-đa đã phạm – chúng đã chọc giận Ta bằng việc cúng cho Ba-anh.’”18Đức Giê-hô-va bày tỏ cho tôi những điều này, vì vậy tôi biết chúng. Lạy Đức Giê-hô-va, Ngài đã cho tôi thấy những việc làm của họ.19Tôi như con chiên hiền lành bị dẫn đến hàng làm thịt. Tôi không biết chúng đã lập mưu hại tôi: “Chúng ta hãy diệt cây ấy cùng với trái của nó! Chúng ta hãy đốn nó khỏi đất của người sống để danh Ngài sẽ không còn được nhớ nữa.”20Đức Giê-hô-va vạn quân là quan xét công bình, Ngài xem xét tấm lòng và tâm trí. Tôi sẽ thấy sự báo thù của Ngài trên chúng, vì tôi đã trình bày duyên cớ tôi trước mặt Ngài. 21Vậy, Đức Giê-hô-va phán về dân A-na-tốt, là dân tìm kiếm mạng sống ngươi: “Chúng nói: ‘Ngươi chớ nhân danh Đức Giê-hô-va mà nói tiên tri, nếu không chúng ta sẽ giết ngươi.’22Vậy, Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: ‘Kìa, Ta sẽ phạt chúng. Những kẻ trai trẻ cường tráng sẽ chết bởi gươm. Con trai và con gái chúng sẽ chết bởi đói kém.23Sẽ chẳng còn ai được sống, vì Ta sẽ giáng tai họa trên dân A-na-tốt, vào năm chúng bị trừng phạt.’” 121Lạy Đức Giê-hô-va, bất cứ khi nào con tranh luận cùng Ngài, Ngài cũng đúng. Chắc chắn con phải nói cho Ngài biết lý do con kêu nài: Sao đường lối của kẻ ác được thành công? Tất cả những kẻ vô đạo đều thành công.2Ngài vun trồng chúng và chúng đâm rễ. Chúng cứ sản sinh bông trái. Miệng chúng nó thì gần Ngài, nhưng lòng chúng nó thì xa cách Ngài. 3Nhưng chính Ngài biết con, lạy Đức Giê-hô-va. Ngài nhìn thấy con và xem xét lòng con. Xin Chúa dẫn chúng đi như chiên bị dẫn đến lò mổ. Xin Chúa để riêng chúng cho ngày bị mổ thịt.
4Đất sẽ than khóc bao lâu nữa, cỏ ngoài đồng sẽ khô héo đến bao giờ vì cớ lòng gian ác của cư dân nó? Các loài thú và chim đều bị cất đi. Thật vậy, chúng nói: “Đức Chúa Trời không biết việc gì sẽ xảy đến với chúng ta.” 5Đức Giê-hô-va phán: “Hỡi Giê-rê-mi, nếu ngươi chạy đua với người chạy bộ mà ngươi còn đuối sức, thì làm sao ngươi có thể chạy đua với ngựa? Nếu ngươi vấp ngã trong xứ đang yên ổn, yên bình, làm sao ngươi đối phó được ở những bụi cây dọc sông Giô-đanh?6Ngay cả anh em và gia đình cha ngươi phản bội ngươi và kịch liệt tố cáo ngươi. Chớ tin cậy chúng, thậm chí nếu chúng nói lời tử tế với ngươi. 7Ta đã bỏ nhà Ta; Ta đã bỏ cơ nghiệp Ta. Ta đã phó dân yêu dấu của Ta vào tay kẻ thù nghịch nó.
8Cơ nghiệp Ta như sư tử ẩn mình trong bụi cây; nó gầm thét nghịch lại Ta, cho nên Ta ghét nó.
9Cơ nghiệp của Ta như con linh cẩu, và chim săn mồi vây quanh trên đầu nó. Hãy đi, tập hợp tất cả các loài thú đồng, cho chúng cắn nuốt đi. 10Nhiều người chăn chiên đã hủy phá vườn nho Ta. Chúng giẫm đạp sản nghiệp xứ của Ta; chúng biến chỗ đất vui thích của Ta thành nơi hoang mạc, một nơi tan hoang.
11Chúng khiến nó trở nên một nơi tan hoang. Ta than khóc vì nó; nó bị tan hoang. Khắp xứ đều trở nên hoang tàn, vì không ai còn nhớ nó nữa. 12Những kẻ hủy diệt đến trên các nơi trơ trọi trong hoang mạc, vì gươm của Đức Giê-hô-va tàn phá từ đầu này đến đầu kia trong xứ. Chẳng có loài xác thịt nào được an toàn trong xứ.
13Chúng gieo lúa mì nhưng gặt bụi gai. Chúng nhọc công nhưng chẳng đạt được gì. Vậy hãy xấu hổ về của kiếm được của các ngươi vì cớ cơn giận của Đức Giê-hô-va.” 14Đức Giê-hô-va phán: “Đối với những kẻ lân cận xấu xa của Ta - những kẻ chiếm đoạt sản nghiệp mà Ta ban cho dân Y-sơ-ra-ên của Ta thừa hưởng. Kìa, Ta là Đấng sẽ nhổ chúng khỏi đất, Ta sẽ bứng nhà Giu-đa khỏi chúng.15Sau khi Ta đã bứng các nước ấy, Ta sẽ thương xót chúng và đem chúng trở về; Ta sẽ đem chúng về lại sản nghiệp và xứ của chúng.16Nếu các nước ấy cẩn thận học hỏi đường lối của dân Ta, nhân danh Ta mà thề rằng ‘Thật như Đức Giê-hô-va hằng sống!’ y như chúng đã dạy dân Ta nhân danh Ba-anh của chúng mà thề, thì chúng sẽ được vững lập giữa dân Ta.17Nhưng nếu chẳng ai lắng nghe, Ta sẽ bứng nước ấy. Nó chắc chắn sẽ bị nhổ và bị diệt – Đức Giê-hô-va phán vậy.” 131Đức Giê-hô-va phán với tôi: “Hãy đi mua một đai lưng bằng vải gai mịn và đeo nó quanh thắt lưng, nhưng chớ dầm trong nước.”2Vậy, tôi mua một đai lưng như Đức Giê-hô-va đã truyền, rồi tôi quấn quanh hông tôi.3Sau đó, Đức Giê-hô-va phán với tôi lần thứ nhì,4“Hãy lấy đai lưng mà ngươi đã mua hiện đang ở trên hông ngươi, rồi đến Ơ-phơ-rát. Hãy giấu trong một kẽ đá.”5Vậy, tôi đi giấu nó ở Ơ-phơ-rát như Đức Giê-hô-va đã truyền.6Sau nhiều ngày, Đức Giê-hô-va phán với tôi: “Hãy trở lại Ơ-phơ-rát, lấy đai lưng mà Ta đã bảo ngươi đem giấu.”7Vậy, tôi trở lại Ơ-phơ-rát và đào cái đai lưng mà tôi đã giấu. Nhưng kìa! Đai lưng bị mục; nó chẳng còn nguyên vẹn nữa.8Sau đó, có lời Đức Giê-hô-va lại phán với tôi rằng:9“Đức Giê-hô-va phán như vầy: Cũng vậy, Ta sẽ đánh đổ sự ngạo mạn của Giu-đa và Giê-ru-sa-lem.10Dân gian ác này không chịu nghe lời Ta, sống theo lòng cứng cỏi, thờ lạy và quỳ lạy trước các thần khác – chúng sẽ như chiếc đai lưng vô dụng này.11Vì như đai lưng đeo quanh hông, Ta đã buộc cả nhà Y-sơ-ra-ên và cả nhà Giu-đa quanh hông Ta – Đức Giê-hô-va phán vậy – để chúng làm dân Ta, đem lại cho Ta danh tiếng, sự ngợi khen, và tôn kính. Nhưng chúng chẳng lắng nghe Ta.12Do đó, ngươi hãy bảo chúng: ‘Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Bình sẽ đầy rượu.’ Chúng sẽ hỏi ngươi: ‘Bộ chúng tôi không biết là bình sẽ đầy rượu sao?’13Hãy đáp rằng: ‘Đức Giê-hô-va phán như vầy: Kìa, Ta sẽ khiến các cư dân trong xứ này, các vua ngồi trên ngai Đa-vít, các thầy tế lễ, tiên tri, và mọi cư dân Giê-ru-sa-lem say be bét.14Sau đó, Ta sẽ khiến chúng đánh nhau tơi bời, cha đánh con cái – Đức Giê-hô-va phán vậy – Ta sẽ không tiếc chúng cũng chẳng thương xót chúng, Ta sẽ không ngăn chúng khỏi sự hủy diệt.’”15Hãy nghe và chú ý. Chớ kiêu ngạo, vì Đức Giê-hô-va đã phán.
16Hãy dâng sự tôn kính cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ngươi trước khi Ngài giáng sự tối tăm, và trước khi Ngài khiến các ngươi vấp chân trên núi lúc chạng vạng. Vì các ngươi mong chờ ánh sáng, nhưng Ngài sẽ khiến nơi ấy trở nên tối tăm, như mây đen dày đặc.
17Vậy nếu các ngươi không nghe, tôi sẽ khóc vì cớ sự kiêu ngạo của các ngươi. Tôi sẽ khóc dầm dề, vì bầy chiên của Đức Giê-hô-va đã bị bắt làm phu tù. 18“Hãy nói với vua và hoàng hậu: ‘Hãy hạ mình và ngồi xuống, vì mão triều trên đầu ngươi, niềm kiêu hãnh và vinh quang ngươi, đã rơi xuống rồi.’
19Các thành ở Nê-ghép sẽ bị phong tỏa, không ai mở ra. Giu-đa sẽ bị bắt làm phu tù, cư dân nó sẽ bị bắt đi lưu đày. 20Hãy ngước mắt lên và xem những kẻ đến từ phương bắc. Bầy chiên đẹp đẽ đã được ban cho ngươi đâu?
21Ngươi sẽ nói gì khi Đức Chúa Trời lập trên ngươi những kẻ mà ngươi đã dạy dỗ làm bạn ngươi? Những điều này chẳng phải là sự khởi đầu của những cơn đau đớn quặn thắt bủa vây ngươi như người nữ sinh con sao? 22Ngươi tự nhủ rằng: ‘Sao những việc này xảy đến với tôi?’ Đó là vì tội ác ngươi nhiều đến nỗi vạt áo ngươi bị tốc lên và ngươi bị hãm hiếp.
23Người Cút có thể đổi màu da không, con báo có thể đổi đốm của nó không? Nếu vậy thì chính các ngươi cũng có thể làm điều thiện dù các ngươi quen làm điều ác.
24Do đó, Ta sẽ rải chúng như trấu bay trong hoang mạc. 25Đây phần Ta đã ban cho ngươi, là phần Ta đã chia cho ngươi – Đức Giê-hô-va phán vậy – vì ngươi đã quên Ta và tin cậy sự giả dối.
26Ta cũng sẽ lột váy ngươi, thiên hạ sẽ thấy sự trần truồng của ngươi.
27Tội tà dâm và tiếng hí của ngươi, sự xấu hổ về hành vi dâm dục của ngươi trên đồi và ngoài đồng! Ta sẽ khiến những sự gớm ghiếc ấy bị phơi bày! Hỡi Giê-ru-sa-lem, khốn cho ngươi! Ngươi ô uế. Việc này sẽ còn kéo dài bao lâu nữa?” 141Đây là lời Đức Giê-hô-va phán với Giê-rê-mi về cơn hạn hán,2“Hãy để Giu-đa than khóc; hãy để các cổng thành tiêu điều. Chúng than khóc vì xứ; tiếng kêu cầu của chúng về Giê-ru-sa-lem thấu đến trời cao.3Những kẻ quyền quý sai đầy tớ đi tìm nước. Khi tới mương không tìm thấy nước, họ thất vọng và quay về; họ trùm đầu, xấu hổ và thẹn thùng. 4Bởi đó, đất nứt nẻ, vì trong xứ không có mưa. Thợ cày xấu hổ và trùm đầu.
5Ngay cả hươu cái cũng đẻ con nó ngoài đồng và bỏ chạy, vì không có cỏ.
6Lừa hoang đứng trên gò trọi, thở hổn hển trong gió như chó rừng. Mắt chúng đờ đẫn, vì không có cây cỏ.” 7Lạy Đức Giê-hô-va, dù tội ác chúng con làm chứng nghịch lại chúng con, xin Ngài hành động vì cớ danh Ngài. Vì hành động bội bạc của chúng con gia tăng; chúng con đã phạm tội với Ngài.
8Lạy Chúa, là niềm Hy vọng của Y-sơ-ra-ên, là Đấng cứu dân ấy khi túng quẫn, sao Ngài trở nên như khách lạ trong xứ, như khách bộ hành căng lều ngủ qua đêm?
9Sao Ngài như người lúng túng, như chiến sĩ không thể giải cứu được ai? Vì Ngài ở giữa chúng con, lạy Đức Giê-hô-va! Danh Ngài được rao truyền giữa chúng con. Xin đừng lìa bỏ chúng con. 10Đức Giê-hô-va phán với dân này: “Vì chúng thích đi lang thang, chúng không kiềm chế chân mình.” Đức Giê-hô-va không hài lòng. Bây giờ Ngài nhớ lại tội ác chúng và trừng phạt tội lỗi chúng.11Đức Giê-hô-va phán cùng tôi: “Chớ cầu thay cho dân này.12Vì nếu chúng kiêng ăn, Ta sẽ không nghe tiếng khóc than của chúng, và nếu chúng dâng của lễ thiêu và của lễ chay, Ta sẽ không nhậm. Vì Ta sẽ tiêu diệt chúng bằng gươm, đói kém, và dịch lệ.”13Tôi nói: “Ôi, lạy Chúa Giê-hô-va! Kìa! Các tiên tri nói với họ: ‘Các ngươi sẽ không thấy gươm; cũng chẳng gặp đói kém, vì Ta sẽ cho các ngươi thật yên ninh trong xứ này.’”14Đức Giê-hô-va phán với tôi: “Các tiên tri nhân danh Ta mà nói tiên tri giả. Ta không sai chúng, Ta cũng không truyền cho chúng bất cứ mệnh lệnh nào hoặc phán với chúng bất cứ điều chi. Chúng nói tiên tri cùng các ngươi theo những sự hiện thấy giả dối, sự bói toán, sự vô ích từ lòng chúng.”15Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Về phần các tiên tri nhân danh Ta mà nói tiên tri nhưng chẳng phải là những kẻ mà Ta đã sai đi – những kẻ nói rằng sẽ không có gươm dao hay đói kém trong xứ này: các tiên tri ấy sẽ chết bởi gươm và nạn đói.16Và những người mà chúng nói tiên tri sẽ bị ném ra ngoài đường phố Giê-ru-sa-lem vì cớ đói kém và gươm dao, sẽ không ai chôn chúng, vợ chúng, con trai và con gái chúng – vì Ta sẽ đổ sự gian ác của chúng lại trên chúng.17Hãy phán lời này với chúng: ‘Hãy để tôi khóc cả ngày và đêm chẳng thôi, vì con gái đồng trinh của dân tôi sẽ bị đánh một đòn khủng khiếp – bị thương và không chữa được.18Nếu tôi ra ngoài đồng, và kìa! Có kẻ bị giết bằng gươm. Và nếu tôi vào trong thành, kìa! Có kẻ chết vì đói kém. Ngay cả tiên tri và thầy tế lễ cũng đi lang thang khắp xứ mà chẳng hiểu biết gì.’” 19Ngài đã hoàn toàn từ bỏ Giu-đa sao? Ngài ghét Si-ôn sao? Sao Ngài khiến chúng con khổ sở khi chúng con không được chữa lành? Chúng con trông chờ sự bình an, nhưng chẳng có điều gì tốt lành – chúng con mong được được chữa lành, nhưng kìa, chỉ có sự kinh khiếp.20Lạy Đức Giê-hô-va, chúng con xin nhận tội của tổ phụ chúng con, vì chúng con đã phạm tội nghịch lại Ngài. 21Xin đừng từ bỏ chúng con! Vì cớ danh Ngài, xin đừng làm nhục ngôi vinh quang của Ngài. Xin Chúa nhớ và đừng phá vỡ giao ước của Ngài với chúng con.
22Giữa các thần của các nước, ai có thể ban mưa rào? Lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng con, Ngài chẳng phải là Đấng làm việc này sao? Chúng con trông mong nơi Ngài, vì chính Ngài làm mọi điều ấy. 151Đức Giê-hô-va phán cùng tôi: “Thậm chí nếu Môi-se hoặc Sa-mu-ên đứng trước mặt Ta, Ta vẫn sẽ không chiếu cố dân này. Hãy đuổi chúng khuất mắt Ta, để chúng đi đâu thì đi.2Chúng sẽ hỏi ngươi: ‘Chúng tôi nên đi đâu?’ Ngươi phải trả lời chúng rằng: ‘Đức Giê-hô-va phán như vầy: Ai bị định cho chết sẽ chết; ai bị định cho gươm sẽ chết bởi gươm. Ai bị định cho đói kém sẽ bị đói kém; và ai bị định cho sự phu tù sẽ bị bắt làm phu tù.’3Vì Ta sẽ phó chúng vào bốn loại tai họa – Đức Giê-hô-va phán vậy – gươm để giết, chó để tha đi, chim trời và thú rừng sẽ cắn nuốt và diệt đi.4Ta sẽ khiến chúng trở thành một mối kinh hoàng cho mọi vương quốc trên đất, vì những việc Ma-na-se con Ê-xê-chia, vua Giu-đa, đã làm tại Giê-ru-sa-lem.5Vì ai sẽ thương xót ngươi, hỡi Giê-ru-sa-lem? Ai sẽ than khóc ngươi? Ai sẽ quay lại hỏi thăm ngươi?
6Ngươi đã từ bỏ Ta – Đức Giê-hô-va phán vậy. Ngươi đã thối lui. Vậy Ta sẽ giơ tay ra đánh ngươi và diệt ngươi. Ta đã chán phải thương xót ngươi.
7Ta sẽ cầm nia sàng lọc chúng ở các cổng thành trong xứ này. Ta sẽ diệt sạch chúng. Ta sẽ hủy diệt dân Ta vì chúng không từ bỏ đường lối mình. 8Ta sẽ khiến số góa phụ của chúng nhiều hơn cát trên bờ biển. Giữa trưa Ta sẽ sai kẻ hủy diệt đến hại các bà mẹ của những gã trai trẻ. Ta sẽ khiến sự khích động và kinh hãi thình lình giáng trên chúng.
9Người mẹ đã sinh bảy con sẽ mòn mỏi. Nàng thở thoi thóp. Mặt trời của nàng sẽ lặn đang khi còn ban ngày. Nàng sẽ xấu hổ và bối rối, vì Ta sẽ phó những kẻ còn sót lại cho gươm trước mặt kẻ thù nghịch chúng – Đức Giê-hô-va phán vậy.” 10Mẹ ơi, con thật là khốn khổ! Vì mẹ đã sinh ra con làm người mà cả xứ đều tranh cãi và tranh luận. Con không cho vay ai mượn, cũng chẳng mượn ai, nhưng mọi người đều rủa sả con.11Đức Giê-hô-va phán: “Chẳng lẽ Ta sẽ không giải cứu ngươi mãi mãi sao? Chắc chắn Ta sẽ khiến kẻ thù ngươi van xin giúp đỡ trong kỳ hoạn nạn và đau buồn.12Ai có thể đập vỡ sắt? Đặc biệt là sắt từ phương bắc trộn với đồng? 13Ta sẽ phó sự giàu sang và kho báu của các ngươi cho quân thù như một của cướp. Ta sẽ làm như vậy vì tội lỗi các ngươi đã phạm trong địa phận mình.
14Ta sẽ khiến quân thù giải các ngươi đến xứ mà ngươi không biết, vì lửa sẽ cháy, cơn thạnh nộ Ta sẽ nổi phừng vì các ngươi.” 15Lạy Đức Giê-hô-va, chính Ngài biết! Xin Chúa nhớ lại và giúp đỡ con. Xin Chúa báo thù những kẻ theo đuổi con. Xin Ngài nhẫn nại đừng cất con đi. Xin Chúa biết rằng con chịu sỉ nhục vì Ngài.
16Con tìm được lời Ngài và ăn nuốt lời ấy. Lời Ngài là niềm vui với con, khiến lòng con vui mừng, vì con được gọi bằng danh Ngài, lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời vạn quân. 17Con không ngồi trong hội những kẻ chế giễu hoặc hoan hỉ. Con ngồi một mình vì cớ tay mạnh mẽ của Ngài, vì Ngài khiến con căm phẫn.
18Sao con cứ đau đớn triền miên và vết thương con không thể được chữa lành? Ngài sẽ như một dòng nước giả dối, dòng nước khô cạn chăng? 19Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Giê-rê-mi, nếu ngươi ăn năn, Ta sẽ phục hồi ngươi, ngươi sẽ đứng trước mặt Ta và phục vụ Ta. Vì nếu ngươi làm cho những điều ngu xuẩn lìa khỏi những sự quý báu, ngươi sẽ như miệng Ta. Chúng sẽ trở về với ngươi, nhưng ngươi không được trở về cùng chúng.20Ta sẽ khiến ngươi như bức tường đồng bất khả xâm phạm đối với dân này, chúng sẽ gây chiến với ngươi. Nhưng chúng sẽ không thắng ngươi, vì Ta ở cùng ngươi đặng giải cứu ngươi – Đức Giê-hô-va phán vậy –
21vì Ta sẽ cứu ngươi khỏi tay kẻ ác và chuộc ngươi khỏi tay kẻ bạo tàn.” 161Có lời Đức Giê-hô-va phán cùng tôi,2“Ngươi chớ cưới vợ, và chớ sanh con trai hay con gái trong xứ này.3Vì Đức Giê-hô-va phán như vầy về các con trai và con gái được sinh trong xứ này, về những người mẹ sinh ra chúng, và về những người cha sinh ra chúng trong xứ này,4‘Chúng sẽ chết vì bệnh tật. Sẽ không ai than khóc hay chôn cất chúng. Chúng sẽ như phân trên đất. Chúng sẽ chết bởi gươm và nạn đói, xác chúng sẽ trở thành đồ ăn cho chim trời và các loài thú trên đất.’5Vì Đức Giê-hô-va phán rằng: ‘Chớ vào nhà có tang. Chớ than khóc, và chớ cảm thông cho những người này. Vì Ta đã cất đi sự bình an, sự thành tín theo giao ước, và lòng thương xót của Ta khỏi dân này! – Đức Giê-hô-va phán vậy –6như vậy, kẻ lớn và kẻ nhỏ sẽ chết trong xứ này. Chúng sẽ không được chôn cất, cũng chẳng ai than khóc chúng. Không ai tự cắt thịt hoặc cạo đầu vì chúng.7Không ai chia sẻ thức ăn khi than khóc để an ủi những người có tang, và không ai trao chén chia buồn cho cha hoặc mẹ của chúng để an ủi chúng.8Ngươi chớ đến nhà có yến tiệc đặng ngồi ăn uống chung với chúng.’9Vì Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: ‘Kìa, trước mặt ngươi, trong đời ngươi và trong xứ này, Ta sẽ chấm dứt tiếng vui mừng và hoan hỉ, tiếng của chàng rể và nàng dâu.’10Khi ngươi thuật những lời này cho dân, chúng sẽ hỏi ngươi: ‘Sao Đức Giê-hô-va rao tai họa này cho chúng tôi? Chúng tôi đã phạm tội gì đối với Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi?’11Vậy hãy bảo chúng: ‘Bởi vì tổ phụ các ngươi từ bỏ Ta – Đức Giê-hô-va phán vậy – chúng theo các thần khác, thờ lạy và quỳ lại trước các thần đó. Chúng từ bỏ Ta và không giữ luật pháp Ta.12Nhưng chính các ngươi còn phạm điều ác nhiều hơn tổ phụ các ngươi, vì kìa, ai nấy đều theo sự cứng cỏi trong lòng gian ác mình; không ai lắng nghe Ta.13Vậy, Ta sẽ ném các ngươi ra khỏi xứ này đến một xứ mà các ngươi và tổ phụ các ngươi không biết, các ngươi sẽ thờ lạy các thần khác cả ngày và đêm, vì Ta sẽ không ban ơn cho các ngươi.’14Vậy hãy xem! Những ngày ấy gần đến – Đức Giê-hô-va phán vậy – khi chẳng còn ai nói: ‘Thật Đức Giê-hô-va hằng sống, Đấng đã đem dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ai Cập.’15Vì thật Đức Giê-hô-va hằng sống, Đấng đã đem dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ phương bắc và ra khỏi những xứ mà Ngài đã khiến họ tản lạc, Ta sẽ đem chúng trở về xứ mà Ta đã ban cho tổ phụ chúng.16Kìa! Ta sẽ sai đến nhiều ngư dân – Đức Giê-hô-va phán vậy – để họ bắt chúng. Sau đó, Ta sẽ sai đến nhiều thợ săn để họ săn bắt chúng giữa núi đồi, và giữa những khe đá.17Vì mắt Ta dõi xem đường lối chúng; chúng không thể giấu trước mặt Ta. Chúng không thể che đậy tội lỗi trước mặt Ta.18Trước nhất, Ta sẽ báo trả tội ác và tội lỗi chúng gấp đôi vì chúng làm ô uế xứ của Ta bằng những hình tượng gớm ghiếc, và làm đầy dẫy cơ nghiệp Ta bằng những thần tượng kinh tởm.”19Lạy Giê-hô-va, Ngài là đồn lũy và nơi nương náu của con, Ngài là nơi an toàn của con trong ngày khốn cùng. Các nước từ khắp những nơi đầu cùng đất sẽ đến với Ngài và nói: “Chắc chắn tổ phụ chúng tôi đã hưởng những sự giả dối. Chúng rỗng tuếch; chẳng đem đến ích lợi gì.
20Người ta tạo ra các thần cho riêng họ phải không? Nhưng chúng không phải là thần.
21Vậy hãy xem! Lần này Ta sẽ khiến chúng biết, Ta sẽ khiến chúng biết tay Ta và quyền năng Ta, để chúng biết rằng danh Ta là Giê-hô-va.” 171“Tội lỗi của Giu-đa được viết bằng bút sắt có đầu kim cương. Tội ấy được khắc trên bảng lòng của chúng và trên sừng các bàn thờ của các ngươi.2Con cái chúng nhớ các bàn thờ và trụ thờ thần A-sê-ra của chúng ở dưới gốc cây xum xuê trên đồi cao. 3Chúng nhớ những bàn thờ của chúng trên núi ở vùng thôn quê. Ta sẽ biến sự giàu có và của cải ngươi thành của cướp. Vì tội lỗi ở khắp mọi nơi trong bờ cõi ngươi.
4Ngươi sẽ mất cơ nghiệp mà Ta ban cho ngươi. Ta sẽ khiến kẻ thù ngươi bắt ngươi làm nô lệ trong xứ mà ngươi chẳng biết, vì ngươi đã nhen lửa trong cơn thạnh nộ của Ta, cơn giận ấy sẽ cháy mãi không tắt.” 5Đức Giê-hô-va phán: “Đáng rủa thay là kẻ tin cậy loài người; nó lấy xác thịt làm sức mạnh nhưng xoay lòng mình khỏi Đức Giê-hô-va.6Nó sẽ như thạch thảo ở A-ra-ba và sẽ không thấy điều gì tốt đẹp xảy đến. Nó sẽ ở trong những nơi đầy sỏi đá trong hoang mạc, một xứ cằn cỗi không có người ở. 7Nhưng ai tin cậy Đức Giê-hô-va thật đáng chúc phước thay, vì Đức Giê-hô-va là lý do người tin tưởng.
8Người sẽ như cây trồng gần dòng suối; rễ người sẽ lan tỏa. Dù trời nóng cũng không hề hấn, người vẫn sẽ ra lá xum xuê. Trong năm hạn hán, người sẽ không lo lắng, cũng chẳng ngưng ra trái. 9Lòng con người dối trá hơn bất kỳ điều gì khác. Nó xấu xa; ai có thể hiểu được?
10Ta là Giê-hô-va, Đấng dò xét tâm trí, kiểm tra lòng người. Ta báo cho mỗi người tùy điều họ đáng nhận, phạt họ tùy kết quả việc làm của họ.
11Gà gô ấp trứng chẳng phải do nó đẻ. Ai đó có thể trở nên giàu có một cách bất chính. Nhưng trong lúc thanh xuân của nó, sự giàu có sẽ từ bỏ nó và cuối cùng nó sẽ thành kẻ ngốc.” 12“Nơi đền thờ của chúng ta là ngôi vinh hiển, được lập nên từ ban đầu.
13Đức Giê-hô-va là niềm hy vọng của Y-sơ-ra-ên. Những kẻ từ bỏ Ngài sẽ nhục nhã. Những kẻ trong xứ xoay bỏ khỏi Ngài sẽ bị diệt. Vì chúng từ bỏ Đức Giê-hô-va, Ngài là nguồn nước sống.
14Lạy Đức Giê-hô-va, xin chữa lành con, rồi con sẽ được chữa lành! Xin giải cứu con, rồi con sẽ được cứu. Vì Ngài là bài ca ngợi khen của con. 15Kìa, họ hỏi con: ‘Lời của Đức Giê-hô-va đâu? Hãy làm cho nó ứng nghiệm!”
16Về phần con, con không từ bỏ bổn phận làm người chăn chiên đi theo Ngài. Con không mong ngày gặp tai họa. Ngài biết những lời mà môi con công bố. Chúng ở trước mặt Ngài. 17Xin Chúa đừng làm con khiếp sợ. Ngài là nơi nương náu của con trong ngày hoạn nạn.
18Xin Chúa khiến những kẻ đeo đuổi con bị hổ thẹn, nhưng đừng để con xấu hổ. Nguyện chúng bị kinh hoàng, nhưng đừng để con bị kinh hoàng. Xin Chúa giáng ngày tai họa trên chúng và đập vỡ chúng bằng sự hủy diệt gấp đôi.” 19Đức Giê-hô-va phán với tôi như vầy: “Hãy đi và đứng nơi cổng của dân, nơi mà các vua Giu-đa vào và ra, sau đó hãy đứng ở tất cả các cổng khác ở Giê-ru-sa-lem.20Hãy bảo chúng: ‘Hãy nghe lời của Đức Giê-hô-va, hỡi các vua Giu-đa và dân Giu-đa, và toàn thể cư dân Giê-ru-sa-lem là những người ra vào các cổng này.21Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Hãy cẩn thận bảo vệ mạng sống mình, chớ mang gánh trong ngày Sa-bát qua các cổng thành Giê-ru-sa-lem.22Chớ đem vật gánh nào ra khỏi nhà ngươi trong ngày Sa-bát. Chớ làm bất cứ việc gì, nhưng hãy biệt riêng ngày Sa-bát cho Đức Giê-hô-va, như Ta đã truyền cho tổ phụ các ngươi thực hiện.”’23Chúng không nghe cũng chẳng để ý, chúng cứng cổ đến nỗi chẳng nghe Ta hoặc chấp nhận kỷ luật.24Nếu các ngươi thật sự nghe Ta – Đức Giê-hô-va phán vậy – và không mang vật gánh qua các cổng thành trong ngày Sa-bát nhưng biệt riêng ngày Sa-bát cho Đức Giê-hô-va và không làm việc chi trong ngày đó –25thì các vua, các vương tử, và những người ngồi trên ngai Đa-vít sẽ đến các cổng của thành này bằng xe chiến mã và ngựa, bao gồm các quan trưởng, người Giu-đa và cư dân Giê-ru-sa-lem. Và thành này sẽ còn lại đời đời.26Họ sẽ đến từ các thành ở Giu-đa và quanh Giê-ru-sa-lem, từ xứ Bên-gia-min và những vùng đất thấp, từ miền núi và từ Nê-ghép, họ đem theo của lễ thiêu, của tế lễ, của lễ chay và nhũ hương. Họ sẽ đem của lễ tạ ơn đến nhà Ta.27Nhưng nếu các ngươi không nghe Ta để biệt riêng ngày Sa-bát cho Đức Giê-hô-va – nếu các ngươi đem vật gánh vào các cổng thành Giê-ru-sa-lem trong ngày Sa-bát, Ta sẽ nhen lửa trong các cổng thành, lửa ấy sẽ thiêu đốt mọi đồn lũy Giê-ru-sa-lem, nó sẽ cháy mãi không thôi.” 181Đây là lời Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi,2“Hãy đứng dậy và đi đến nhà thợ gốm, vì Ta sẽ cho ngươi nghe lời Ta tại đó.”3Vậy, tôi đi đến nhà thợ gốm, và kìa! Người thợ gốm đang làm việc nơi bàn quay.4Nhưng vật bằng đất sét mà ông đang nắn bị hư trong tay ông, do đó ông đổi ý và làm một vật khác mà theo ý ông cho là tốt.5Kế đó, có lời Đức Giê-hô-va phán với tôi,6“Chẳng lẽ Ta không thể làm cho ngươi như người thợ gốm này sao, hỡi nhà Y-sơ-ra-ên? – Đức Giê-hô-va phán như vầy. Kìa! Như đất sét trong tay người thợ gốm thể nào – thì các ngươi trong tay Ta cũng sẽ thể ấy, hỡi nhà Y-sơ-ra-ên.7Khi Ta tuyên bố điều gì về một nước hay một vương quốc, rằng Ta sẽ đuổi chúng đi, hủy đi, hoặc diệt đi.8Nhưng nếu nước mà Ta đã tuyên bố quyết định từ bỏ điều ác, Ta sẽ động lòng thương xót chúng mà không giáng tai họa ấy.9Có khi Ta tuyên bố về một nước hay một vương quốc rằng Ta sẽ dựng nó hoặc trồng nó.10Nhưng nếu nó làm điều ác trước mặt Ta, không lắng nghe tiếng Ta, thì Ta sẽ ngưng xuống phước mà Ta đã định cho nó.11Vậy bây giờ, hãy nói với dân Giu-đa và cư dân Giê-ru-sa-lem: ‘Đức Giê-hô-va phán như vầy: Kìa, Ta sẽ giáng họa trên ngươi. Ta sẽ lập kế hoạch hại ngươi. Hãy ăn năn, ai nấy hãy từ bỏ đường gian ác của mình, để đường lối và việc làm ngươi đem đến điều tốt cho ngươi.’12Nhưng chúng sẽ nói: ‘Thật vô ích. Chúng tôi sẽ theo kế hoạch của chúng tôi. Ai nấy trong chúng tôi sẽ chiều lòng xấu xa và cứng cỏi mình.’13Vậy Đức Giê-hô-va phán: ‘Hãy hỏi các nước, ai từng nghe đến điều này bao giờ? Trinh nữ Y-sơ-ra-ên phạm một việc kinh tởm.14Tuyết ở Li-băng có bao giờ tan chảy khỏi các sườn núi đá ở đồng bằng không? Những con suối từ trên núi xa chảy đến có cạn nước không? 15Nhưng dân Ta đã quên Ta. Chúng dâng của lễ cho các thần tượng vô dụng và vấp ngã trên đường mình; chúng rời những con đường xưa đặng đi trong những con đường sai lệch.
16Xứ của chúng sẽ trở nên kinh khiếp, thành một thứ bị người ta bàn tán mãi mãi. Ai đi ngang qua nó đều sẽ rùng mình và lắc đầu.
17Ta sẽ rải chúng trước mặt kẻ thù nghịch như cơn gió đông. Ta sẽ quay lưng đi, chúng sẽ không thấy mặt Ta, trong ngày hoạn nạn.’” 18Vậy, dân chúng nói: “Nào, chúng ta hãy lập mưu nghịch Giê-rê-mi, vì thầy tế lễ luôn có luật pháp, người khôn ngoan luôn có lời khuyên, và tiên tri luôn có lời phán. Nào, chúng ta hãy dùng lời nói của chúng ta mà đánh nó và không để ý đến lời nó rao báo nữa.”19Lạy Đức Giê-hô-va, xin đoái đến con! Xin nghe tiếng huyên náo của kẻ thù nghịch con.20Tai họa của chúng sẽ thật sự được báo đáp cho con vì con đối xử tốt với chúng sao? Chúng đã đào hố trước mặt con. Xin Chúa nhớ là con đã đứng trước mặt Ngài và cầu xin Ngài ban phước cho chúng, khiến Ngài xây cơn giận khỏi chúng. 21Vì vậy, xin Chúa phó con cái chúng cho nạn đói, và phó chúng cho sức mạnh của gươm giáo. Xin Chúa cất vợ của chúng và khiến chúng góa bụa, người của chúng sẽ bị giết, những trai trẻ sẽ bị giết bằng gươm nơi chiến trận.
22Xin Chúa cho người ta nghe tiếng kêu la đau buồn từ trong nhà chúng, như Ngài bất ngờ giáng kẻ cướp trên chúng. Vì chúng đã đào hố đặng bắt con và đặt bẫy dưới chân con.
23Nhưng Ngài, lạy Đức Giê-hô-va, Ngài biết hết mọi kế hoạch của chúng lập nên để giết con. Xin Chúa đừng tha tội ác và tội lỗi chúng. Xin Chúa đừng xóa tội lỗi chúng khỏi trước mặt Ngài. Trái lại, xin Chúa ném chúng trước mặt Ngài. Xin Chúa hành động khi Ngài nổi cơn thạnh nộ. 191Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Hãy đi mua một bình đất sét của thợ gốm cùng với các trưởng lão trong dân và thầy tế lễ.2Sau đó, hãy đến thung lũng Ben Hin-nôm ở lối vào của Cửa Sành, tại đó hãy công bố những lời mà Ta sẽ bảo ngươi.3Hãy nói: ‘Khá nghe lời của Đức Giê-hô-va, hỡi các vua Giu-đa và cư dân Giê-ru-sa-lem! Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: “Kìa, Ta sẽ giáng tai họa trên nơi này, và tai của những kẻ nghe về điều đó sẽ lùng bùng.4Ta sẽ giáng họa vì chúng đã từ bỏ Ta và làm ô uế nơi này. Trong xứ này, chúng dâng của lễ cho các thần mà chúng chẳng biết. Chúng, tổ phụ của chúng, và các vua Giu-đa cũng đã làm xứ này ngập huyết vô tội.5Chúng xây các điện thờ cho Ba-anh để dâng con trai chúng qua lửa làm của lễ thiêu cho thần đó – đây là việc Ta chẳng truyền. Ta không bảo chúng làm việc đó, lòng Ta cũng chẳng hề nghĩ đến.6Vậy, kìa, các ngày gần đến – Đức Giê-hô-va phán vậy – là khi nơi này sẽ không còn được gọi là Tô-phết, thung lũng Ben Hin-nôm, nó sẽ được gọi là thung lũng Tàn sát.7Tại nơi này, Ta sẽ khiến các kế hoạch của Giu-đa và Giê-ru-sa-lem trở nên vô dụng. Ta sẽ khiến chúng ngã xuống bởi gươm trước mặt kẻ thù nghịch chúng và bởi tay của những kẻ tìm mạng sống chúng. Sau đó, Ta sẽ phó thi thể chúng làm đồ ăn cho chim trời và các loài thú trên đất.8Ta sẽ khiến thành này ra hoang vu và trở nên một thứ bị chê cười, vì ai đi ngang qua nó đều cũng sẽ rùng mình và chê cười vì cớ những tai họa của nó.9Ta sẽ khiến chúng ăn thịt con trai và con gái chúng; ai nấy đều sẽ ăn thịt người lân cận mình khi bị bao vây và thống khổ bởi quân thù và những kẻ tìm hại mạng sống chúng.’”10Sau đó, ngươi hãy đập vỡ cái bình gốm trước mặt những người đi với ngươi.11Hãy bảo chúng: ‘Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Ta sẽ làm điều tương tự với dân này và thành này – Đức Giê-hô-va vạn quân phán vậy – như Giê-rê-mi đã đập vỡ cái bình gốm đến nỗi không thể nào hàn gắn được. Người ta sẽ chôn người chết ở Tô-phết cho đến khi không còn chỗ chôn nữa.12Đây là việc Ta sẽ làm trên nơi này và trên cư dân của nó, khi Ta biến thành này trở nên như Tô-phết – Đức Giê-hô-va phán vậy –13vậy, các nhà ở Giê-ru-sa-lem và của các vua Giu-đa sẽ trở nên như Tô-phết – tức là những nhà mà trên sân thượng, những kẻ ô uế thờ lạy các vì tinh tú trên trời và đổ của lễ quán cho các thần khác.’”14Vậy Giê-rê-mi rời Tô-phết, là nơi Đức Giê-hô-va đã sai đến để nói tiên tri. Ông đứng ở sân nhà Đức Giê-hô-va và nói với toàn thể dân sự,15“Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: ‘Kìa, Ta sẽ khiến thành này và những thành của nó lãnh tai họa mà Ta đã báo trước, vì chúng cứng cổ và không nghe lời Ta.’” 201Pa-su-rơ, con trai thầy tế lễ Y-mê – ông làm quản đốc – nghe lời Giê-rê-mi nói tiên tri trước nhà Đức Giê-hô-va.2Pa-su-rơ đánh tiên tri Giê-rê-mi rồi cùm ông lại ở Thượng Cổng Bên-gia-min trong nhà Đức Giê-hô-va.3Hôm sau, Pa-su-rơ thả Giê-rê-mi ra khỏi cùm. Giê-rê-mi bảo ông: “Đức Giê-hô-va không gọi ông là Pa-su-rơ, nhưng gọi ông là Ma-go Mi-sa-bíp.4Vì Đức Giê-hô-va phán như vầy: ‘Kìa, Ta sẽ khiến ngươi trở nên vật ghê rợn – ngươi và tất cả những người thân yêu của ngươi – vì chúng sẽ ngã bởi gươm của quân thù mình và mắt ngươi sẽ thấy điều đó. Ta sẽ phó cả dân Giu-đa vào tay vua Ba-by-lôn. Hắn sẽ bắt chúng làm phu tù tại Ba-by-lôn hoặc dùng gươm đánh chúng.5Ta sẽ phó cho hắn mọi của cải trong thành này và sự giàu có của nó, tất cả những châu báu và kho tàng của các vua Giu-đa. Chúng sẽ lấy và đem qua Ba-by-lôn.6Nhưng ngươi, Pa-su-rơ, và hết thảy những kẻ trong nhà ngươi sẽ bị bắt làm phu tù. Ngươi sẽ đến Ba-by-lôn rồi chết tại đó. Ngươi và tất cả những người thân thiết của ngươi, là những kẻ mà ngươi đã nói tiên tri dối, sẽ được chôn ở đó.’”7“Lạy Đức Giê-hô-va, Ngài đã thuyết phục con. Con thật sự bị thuyết phục. Ngài bủa vây con và đánh bại con. Con trở thành trò cười. Thiên hạ ngày nào cũng nhạo báng con.8Vì hễ khi nào con nói, con đều kêu to và công bố rằng: ‘Bạo lực và hủy diệt.’ Lời của Đức Giê-hô-va khiến con bị sỉ nhục và nhạo báng hàng ngày.
9Nếu con nói: ‘Con sẽ không nghĩ về Đức Giê-hô-va nữa. Con sẽ không công bố danh Ngài nữa.’ Thì trong lòng con giống như có lửa cháy, thiêu đốt tận trong xương cốt con. Vậy, con gắng sức kiềm chế nhưng không thể. 10Con nghe nhiều người xung quanh đồn đoán về nỗi khiếp sợ. ‘Hãy báo cáo! Chúng ta phải báo cáo!’ Những người ở gần con trông cho con vấp ngã. ‘Có lẽ ông ấy có thể bị chơi khăm. Nếu vậy, chúng ta có thể chế ngự ông ấy và trả thù ông ấy.’
11Nhưng Đức Giê-hô-va ở cạnh con như một chiến sĩ hùng mạnh, những kẻ theo đuổi con sẽ dao động. Chúng sẽ không đánh thắng con. Chúng sẽ xấu hổ lắm, vì chúng sẽ không thành công. Chúng sẽ xấu hổ không thôi, cả đời sẽ không bao giờ quên. 12Nhưng Ngài, lạy Đức Giê-hô-va vạn quân, Ngài là Đấng dò xét người công bình và xem xét tâm trí và lòng người. Xin cho con thấy sự báo thù của Ngài trên chúng vì con đã trình duyên cớ của con cho Ngài.
13Hãy hát cho Đức Giê-hô-va! Hãy ngợi khen Đức Giê-hô-va! Vì Ngài đã giải cứu mạng sống của những người bị áp bức khỏi tay kẻ bất lương. 14Ước gì ngày con sinh ra bị rủa sả. Xin chớ để ngày mẹ con sinh con ra được phước.
15Ước gì người báo tin cho ba con bị rủa sả, đó là người nói rằng: ‘Ông vừa có một đứa con trai,’ khiến ba con vui mừng. 16Ước gì người đó như các thành mà Đức Giê-hô-va đã ném khi Ngài không thương xót. Nguyền cho người đó nghe tiếng kêu cầu giúp đỡ vào lúc bình minh và tiếng kêu xung trận vào ban trưa.
17Nguyền điều này xảy ra, vì Đức Giê-hô-va không giết con từ trong lòng mẹ hoặc để lòng mẹ là mồ chôn con mãi mãi.
18Tại sao con lọt lòng mẹ để gặp khó khăn và khổ cực, đến nỗi các ngày của con đầy tủi nhục?” 211Đây là lời đến từ Đức Chúa Trời phán với Giê-rê-mi khi Vua Sê-đê-kia sai Pa-su-rơ, con trai Manh-ki-gia, và Sô-phô-ni, con trai thầy tế lễ Ma-a-sê-gia đến gặp ông. Họ bảo ông,2“Xin thay mặt chúng tôi cầu vấn Đức Giê-hô-va, vì Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn sẽ đánh chúng tôi. Có thể Đức Giê-hô-va sẽ làm phép lạ cho chúng tôi, như khi trước, và Ngài sẽ khiến vua ấy rút quân khỏi chúng tôi.”3Giê-rê-mi trả lời họ: “Các ông phải nói với Sê-đê-kia như vầy,4‘Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán: Kìa, Ta sẽ khiến các binh khí trong tay ngươi mà ngươi sẽ dùng để đánh vua Ba-by-lôn và người Canh-đê đang bao vây ngươi ngoài thành xoay về phía ngươi! Vì Ta sẽ tập hợp chúng vào giữa thành.5Sau đó, chính Ta sẽ giơ tay và cánh tay mạnh mẽ mà đánh ngươi trong cơn thạnh nộ, giận dữ, và uất khí.6Ta sẽ đánh cư dân thành này, cả con người và thú vật. Chúng sẽ chết bởi một cơn tai họa kinh khiếp.7Sau đó – Đức Giê-hô-va phán như vầy – Sê-đê-kia vua Giu-đa, các quần thần, dân chúng, và bất cứ ai còn sót lại trong thành này sau tai họa, gươm giáo, và nạn đói – Ta sẽ phó chúng vào tay Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn, kẻ thù của chúng, và là những kẻ tìm hại mạng sống chúng. Hắn sẽ giết chúng bằng lưỡi gươm. Hắn sẽ không thương hại chúng, tha cho chúng, hoặc thương xót chúng.’8Kế đến, ngươi hãy nói với dân này: ‘Đức Giê-hô-va phán như vầy: Kìa, Ta sẽ đặt trước mặt ngươi một con đường sống và con đường chết.9Hễ ai ở trong thành này sẽ chết bởi gươm, đói kém, và bệnh dịch; nhưng hễ ai ra ngoài và quỳ gối trước mặt dân Canh-đê là những kẻ bao vây ngươi sẽ sống. Người đó sẽ giữ được mạng mình.10Vì Ta đã xoay mặt nghịch với thành này đặng giáng tai họa, chứ không đem đến điều lành – Đức Giê-hô-va phán vậy. Thành ấy đã bị phó vào tay vua Ba-by-lôn, hắn sẽ phóng hỏa nó.’11Về nhà vua Giu-đa, hãy nghe lời của Đức Giê-hô-va.12Hỡi nhà Đa-vít, Đức Giê-hô-va phán: ‘Mỗi sáng hãy thực thi công lý. Hãy cứu người bị cướp bóc khỏi tay kẻ đàn áp, nếu không cơn thịnh nộ của Ta sẽ nổi phừng. Vì không ai có thể dập tắt được cơn thạnh nộ ấy bởi vì việc ác của các ngươi.13Kìa, hỡi dân trong thung lũng! Ta nghịch lại ngươi, hỡi đá nơi đồng bằng – Đức Giê-hô-va phán vậy – Ta nghịch lại những kẻ nào nói rằng: “Ai sẽ ngự xuống đặng đánh chúng ta?” hoặc “Ai sẽ vào nhà chúng ta?”
14Ta đã ấn định các ngươi sẽ bị phạt vì cớ kết quả việc làm của các ngươi – Đức Giê-hô-va phán vậy – và Ta sẽ châm lửa nơi bụi cây, nó sẽ thiêu đốt mọi thứ xung quanh.’” 221Này là lời Đức Giê-hô-va phán: “Hãy đi xuống nhà của vua Giu-đa và công bố lời này tại đó.2Hãy nói rằng: ‘Hỡi Vua Giu-đa, là người ngồi trên ngai Đa-vít, hãy nghe lời của Đức Giê-hô-va. Và hãy nghe, hỡi các quần thần của ngươi, ngươi, dân ngươi, là những người vào ra các cổng này.3Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Hãy thực thi công lý và sự công bình, hãy cứu người bị cướp bóc khỏi tay kẻ đàn áp. Chớ ngược đãi khách ngoại quốc này trong xứ ngươi, hoặc người mồ côi hoặc góa bụa. Chớ bạo lực hoặc làm đổ máu vô tội ở nơi này.4Vì nếu ngươi thật sự làm những việc này, các vua ngồi trên ngai Đa-vít sẽ cưỡi xe chiến mã và cưỡi ngựa vào các cổng của nhà này, cùng với các quần thần và dân chúng!5Nhưng nếu ngươi không nghe những lời mà Ta đã truyền – Đức Giê-hô-va phán vậy – thì cung điện này sẽ trở nên hoang phế.’”6Đức Giê-hô-va phán về cung điện của vua Giu-đa: ‘Ngươi giống như Ghi-lê-át, hoặc giống với đỉnh núi Li-băng. Nhưng Ta sẽ biến ngươi thành hoang mạc, thành những thành phố không có người ở.7Vì Ta đã sai những kẻ hủy diệt đến với ngươi! Những kẻ cầm vũ khí sẽ chặt những cây tuyết tùng tốt nhất của ngươi và quăng vào lửa. 8Kế đó, nhiều dân sẽ đi ngang qua thành này. Ai nấy sẽ bảo nhau rằng: “Sao Đức Giê-hô-va khiến thành lớn này trở nên như thế?”9Người kia sẽ trả lời: “Vì chúng đã từ bỏ giao ước của Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng và quỳ lạy trước các thần khác và tôn thờ những thần ấy.”10Chớ than khóc cho người chết. Chớ than khóc vì người ấy. Nhưng ngươi hãy than khóc cho những ai bị bắt làm phu tù, vì người đó sẽ không bao giờ trở về và thấy xứ mình đã chôn nhau cắt rốn nữa.’ 11Đức Giê-hô-va phán như vầy về Giê-hô-a-ha con trai Giô-si-a, vua Giu-đa, là người kế vị của Giô-si-a, cha ông ấy: ‘Hắn đã đi khỏi xứ này và sẽ không quay về.12Hắn sẽ chết tại nơi chúng bắt hắn đi lưu đày, hắn sẽ không bao giờ thấy lại xứ này.’13Khốn cho những ai xây nhà mình bằng sự bất chính và xây phòng cao mình bằng sự bất công; khốn cho những ai thuê làm công nhưng không trả tiền.
14Khốn cho những ai nói rằng: ‘Ta sẽ xây nhà cao tầng và phòng cao thoáng đãng, ta sẽ xây nhiều cửa sổ lớn, và cán ô bằng gỗ tuyết tùng, sơn màu đỏ.’ 15Có phải đây là thứ biến ngươi thành một vị vua tốt đến nỗi ngươi muốn có tấm ván bằng gỗ tuyết tùng không? Chẳng phải cha ngươi cũng không ăn uống, nhưng thực thi công lý và điều công chính? Cho nên người được thịnh vượng.
16Người xét xử công minh cho người nghèo và người thiếu thốn. Vì vậy người được mọi điều tốt đẹp. Chẳng phải như vậy có nghĩa là biết Ta sao? – Đức Giê-hô-va phán vậy. 17Nhưng trong mắt ngươi và lòng ngươi chẳng có gì cả ngoại trừ sự lo lắng của ngươi về lợi lộc bất chính và làm đổ huyết vô tội, đàn áp và giày đạp người khác. 18Vì vậy, Đức Giê-hô-va phán về Giê-hô-gia-kim, con Giô-si-a, vua Giu-đa, như vầy: Chúng sẽ không than khóc nó mà nói rằng ‘Than ôi, anh tôi!’ hoặc ‘Than ôi, chị tôi!’ Chúng sẽ không than khóc nó mà nói rằng ‘Than ôi, thầy tôi!’ hoặc ‘Than ôi, bệ hạ tôi!’19Nó sẽ bị chôn như con lừa, bị kéo đi và quăng khỏi cửa thành Giê-ru-sa-lem. 20Hãy lên những ngọn núi Li-băng và kêu la. Hãy cất tiếng kêu lên ở Ba-san. Hãy kêu la từ các ngọn núi A-ba-rim, vì tất cả bạn hữu ngươi sẽ bị hủy diệt.
21Ta đã phán với ngươi khi ngươi được an toàn, nhưng ngươi nói: ‘Tôi sẽ không nghe.’ Đây là tục lệ của ngươi từ khi ngươi còn trẻ, vì ngươi không nghe tiếng Ta. 22Gió sẽ lùa đi mọi người chăn chiên của ngươi, và bạn bè ngươi sẽ bị bắt làm phu tù. Sau đó, chắc chắn ngươi sẽ xấu hổ và bẽ mặt vì tất cả những việc ác của ngươi.
23Hỡi vua, ngươi là người sống trong Nhà ở Rừng Li-băng, ngươi làm tổ giữa những cây tuyết tùng, ngươi sẽ bị thương hại biết bao khi cơn đau quằn quại ập đến ngươi như lúc sinh đẻ.” 24“Thật như Ta hằng sống – Đức Giê-hô-va phán vậy – thậm chí nếu ngươi, Giê-hô-gia-kin, con Giê-hô-gia-kim, vua Giu-đa, là ấn trong tay hữu Ta, Ta sẽ gỡ ngươi ra.25Vì Ta đã phó ngươi vào tay những kẻ tìm mạng sống ngươi và những kẻ mà ngươi sợ hãi, ấy là tay của Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn và người Canh-đê.26Ta sẽ ném ngươi và mẹ ngươi, là người đã sinh ra ngươi, vào xứ mà ngươi chẳng từng được sinh ra. Ngươi sẽ chết tại đó.27Còn về xứ này là xứ chúng muốn trở về, chúng sẽ không trở về nữa.28Có phải đây là bình bị coi khinh và đổ vỡ không? Có phải Giê-hô-gia-kin là chiếc bình mà chẳng ai vừa lòng không? Sao họ ném người và con cháu người ra, và đổ chúng vào xứ mà chúng chẳng biết? 29Hỡi đất, đất, đất! Hãy nghe lời của Đức Giê-hô-va!
30Đức Giê-hô-va phán như vầy: ‘Hãy viết về Giê-hô-gia-kin như vầy: Nó sẽ không có con. Nó sẽ không thịnh vượng trong đời của nó, và không ai trong vòng con cháu nó thành công hoặc ngồi trên ngai Đa-vít và cai trị Giu-đa.’” 231“Khốn thay cho những kẻ chăn hủy diệt và làm tản lạc bầy chiên của đồng cỏ Ta – Đức Giê-hô-va phán vậy.”2Vì thế, Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán về những kẻ chăn đang chăn dắt dân Ngài như vầy: “Các ngươi làm tản lạc bầy chiên Ta và đuổi chúng đi. Các ngươi không chăm sóc chúng. Khá biết điều này! Ta sẽ báo trả ngươi vì việc ác của ngươi – Đức Giê-hô-va phán vậy.3Chính Ta sẽ nhóm chiên còn sót lại của bầy Ta từ mọi nơi mà Ta đã đuổi chúng đến, Ta sẽ đưa chúng trở về nơi đồng cỏ, tại đó chúng sẽ sinh sản và tăng thêm nhiều.4Sau đó, Ta sẽ dấy lên những người chăn chiên, họ sẽ chăn dắt chúng, chúng sẽ không còn sợ hãi hay tản lạc nữa. Sẽ không thiếu một con nào – Đức Giê-hô-va phán vậy.5Kìa, ngày gần đến – Đức Giê-hô-va phán vậy - ấy là ngày mà Ta sẽ dấy lên cho Đa-vít một nhánh công bình. Người sẽ làm vua cai trị; người sẽ đem đến sự thịnh vượng, thực thi công lý và sự công bình trong xứ.6Trong đời của người, Giu-đa sẽ được giải cứu, và Y-sơ-ra-ên sẽ sống yên ổn. Người sẽ được gọi bằng danh này: Đức Giê-hô-va là Sự Công bình của chúng ta. 7Vậy, kìa, các ngày gần đến – Đức Giê-hô-va phán vậy – là ngày mà chúng sẽ không còn nói: ‘Thật như Đức Giê-hô-va hằng sống, Đấng đã đem dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ai Cập.’8Trái lại, chúng sẽ nói: ‘Thật như Đức Giê-hô-va hằng sống, Đấng đã đem lên và dẫn con cháu nhà Y-sơ-ra-ên từ phương bắc và mọi xứ mà chúng đã bị đuổi được trở về.’ Chúng sẽ sống trong xứ mình.”9Về các tiên tri, lòng tôi tan nát trong tôi, xương cốt tôi run rẩy. Tôi trở nên như người say, như người loạng choạng vì rượu, vì cớ Đức Giê-hô-va và lời thánh của Ngài.10Vì đất đầy dẫy kẻ tà dâm. Vì những điều này mà đất than khóc. Đồng cỏ trong hoang mạc thì khô cằn. Đường lối của các tiên tri ấy là xấu xa; sức mạnh của chúng bị sử dụng sai. 11“Vì cả tiên tri và thầy tế lễ đều sa đọa. Thậm chí Ta đã tìm thấy sự gian ác của chúng trong nhà Ta! – Đức Giê-hô-va phán vậy –
12vậy, đường lối chúng sẽ như nơi trơn trợt trong bóng tối. Chúng sẽ bị đẩy xuống. Chúng sẽ té. Vì Ta sẽ giáng tai họa trên chúng vào năm đoán phạt của chúng – Đức Giê-hô-va phán vậy –13vì Ta đã thấy sự gớm ghiếc giữa các tiên tri tại Sa-ma-ri. Chúng nhân danh Ba-anh mà nói tiên tri và dẫn dân Y-sơ-ra-ên của Ta ra khỏi con đường chính đáng.14Và giữa các tiên tri ở Giê-ru-sa-lem, Ta đã thấy những điều kinh khủng: Chúng phạm tội tà dâm và bước theo sự lừa dối. Chúng làm mạnh tay của những kẻ bất lương; không ai từ bỏ việc ác mình. Tất cả chúng đều trở nên như Sô-đôm và cư dân của nó như Gô-mô-rơ!’” 15Vậy, Đức Giê-hô-va vạn quân phán về các tiên tri như vầy: “Kìa, Ta sẽ khiến chúng ăn ngải cứu và uống mật đắng, vì sự sa đọa của chúng ra từ các tiên tri ở Giê-ru-sa-lem đến trong cả xứ.”16Đức Giê-hô-va vạn quân phán vầy: “Chớ nghe lời của các tiên tri nói tiên tri với ngươi. Chúng lừa ngươi! Chúng loan báo về những sự hiện thấy do chính chúng nghĩ ra, chứ không phải bởi miệng Đức Giê-hô-va phán.17Chúng luôn nói với những kẻ bất kính Ta rằng: ‘Đức Giê-hô-va phán rằng anh sẽ có sự bình an.’ Ai nấy đều bước theo sự cứng cỏi trong lòng mình rằng: ‘Tai họa sẽ không đến trên anh đâu.’
18Nhưng ai đứng được trong cuộc họp hội đồng của Đức Giê-hô-va? Ai thấy và nghe lời Ngài? Ai chú ý đến lời Ngài và nghe? 19Kìa, từ Đức Giê-hô-va ra một cơn bão! Cơn giận của Ngài đang toát ra, giông tố đang nổi lên. Gió lốc quanh đầu những kẻ ác.
20Cơn thạnh nộ của Đức Giê-hô-va sẽ không nguôi cho đến khi nó đã thực thi và đem vào lòng những dự định của tấm lòng mình. Trong những ngày sau rốt, ngươi sẽ hiểu điều đó. 21Ta không sai các tiên tri này ra đi. Chúng chỉ xuất hiện. Ta không truyền cho chúng bất cứ điều gì, nhưng chúng vẫn nói tiên tri.
22Vì nếu chúng đứng nơi họp hội đồng của Ta, chúng sẽ khiến dân Ta nghe lời Ta; chúng sẽ khiến dân Ta từ bỏ những lời gian ác và đường dữ việc xấu. 23Ta chỉ là một Đức Chúa Trời ở gần hay sao – Đức Giê-hô-va phán vậy – chứ không phải là Đức Chúa Trời ở xa?
24Ai có thể ẩn mình nơi kín đáo để Ta không thấy? – Đức Giê-hô-va phán vậy – Ta không lấp đầy các từng trời và đất sao? – Đức Giê-hô-va phán vậy. 25Ta đã nghe điều các tiên tri đó nói, những kẻ nhân danh Ta mà tiên tri dối. Chúng nói: ‘Tôi có một giấc mơ! Tôi có một giấc mơ!’26Các tiên tri nói tiên tri dối theo trí mình và theo lòng mình đến khi nào?27Chúng lập mưu khiến dân Ta quên danh Ta bằng những giấc chiêm bao chúng kể lại với mỗi người, như tổ phụ chúng đã quên danh Ta mà chỉ nhớ đến danh Ba-anh.28Tiên tri nào có chiêm bao, hãy để nó kể lại chiêm bao đó. Nhưng người nào được Ta phán truyền, hãy để người công bố lời Ta một cách chân thật. Rơm có liên quan gì với lúa? – Đức Giê-hô-va phán vậy –29lời của Ta không giống như lửa sao? – Đức Giê-hô-va phán vậy – và như búa đập vỡ đá?30Vậy, kìa, Ta nghịch lại các tiên tri này – Đức Giê-hô-va phán vậy – là kẻ nào cướp lời của người khác và nói rằng lời đó đến từ Ta.31Kìa, Ta nghịch lại các tiên tri này – Đức Giê-hô-va phán vậy – tức là những kẻ dùng lưỡi mình nói tiên tri.32Kìa, Ta nghịch lại những tiên tri mơ mộng giả dối – Đức Giê-hô-va phán vậy – chúng công bố những giấc chiêm bao ấy và khiến dân Ta lầm đường lạc lối bằng sự giả dối và khoe khoang của chúng. Ta nghịch lại chúng, vì Ta không sai chúng đi cũng chẳng truyền lệnh cho chúng. Chúng chắc chắn sẽ không giúp dân này – Đức Giê-hô-va phán vậy.33Khi dân này hoặc một tiên tri hoặc một thầy tế lễ hỏi ngươi: ‘Đức Giê-hô-va phán gì?’ thì ngươi phải nói rằng: ‘Lời phán nào chứ? Vì Ta đã bỏ các ngươi’ – Đức Giê-hô-va phán vậy.34Còn các tiên tri, thầy tế lễ, và những ai nói rằng: ‘Này là lời Đức Giê-hô-va phán,’ Ta sẽ phạt người đó và nhà nó.35Mỗi người hãy hỏi người lân cận và anh em mình rằng: ‘Đức Giê-hô-va trả lời thế nào?’ và ‘Đức Giê-hô-va phán gì?’36Nhưng các ngươi không được nói về sự tuyên bố của Đức Giê-hô-va nữa, vì lời tuyên bố từ mỗi người đã trở thành sứ điệp của riêng nó, các ngươi đã xuyên tạc lời của Đức Chúa Trời hằng sống, Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của chúng ta.37Đây là lời các ngươi hỏi tiên tri: ‘Đức Giê-hô-va đã trả lời ông thế nào? Đức Giê-hô-va phán gì?’38Các ngươi thuật lại lời phán của Đức Giê-hô-va, nhưng Đức Giê-hô-va phán như vầy: ‘Các ngươi nói: “Này là lời Đức Giê-hô-va phán,” thậm chí Ta đã ra lệnh cho ngươi và nói rằng: “Chớ nói: Này là lời phán của Đức Giê-hô-va.”39Vì vậy, kìa, Ta sẽ nhặt ngươi lên và quăng ngươi khỏi Ta, cùng với thành mà Ta đã ban cho ngươi và tổ phụ ngươi.
40Ta sẽ khiến ngươi bị xấu hổ và sỉ nhục đời đời không bao giờ quên.’” 241Đức Giê-hô-va cho tôi thấy một vật. Kìa, hai giỏ trái vả được đặt trước đền thờ Đức Giê-hô-va. (Sự hiện thấy này xảy ra khi Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, bắt Giê-hô-gia-kin, con Giê-hô-gia-kim, vua Giu-đa, các quan chức Giu-đa, thợ thủ công và thợ kim khí ra khỏi Giê-ru-sa-lem và đem lưu đày tại Ba-by-lôn.)2Một trong các giỏ trái vả rất tốt, như trái vả đầu mùa, nhưng giỏ trái vả còn lại rất xấu đến nỗi không thể ăn được.3Đức Giê-hô-va phán với tôi: “Giê-rê-mi, ngươi thấy gì?” Tôi trả lời: “Thưa Chúa, con thấy trái vả. Có trái vả ngon và trái vả tệ đến nỗi không thể ăn được.”4Lời của Đức Giê-hô-va đến cùng tôi rằng,5“Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Ta sẽ xem xét những phu tù của Giu-đa vì lợi ích của chúng, như những trái vả tốt này, những phu tù mà Ta đã bắt ra khỏi xứ này và đem vào xứ Canh-đê.6Mắt Ta sẽ trông nom chúng mãi mãi và đem chúng về xứ này. Ta sẽ xây chúng, và không đánh đổ chúng. Ta sẽ trồng chúng và không nhổ chúng.7Ta sẽ ban cho chúng một tấm lòng để nhận biết Ta, vì Ta là Đức Giê-hô-va. Chúng sẽ là dân Ta và Ta sẽ là Đức Chúa Trời của chúng, chúng sẽ trở về bên Ta với trọn tấm lòng.8Nhưng như những trái vả xấu đến nỗi không thể ăn được – Đức Giê-hô-va phán vậy – Ta sẽ làm y như vậy với Sê-đê-kia, vua Giu-đa, cùng với các quan chức của nó, và dân Giê-ru-sa-lem còn sót lại trong xứ này hoặc ở trong xứ Ai Cập.9Ta sẽ biến chúng thành một thứ đáng sợ, một tai họa, trước mặt các vương quốc trên đất, một nỗi hổ thẹn và là một đề tài tục ngữ, lời chế nhạo, và lời nguyền rủa ở mọi nơi mà Ta đuổi chúng đến.10Ta sẽ giáng gươm dao, đói kém, và dịch lệ trên chúng, chúng sẽ bị diệt khỏi xứ mà Ta đã ban cho chúng và tổ phụ chúng.” 251Có lời phán cùng Giê-rê-mi về dân Giu-đa vào năm thứ tư trong đời Giê-hô-gia-kim, con Giô-si-a, vua Giu-đa. Ấy là năm thứ nhất của Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn.2Tiên tri Giê-rê-mi công bố lời này cho toàn dân Giu-đa và cư dân Giê-ru-sa-lem.3Ông nói: “Trong hai mươi ba năm, từ năm thứ mười ba của Giô-si-a, con A-môn, vua Giu-đa, cho đến ngày hôm nay, có lời Đức Giê-hô-va phán cùng tôi. Tôi đã rao báo cho quý vị. Tôi đã thiết tha rao báo lời ấy, nhưng quý vị chẳng lắng nghe.4Đức Giê-hô-va đã sai hết thảy tôi tớ Ngài là các tiên tri đến cùng quý vị. Họ hăm hở ra đi, nhưng quý vị không nghe cũng không chú ý.5Các tiên tri ấy nói rằng: ‘Ai nấy hãy từ bỏ đường lối gian ác mình và sự sai lạc trong việc làm và trở về xứ mà Đức Giê-hô-va đã ban cho ngươi và tổ phụ ngươi trong thời xưa, như một món quà đời đời.6Vậy, chớ bước theo các thần khác đặng thờ chúng hoặc quỳ lạy chúng, và chớ khiêu khích Ngài bằng công việc của tay mình kẻo Ngài làm hại ngươi.’7Nhưng ngươi chẳng nghe Ta – Đức Giê-hô-va phán vậy – ngươi đã khiêu khích Ta bằng công việc của tay ngươi, khiến Ta làm hại ngươi.8Vậy, Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: ‘Vì ngươi không nghe lời Ta,9kìa, Ta sẽ ra lệnh nhóm lại mọi dân từ phương bắc – Đức Giê-hô-va phán vậy – với tôi tớ Ta là Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, và đem chúng đến nghịch cùng xứ này và cư dân nó, và nghịch cùng mọi nước xung quanh ngươi. Vì Ta sẽ để riêng chúng cho sự hủy diệt. Ta sẽ biến chúng thành một điều kinh khủng, một đối tượng bị huýt sáo cười chê, và một sự tan hoang không hề dứt.10Tiếng của sự vui mừng và vui vẻ - tiếng của chàng rể và nàng dâu, tiếng của cối xay và ánh đèn – Ta sẽ khiến hết thảy những điều này biến mất khỏi các nước ấy.11Sau đó, cả xứ này sẽ trở nên hoang vu và sự kinh khiếp, và các nước này sẽ phục vụ vua Ba-by-lôn trong bảy mươi năm.12Sau khi đã mãn bảy mươi năm, Ta sẽ phạt vua Ba-by-lôn và nước đó, là xứ của dân Canh-đê – Đức Giê-hô-va phán vậy – vì tội ác của chúng và khiến nó thành một nơi hoang vu đời đời.13Ta sẽ thực thi mọi lời mà Ta đã phán nghịch cùng xứ đó, và mọi thứ được viết trong quyển sách này, là sách Giê-rê-mi đã nói tiên tri về tất cả các nước.14Các nước khác và vua lớn khác sẽ bắt các nước này làm tôi mọi. Ta sẽ báo trả chúng vì việc làm và việc của tay chúng.’”15Vì Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán với tôi như vầy: “Hãy lấy chén rượu thạnh nộ này từ tay Ta và cho các dân mà Ta sai ngươi đến uống nó.16Chúng sẽ uống và vấp ngã và nói huênh hoang một cách điên rồ trước gươm mà Ta sẽ sai đến giữa chúng.”17Vậy, tôi lấy chén từ tay Đức Giê-hô-va, và tôi cho tất cả các nước mà Đức Giê-hô-va sai tôi đến uống nó –18Giê-ru-sa-lem, các thành của Giu-đa cùng các vua và quan chức của nó – biến chúng thành những nơi điêu tàn và một điều kinh hãi, một đối tượng bị huýt sáo chê cười và rủa sả, như đến ngày hôm nay.19Các dân khác cũng phải uống nó: Pha-ra-ôn, vua Ai Cập, và các quần thần của ông ấy; các quan chức và dân chúng của ông ấy;20tất cả các dân hỗn tạp và các vua xứ U-xơ; tất cả các vua ở xứ Phi-li-tin – Ách-kê-lôn, Ga-xa, Éc-rôn, và những người còn lại của Ách-đốt;21Ê-đôm và Mô-áp cùng dân Am-môn;22các vua Ty-rơ và Si-đôn; các vua vùng duyên hải ở phía bên kia biển;23Đê-đan, Tê-ma, và Bu-xơ cùng với những người cắt tóc ở hai bên đầu.24Những người này cũng phải uống chén ấy; tất cả các vua A-ra-bi và vua của dân hỗn tạp sống trong hoang mạc;25tất cả các vua Xim-ri, các vua Ê-lam, và mọi vua ở Mê-đi;26tất cả các vua phương bắc, những vua ở gần và ở xa – mỗi người cùng với anh em mình và tất cả các vương quốc trên thế giới. Cuối cùng, vua Ba-by-lôn sẽ uống sau chúng.27Đức Giê-hô-va phán cùng tôi: “Bây giờ ngươi phải nói với chúng: ‘Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Hãy uống và say, mửa, ngã xuống, và đừng đứng dậy trước gươm mà Ta sẽ sai đến giữa ngươi.’28Sau đó nếu chúng từ chối uống chén từ tay ngươi, hãy nói với chúng: ‘Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Ngươi chắc chắn phải uống chén ấy.29Vì kìa, Ta sẽ giáng tai họa trên thành này là thành được xưng bằng danh Ta, chính các ngươi sẽ được thoát khỏi sự trừng phạt sao? Các ngươi sẽ không thoát đâu, vì Ta sẽ gọi gươm đến nghịch cùng mọi dân cư trên đất! Đức Giê-hô-va vạn quân phán vậy.’30Vậy, Giê-rê-mi, ngươi phải nói tiên tri với chúng về những lời này. Ngươi phải nói rằng: ‘Đức Giê-hô-va gầm thét từ trên cao và cất tiếng Ngài từ nơi ngự thánh của Ngài. Ngài gầm nghịch lại nơi ngự của Ngài; Ngài la nghịch lại mọi dân cư trên đất, như người ta hát khi đạp trái nho.31Có tiếng vang ra đến tận cùng đất, vì sự tranh cạnh từ Đức Giê-hô-va sẽ tố các dân. Ngài sẽ thực thi công lý đối với mọi loài xác thịt. Ngài sẽ phó kẻ ác cho gươm – Đức Giê-hô-va phán vậy. 32’Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: ‘Kìa, tai vạ sẽ đi từ dân này qua dân kia, một cơn bão lớn sẽ nổi lên từ những nơi xa nhất trên đất.33Trong ngày đó, những kẻ bị Đức Giê-hô-va giết sẽ đầy từ góc này đến góc kia trên đất; chúng sẽ không được than khóc, thu gom, hoặc chôn. Chúng sẽ như phân trên đất. 34Hãy than khóc, hỡi những kẻ chăn chiên, hãy kêu cầu giúp đỡ! Hãy nằm lăn trên đất, hỡi những người đè đầu cưỡi cổ đàn chiên. Vì ngày ngươi bị giết và tản lạc đã đến. Ngươi sẽ ngã như chiên đực được chọn.
35Nơi ẩn náu dành cho kẻ chăn không còn nữa. Không có chỗ thoát cho những kẻ oai vệ trong bầy.
36Có những tiếng kêu đau buồn của những kẻ chăn bầy và tiếng than khóc của những kẻ oai vệ trong bầy chiên, vì Đức Giê-hô-va sẽ phá hoang đồng cỏ của họ. 37Các đồng cỏ yên bình sẽ bị phá hoang vì cơn thạnh nộ của Đức Giê-hô-va.
38Như sư tử con, nó rời khỏi chuồng, vì xứ của nó sẽ trở thành điều kinh khiếp bởi cơn giận đè nén và cơn thạnh nộ của nó.’” 261Vào đầu triều đại của Giê-hô-gia-kim, con Giô-si-a, vua Giu-đa, có lời Đức Giê-hô-va phán,2“Đức Giê-hô-va phán như vầy: Hãy đứng ở sân nơi nhà Ta và nói về hết thảy dân chúng từ các thành của Giu-đa là những người đến tôn thờ Ta trong nhà Ta. Hãy công bố mọi lời Ta đã truyền ngươi nói với chúng. Chớ bỏ một từ nào!3Có lẽ chúng sẽ nghe, ai nấy sẽ từ bỏ đường lối gian ác mình, Ta sẽ bớt nghiêm khắc về tai họa mà Ta định sẽ giáng xuống vì cớ những việc ác của chúng.4Vậy, ngươi phải nói với chúng rằng: ‘Đức Giê-hô-va phán như vầy: Nếu các ngươi không nghe Ta đặng bước đi trong luật pháp mà Ta đã đặt trước mặt các ngươi –5nếu các ngươi không nghe lời của tôi tớ Ta là các tiên tri do Ta liên tục sai đến – nhưng các ngươi không nghe! –6Ta sẽ khiến nhà này trở nên như Si-lô; Ta sẽ biến thành này thành vật đáng nguyền rủa trước mặt mọi dân trên đất.’”7Các thầy tế lễ, tiên tri, và toàn thể dân sự nghe Giê-rê-mi loan báo những lời này trong nhà Đức Giê-hô-va.8Sau khi Giê-rê-mi đã loan báo xong mọi lời Đức Giê-hô-va truyền cho người phải nói với dân sự, các thầy tế lễ, tiên tri, và hết thảy dân chúng đều bao vây ông và nói: “Ông chắc sẽ chết!9Sao ông nhân danh Đức Giê-hô-va mà nói tiên tri và nói rằng nhà này sẽ trở nên như Si-lô và thành này sẽ trở nên hoang vu, không có người ở?” Tất cả dân sự đều vây quanh Giê-rê-mi trong nhà Đức Giê-hô-va.10Khi đó, các quan chức Giu-đa nghe những lời này và rời khỏi cung vua để đến nhà Đức Giê-hô-va. Họ ngồi ở cổng nơi Cổng Mới của nhà Đức Giê-hô-va.11Các thầy tế lễ và tiên tri nói với các quan chức và toàn thể dân sự. Họ nói: “Tên này thật đáng chết, vì hắn đã nói tiên tri nghịch lại thành này, như chính tai các ông đã nghe!”12Vậy, Giê-rê-mi nói với tất cả quan chức và dân sự rằng: “Đức Giê-hô-va đã sai tôi đi ra nói tiên tri nghịch lại nhà này và thành này, nói mọi lời mà quý vị đã nghe.13Vậy bây giờ, hãy cải thiện đường lối và việc làm của quý vị, và hãy lắng nghe tiếng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời quý vị, hầu cho Ngài sẽ bớt nghiêm khắc về tai họa mà Ngài đã công bố nghịch lại quý vị.14Còn chính tôi – này – tôi đang ở trong tay quý vị. Quý vị muốn làm gì với tôi thì làm miễn là quý vị vừa lòng.15Nhưng quý vị phải biết chắc rằng nếu quý vị giết tôi, quý vị sẽ khiến huyết vô tội đổ lại trên đầu quý vị, trên thành này và dân cư nó, vì Đức Giê-hô-va thật đã sai tôi đến công bố mọi lời này bên tai quý vị.”16Sau đó, các quan chức và toàn thể dân sự nói với các thầy tế lễ và tiên tri: “Tên này không đáng chết, vì hắn nhân danh Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta mà công bố những lời ấy về chúng ta.”17Vậy, các trưởng lão trong xứ đứng lên và nói cùng toàn thể hội chúng.18Họ nói: “Mi-chê người Mô-rê-sết đã nói tiên tri trong đời Ê-xê-chia, vua Giu-đa. Người nói với toàn thể dân Giu-đa rằng: ‘Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Si-ôn sẽ bị cày xới như đồng ruộng, Giê-ru-sa-lem sẽ trở thành đống gạch vụn, và ngọn núi có đền thờ này sẽ biến thành đồi đầy bụi cây.’19Có phải Ê-xê-chia vua Giu-đa và tất cả người Giu-đa xử tử ông ấy không? Ông ấy không kính sợ Đức Giê-hô-va và cầu xin Đức Giê-hô-va thương xót để Ngài bớt nghiêm khắc về tai họa mà Ngài định giáng trên họ sao? Vậy chúng ta sẽ làm điều ác nhiều hơn trong đời mình sao?”20Trong lúc đó, có một người khác nhân danh Đức Giê-hô-va nói tiên tri – U-ri-a con Sê-ma-gia đến từ Ki-ri-át Giê-a-rim – ông cũng nói tiên tri nghịch lại thành này và xứ này, y theo những lời của Giê-rê-mi.21Nhưng khi Vua Giê-hô-gia-kim và quân lính cùng các quan chức nghe lời của ông, vua cố giết ông, nhưng U-ri-a biết tin và sợ hãi, ông chạy trốn qua xứ Ai Cập.22Tuy nhiên, Vua Giê-hô-gia-kim sai người đến Ai Cập – gồm Ên-na-than, con Ách-bô, và những người khác đi cùng ông đến Ai Cập.23Họ bắt U-ri-a ở ai Cập và dẫn về cho Vua Giê-hô-gia-kim. Sau đó, Giê-hô-gia-kim lấy gươm giết ông và ném thi hài của ông trên mộ của thường dân.24Nhưng A-hi-cam con trai Sa-phan ra tay bênh vực Giê-rê-mi, vì vậy ông không bị phó vào tay dân sự đặng tử hình ông. 271Vào đầu triều đại của Giê-hô-gia-kim, con Giô-si-a, vua Giu-đa, có lời Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi.2Này là lời Đức Giê-hô-va phán cùng tôi: “Hãy làm cùm và ách cho chính ngươi. Hãy đặt lên cổ ngươi.3Sau đó, gửi chúng cho vua Ê-đôm, vua Mô-áp, vua dân Am-môn, vua Ty-rơ, và vua Si-đôn. Hãy gửi qua tay các sứ thần của các vua ấy là những người đến Giê-ru-sa-lem để chầu Sê-đê-kia, vua Giu-đa.4Hãy dặn họ tâu với chủ họ rằng: ‘Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Này là lời các ngươi phải nói cùng chủ mình,5“Chính Ta đã dựng nên đất này bằng sức mạnh và cánh tay giang ra của Ta. Ta cũng dựng nên loài người và muông thú trên đất, và Ta ban nó cho ai tùy ý Ta.6Vậy bây giờ, chính Ta sẽ phó những xứ này vào tay Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, tôi tớ Ta. Ngoài ra, Ta cũng phó những vật sống ngoài đồng vào tay nó để phục vụ nó.7Vì mọi dân sẽ phục vụ nó, con trai nó, và các cháu trai nó cho đến thời điểm của nước nó. Sau đó, mọi nước và vua lớn sẽ phục nó.8Vậy, dân nào và vương quốc nào không phục vụ Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, và không đeo ách của vua Ba-by-lôn vào cổ mình – Ta sẽ phạt dân đó bằng gươm, đói kém, và dịch lệ - Đức Giê-hô-va phán vậy – cho đến khi Ta dùng tay nó hủy diệt chúng.9Còn ngươi! Chớ nghe các tiên tri, những kẻ bói toán, kẻ bàn mộng, thầy bói, và phù thủy là những kẻ nói cùng ngươi rằng: ‘Đừng phục vụ vua Ba-by-lôn.’10Vì chúng nói tiên tri dối cùng ngươi để ngươi rời xa khỏi xứ mình, vì Ta sẽ đuổi ngươi đi, rồi ngươi sẽ chết.11Nhưng dân nào đặt cổ mình dưới ách vua Ba-by-lôn và phục vụ nó, Ta sẽ cho dân đó yên nghỉ trong xứ ấy – Đức Giê-hô-va phán vậy – chúng sẽ vun trồng và xây nhà ở đó.”’”12Vậy, tôi tâu với Sê-đê-kia vua Giu-đa và rao sứ điệp này: “Xin hãy đặt cổ bệ hạ dưới ách vua Ba-by-lôn và phục vụ người cùng dân của người, bệ hạ sẽ sống.13Sao bệ hạ và dân của bệ hạ chết bởi gươm, đói kém, và dịch lệ, như tôi đã công bố về dân từ chối phục vụ vua Ba-by-lôn?14Xin chớ nghe lời của những tiên tri nói với bệ hạ rằng: ‘Xin đừng phục vụ vua Ba-by-lôn,’ vì họ nói tiên tri dối cùng bệ hạ.15‘Vì Ta đã chẳng sai chúng – Đức Giê-hô-va phán vậy – chúng nhân danh Ta mà nói tiên tri dối để Ta đuổi ngươi đi và ngươi sẽ chết, nghĩa là ngươi và các tiên tri đang nói tiên tri cùng ngươi.’”16Tôi công bố với các thầy tế lễ và toàn dân sự rằng: “Đức Giê-hô-va phán như vầy: Chớ nghe lời của những tiên tri nói tiên tri cùng các ngươi rằng: ‘Kìa! Các vật trong nhà Đức Giê-hô-va sẽ sẽ được trả về từ Ba-by-lôn!’ Chúng nói tiên tri dối cùng các ngươi.17Chớ nghe chúng. Ngươi nên phục vụ vua Ba-by-lôn và sẽ được sống. Sao thành này trở thành nơi đổ nát?18Nếu chúng là tiên tri, và nếu lời của Đức Giê-hô-va thật sự đến với chúng, hãy để chúng nài xin Đức Giê-hô-va vạn quân đừng phó vào Ba-by-lôn những vật còn lại trong nhà Ngài, trong cung vua Giu-đa, và Giê-ru-sa-lem.19Vì Đức Giê-hô-va vạn quân sẽ công bố về các trụ, biển, đế tảng, và những vật còn lại trong thành này –20là những vật mà Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, không đem đi khi nó bắt Giê-hô-gia-kin, con Giê-hô-gia-kim, vua Giu-đa, ra khỏi Giê-ru-sa-lem để làm phu tù ở Ba-by-lôn cùng với tất cả các quý tộc của Giu-đa và Giê-ru-sa-lem.21Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy về những vật còn lại trong nhà Đức Giê-hô-va, cung vua Giu-đa, và Giê-ru-sa-lem,22‘Chúng sẽ bị đem qua Ba-by-lôn, và chúng sẽ được để lại đó cho đến ngày Ta để ý đến chúng – Đức Giê-hô-va phán vậy – sau đó Ta sẽ đem chúng trở về và đặt lại trong nơi này.’” 281Trong năm đó, vào đầu triều đại của Sê-đê-kia, vua Giu-đa, nhằm năm thứ tư và tháng thứ năm, Ha-na-nia, con của tiên tri A-xua ở Ghi-bê-ôn, nói với tôi trong nhà Đức Giê-hô-va trước mặt các thầy tế lễ và toàn thể dân sự. Ông ấy nói,2“Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Ta đã bẻ ách do vua Ba-by-lôn đặt.3Trong vòng hai năm, Ta sẽ đem về nơi này mọi vật dụng của nhà Đức Giê-hô-va mà Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn đã lấy khỏi nơi đây và đem đến Ba-by-lôn.4Sau đó, Ta sẽ đem Giê-hô-gia-kin, con Giê-hô-gia-kim, vua Giu-đa, và tất cả phu tù Giu-đa đã bị bắt qua Ba-by-lôn về đây – Đức Giê-hô-va phán vậy – vì Ta sẽ bẻ ách của vua Ba-by-lôn.”5Vậy, tiên tri Giê-rê-mi nói với tiên tri Ha-na-nia trước mặt các thầy tế lễ và toàn thể dân sự đang đứng nơi nhà Đức Giê-hô-va.6Tiên tri Giê-rê-mi nói: “Nguyện Đức Giê-hô-va làm điều này! Nguyện Đức Giê-hô-va chứng thực lời mà ông đã nói tiên tri và đem về nơi này những vật dụng của nhà Đức Giê-hô-va, cùng tất cả các phu tù từ Ba-by-lôn.7Tuy nhiên, ông và tất cả mọi người ở đây hãy nghe lời mà tôi sẽ công bố.8Các tiên tri sống trước tôi và ông từ thời xưa cũng đã nói tiên tri về nhiều dân và nghịch lại các nước lớn, về chiến tranh, đói kém, và dịch lệ.9Vậy, tiên tri này nói tiên tri rằng sẽ có hòa bình – nếu lời của người là thật, thì hãy biết rằng đó thật là tiên tri do Đức Giê-hô-va sai đến.”10Nhưng tiên tri Ha-na-nia cất cái ách khỏi cổ tiên tri Giê-rê-mi và bẻ nó.11Sau đó, Ha-na-nia nói trước mặt toàn thể dân sự: “Đức Giê-hô-va phán như vầy: Cũng vậy, trong vòng hai năm, Ta sẽ bẻ ách của Nê-bu-ca-nết-sa, vua Ba-by-lôn, khỏi cổ từng dân.” Tiên tri Giê-rê-mi bỏ đi.12Sau khi tiên tri Ha-na-nia đã bẻ ách khỏi cổ tiên tri Giê-rê-mi, Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi rằng,13“Hãy đi đến nói với Ha-na-nia rằng: ‘Đức Giê-hô-va phán như vầy: Ngươi đã bẻ ách bằng gỗ, nhưng Ta sẽ làm một ách bằng sắt.’14Vì Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Ta đã đặt một ách bằng sắt trên cổ tất cả các dân này để chúng phục vụ Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, và chúng sẽ phục vụ nó. Ta cũng đã phó cho nó những thú hoang ngoài đồng đặng cai trị.15Kế đó, tiên tri Giê-rê-mi nói với tiên tri Ha-na-nia: “Hỡi Ha-na-nia, hãy nghe! Đức Giê-hô-va không sai ông đi, nhưng chính ông đã khiến dân này tin vào những lời nói dối.16Vậy Đức Giê-hô-va phán như vầy: Kìa, Ta sẽ đuổi ngươi khỏi mặt đất. Năm nay ngươi sẽ chết, vì ngươi tuyên bố chống nghịch Đức Giê-hô-va.”17Và tiên tri Ha-na-nia chết vào tháng bảy trong cùng năm đó. 291Đây là lời trong cuộn giấy mà tiên tri Giê-rê-mi từ Giê-ru-sa-lem gửi cho các trưởng lão còn sót lại giữa những phu tù và cho các thầy tế lễ, tiên tri, và hết thảy những người mà Nê-bu-cát-nết-sa đã lưu đày từ Giê-ru-sa-lem đến Ba-by-lôn.2Sứ điệp này được ban ra sau khi vua Giê-hô-gia-kin, mẫu hậu, và các quan chức cấp cao, các lãnh đạo Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, và những thợ thủ công đã rời khỏi Giê-ru-sa-lem.3Ông gửi cuộn giấy này qua tay Ê-la-sa, con Sa-phan, và Ghê-ma-ri con Hinh-kia, là người mà Sê-đê-kia, vua Giu-đa, đã sai đến chầu Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn.4Cuộn giấy có nội dung như sau: “Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán với tất cả các phu tù mà Ta đã khiến bị lưu đày từ Giê-ru-sa-lem đến Ba-by-lôn như vầy,5‘Hãy xây nhà và sống tại đó. Hãy lập nên những khu vườn và ăn trái của chúng.6Hãy cưới vợ và sinh con trai con gái. Sau đó hãy dựng vợ gả chồng cho con trai con gái các ngươi. Hãy cho chúng sinh con trai con gái và gia tăng dân số để các ngươi ngày càng đông hơn.7Hãy tìm kiếm sự bình an của thành mà Ta đã khiến các ngươi bị lưu đày, và hãy vì nó mà cầu khẩn Ta vì các ngươi sẽ có sự bình an nếu thành ấy yên ổn.’8Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: ‘Chớ để các tiên tri giữa vòng các ngươi và thầy bói lừa gạt các ngươi, chớ nghe theo những giấc mộng mà các ngươi thấy.9Vì chúng nhân danh Ta nói tiên tri dối cùng các ngươi. Ta chẳng hề sai chúng đi – Đức Giê-hô-va phán vậy.’10Đức Giê-hô-va phán như vầy: ‘Khi Ba-by-lôn đã cai trị các ngươi được bảy mươi năm, Ta sẽ giúp các ngươi và thực hiện lời tốt lành của Ta dành cho các ngươi đặng đem các ngươi về nơi này.11Vì chính Ta biết kế hoạch Ta dành cho các ngươi – Đức Giê-hô-va phán vậy – là những kế hoạch làm cho các ngươi được bình an chứ không phải tai họa, và đem đến cho các ngươi một tương lai và niềm hy vọng.12Sau đó, các ngươi sẽ kêu cầu Ta, và đến cầu nguyện với Ta, Ta sẽ nghe các ngươi.13Các ngươi sẽ tìm kiếm Ta và gặp được Ta, vì các ngươi hết lòng tìm kiếm Ta.14Các ngươi sẽ tìm được Ta – Đức Giê-hô-va phán vậy – Ta sẽ phục hồi sự thịnh vượng của các ngươi; Ta sẽ nhóm các ngươi lại từ mọi nước và mọi nơi mà Ta đã khiến các ngươi bị lưu đày.’15Vì ngươi nói rằng Đức Giê-hô-va đã dấy lên các tiên tri cho chúng ta tại Ba-by-lôn,16Đức Giê-hô-va phán như vầy cho vua ngồi trên ngai Đa-vít và cho toàn thể dân chúng trong thành đó, là những anh em của các ngươi, tức những người chưa bị bắt làm phu tù với các ngươi –17Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: ‘Kìa, Ta sẽ sai gươm, nạn đói, và bệnh dịch đến trên chúng. Ta sẽ khiến chúng như trái vả thối rữa đến nỗi chẳng ăn được.18Ta sẽ đuổi theo chúng bằng gươm, nạn đói, dịch lệ và biến chúng thành một chứng tích kinh hoàng cho mọi vương quốc trên đất – một sự kinh khiếp, một đối tượng bị rủa sả và huýt sáo gièm chê, và một thứ ô nhục giữa các nước mà Ta đuổi đến.19Ấy là bởi vì chúng không nghe lời Ta – Đức Giê-hô-va phán vậy – là lời mà Ta đã phán qua các tôi tớ Ta là những tiên tri. Ta đã liên tiếp sai họ đến, nhưng các ngươi không nghe – Đức Giê-hô-va phán vậy.’20Vậy, xin quý vị hãy lắng nghe lời của Đức Giê-hô-va, hỡi những người bị lưu đày từ Giê-ru-sa-lem đến Ba-by-lôn,21‘Ta, Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy về A-háp con Cô-la-gia, và Sê-đê-kia, con Ma-a-sê-gia, là kẻ nhân danh Ta mà nói tiên tri dối cùng các ngươi: Kìa, Ta sẽ phó chúng vào tay Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn. Nó sẽ giết chúng trước mặt các ngươi.22Các phu tù Giu-đa ở Ba-by-lôn sẽ rủa sả những kẻ này. Họ sẽ rủa rằng: Nguyện Đức Giê-hô-va khiến ngươi như Sê-đê-kia và A-háp, là người mà vua Ba-by-lôn đem quay trên lửa.23Việc này sẽ xảy đến vì cớ những việc đáng xấu hổ mà chúng đã làm tại Y-sơ-ra-ên khi chúng phạm tội tà dâm với vợ của kẻ lân cận mình và nhân danh Ta nói những lời giả dối, là những lời mà Ta chẳng bao giờ truyền cho chúng nói. Vì Ta là Đấng biết rõ; Ta là Đấng chứng kiến – Đức Giê-hô-va phán vậy.’”24“Còn về Sê-ma-gia người Nê-hê-lam, hãy nói như vầy,25‘Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Vì ngươi đã dùng danh mình mà gửi thư cho toàn thể dân chúng tại Giê-ru-sa-lem, cho Sô-phô-ni con thầy tế lễ Ma-a-sê-gia, và cho tất cả các thầy tế lễ, rằng:26“Đức Giê-hô-va đã lập ông làm thầy tế lễ thay cho thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa, để coi sóc nhà Đức Giê-hô-va. Ông sẽ kiểm soát những ai điên dại tự xưng mình là tiên tri. Ông phải lấy xiềng xích cùm họ lại.27Vậy bây giờ, sao ngươi không quở trách Giê-rê-mi người A-na-tốt, là người đã tự xưng là tiên tri nghịch lại cùng ngươi?28Vì người đã gửi thư cho chúng ta tại Ba-by-lôn và nói rằng: ‘Sẽ lâu lắm đây. Hãy xây nhà và ở đó, hãy trồng cây trong vườn và ăn trái của chúng.”’”29Thầy tế lễ Sô-phô-ni đọc thư này trước mặt tiên tri Giê-rê-mi.30Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi rằng,31“Hãy rao tin cho tất cả những người lưu đày và nói rằng: ‘Đức Giê-hô-va phán về Sê-ma-gia người Nê-hê-lam như vầy: Vì Sê-ma-gia đã nói tiên tri cùng các ngươi khi Ta chẳng sai nó đến; vì nó dẫn dụ các ngươi tin những lời giả dối,32do đó, Đức Giê-hô-va phán như vầy: Kìa, Ta sẽ phạt Sê-ma-gia người Nê-hê-lam cùng con cháu nó. Sẽ chẳng có ai trong dòng dõi nó được ở trong dân này. Nó sẽ chẳng thấy điều tốt lành mà Ta sẽ làm cho dân Ta – Đức Giê-hô-va phán vậy – vì nó công bố điều xảo trá nghịch lại Ta, Đức Giê-hô-va.’” 301Đây là lời Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi,2“Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: ‘Hãy viết lên một cuộn giấy mọi lời mà Ta đã truyền cho ngươi.3Vì kìa, những ngày gần đến – Đức Giê-hô-va phán vậy – là những ngày mà Ta sẽ phục hồi sự thịnh vượng của dân Ta, là Y-sơ-ra-ên và Giu-đa. Ta, Đức Giê-hô-va, đã phán như vậy. Ta sẽ đem chúng trở về xứ mà Ta đã ban cho tổ phụ chúng, chúng sẽ ở trong xứ ấy.’”4Đây là những lời Đức Giê-hô-va phán về Y-sơ-ra-ên và Giu-đa,5“Đức Giê-hô-va phán như vầy: ‘Chúng ta có nghe tiếng run rẩy của sự khiếp sợ chứ chẳng phải sự bình an.6Hãy hỏi và xem thử người đàn ông có sinh đẻ không. Tại sao Ta thấy đàn ông trai tráng lấy tay ôm thắt lưng họ? Giống như đàn bà sinh đẻ, sao mặt họ tái nhợt?
7Thật khốn thay! Vì ngày đó sẽ lớn lắm, đến nỗi chẳng có ngày nào giống như vậy. Ấy sẽ là khoảng thời gian khoắc khoải của Gia-cốp, nhưng nó sẽ được cứu khỏi sự ấy. 8Trong ngày đó – Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy – Ta sẽ bẻ ách khỏi cổ ngươi, Ta sẽ đập vỡ xiềng xích ngươi, người ngoại quốc sẽ không còn bắt ngươi làm nô lệ nữa.
9Nhưng chúng sẽ tôn thờ Giê-hô-va Đức Chúa Trời và phục vụ Đa-vít, vua của chúng, là người mà Ta sẽ lập làm vua cai trị chúng. 10Vậy ngươi, hỡi Gia-cốp tôi tớ Ta, chớ sợ hãi – Đức Giê-hô-va phán vậy – và chớ mất can đảm, hỡi Y-sơ-ra-ên. Vì kìa, Ta sẽ đem ngươi từ nơi phương xa trở về, và con cháu ngươi từ xứ phu tù. Gia-cốp sẽ trở về và sống bình an; nó sẽ được yên ninh và sẽ không còn khiếp sợ nữa.
11Vì Ta ở với ngươi – Đức Giê-hô-va phán vậy – đặng giải cứu ngươi. Sau đó, Ta sẽ tiêu diệt hoàn toàn những nước mà Ta đã đuổi ngươi đến. Nhưng chắc chắn Ta sẽ không diệt ngươi, dù Ta kỷ luật ngươi công minh và Ta chắc chắn sẽ không để ngươi khỏi bị hình phạt.’ 12Đức Giê-hô-va phán như vầy: ‘Vết thương của ngươi không thể chữa được; thương tích của ngươi bị nhiễm độc.13Không ai bênh vực cho hoàn cảnh của ngươi; không thuốc nào để nào chữa lành vết thương ngươi. 14Tất cả người tình của ngươi đều đã quên ngươi. Chúng sẽ không tìm kiếm ngươi, vì Ta đã khiến ngươi bị thương bằng thương tích của kẻ thù và sự kỷ luật của kẻ hung ác bởi cớ những điều trái với đạo lý và vô số tội lỗi của ngươi.
15Sao ngươi kêu cầu giúp đỡ vì vết thương ngươi? Sự đau đớn ngươi vô phương cứu chữa. Vì cớ những điều trái đạo lý và vô số tội lỗi của ngươi, Ta đã giáng những việc này trên ngươi. 16Vậy, ai thiêu nuốt ngươi sẽ bị thiêu nuốt, hết thảy kẻ thù của ngươi sẽ bị bắt làm phu tù. Kẻ nào cướp bóc ngươi sẽ bị cướp bóc, và Ta sẽ khiến mọi kẻ cướp đoạt ngươi trở nên của cướp.
17Ta sẽ chữa lành ngươi; Ta sẽ chữa lành thương tích ngươi – Đức Giê-hô-va phán vậy – Ta sẽ làm như vậy vì chúng gọi ngươi là Kẻ bị ruồng bỏ. Không ai ngó ngàng đến Si-ôn.’” 18Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Kìa, Ta sẽ phục hồi sự thịnh vượng của các lều Gia-cốp và thương xót nhà của nó. Một thành phố sẽ được xây trên đống hoang tàn, một đồn lũy sẽ lại tồn tại ở nơi nó từng tồn tại.19Chúng sẽ hát bài ca ngợi khen và cất tiếng vui vẻ, vì Ta sẽ khiến chúng gia tăng dân số chứ không giảm trừ nữa; Ta sẽ cho chúng được tôn trọng, chúng sẽ không bị hạ thấp. 20Dân của chúng sẽ giống như trước, và hội chúng của chúng sẽ được lập trước mặt Ta khi Ta trừng phạt những kẻ hiện giờ đang hành khổ chúng.
21Người lãnh đạo của chúng sẽ ra từ giữa chúng. Người sẽ hiện ra từ giữa chúng khi Ta kéo người đến gần và khi người đến gần Ta. Nếu Ta không làm vậy, ai dám đến gần Ta? – Đức Giê-hô-va phán vậy.
22Ngươi sẽ là dân Ta, và Ta sẽ là Đức Chúa Trời của ngươi. 23Kìa, giông tố của Đức Giê-hô-va, cơn thịnh nộ của Ngài, đã nổi lên. Đấy là cơn giông tố triền miên. Nó xoáy trên đầu của kẻ ác.
24Cơn thạnh nộ của Đức Giê-hô-va sẽ không nguôi cho đến khi Ngài đã thực thi và hoàn thành điều lòng Ngài đã định. Trong những ngày sau rốt, ngươi sẽ hiểu điều ấy.” 311“Khi ấy – Đức Giê-hô-va phán như vầy – Ta sẽ là Đức Chúa Trời của tất cả các thị tộc Y-sơ-ra-ên, chúng sẽ là dân Ta.”2Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Dân đã thoát khỏi sự tàn sát của lưỡi gươm, tức là Y-sơ-ra-ên, đã tìm được ân huệ trong hoang mạc này.”3Đức Giê-hô-va đã hiện ra với tôi trong thuở xưa và phán: “Hỡi Y-sơ-ra-ên, Ta đã yêu ngươi bằng một tình yêu đời đời. Ta đã kéo ngươi đến với Ta bằng sự thành tín theo giao ước.4Ta sẽ lại dựng ngươi lên, ngươi sẽ được dựng lên, hỡi trinh nữ Y-sơ-ra-ên. Ngươi sẽ lại cầm trống cơm và đi ra nhảy múa vui mừng.
5Ngươi sẽ lại trồng vườn nho trên các núi ở Sa-ma-ri; các nông dân sẽ trồng trọt và ăn trái tốt.
6Sẽ có ngày khi những kẻ canh gác trên những ngọn núi ở Ép-ra-im tuyên bố: ‘Hãy trỗi dậy, chúng ta hãy đến Si-ôn ra mắt Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta.’” 7Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Hỡi Gia-cốp, hãy lớn tiếng vui mừng! Hãy lớn tiếng reo vui cho lãnh tụ của các nước! Hãy ngợi khen. Hãy nói rằng: ‘Đức Giê-hô-va đã giải cứu dân Ngài, là những người còn sót lại của Y-sơ-ra-ên.’8Kìa, Ta sẽ đem chúng về từ những xứ phương bắc. Ta sẽ nhóm chúng lại từ những nơi xa nhất trên thế gian. Người mù và người què sẽ ở giữa chúng; thai phụ và những ai sắp sinh đẻ sẽ ở với chúng. Một hội lớn sẽ trở về đây.
9Chúng sẽ đến khóc lóc; Ta sẽ dẫn chúng đi khi chúng nài xin. Ta sẽ cho chúng đi theo những dòng nước và con đường thẳng. Chúng sẽ không vấp ngã, vì Ta sẽ là Cha của Y-sơ-ra-ên, Ép-ra-im sẽ là con đầu lòng của Ta.” 10“Hỡi các nước, hãy nghe lời của Đức Giê-hô-va. Hãy rao dọc theo những vùng duyên hải nơi xa. Hãy nói với các nước: “Đấng làm tản lạc Y-sơ-ra-ên sẽ nhóm họ về và giữ gìn họ như người chăn giữ bầy chiên mình.”
11Vì Đức Giê-hô-va đã chuộc Gia-cốp và cứu nguy người khỏi tay những kẻ quá mạnh đối với người. 12Chúng sẽ đến và reo mừng trên các nơi cao ở Si-ôn. Chúng sẽ vui mừng về sự tốt lành của Đức Giê-hô-va, về ngũ cốc, rượu mới, dầu và con nhỏ của bầy chiên và bò. Cuộc đời chúng sẽ trở nên như vườn được tưới, chúng sẽ không bao giờ cảm thấy buồn rầu nữa. 13Những trinh nữ sẽ vui mừng nhảy múa, thanh niên và người già sẽ hớn hở với nhau. Ta sẽ biến sự than khóc của chúng thành sự vui mừng. Ta sẽ thương xót chúng, và chúng sẽ vui mừng thay vì buồn rầu.
14Ta sẽ khiến các thầy tế lễ được no nê trong đời mình. Dân Ta sẽ no đủ bằng sự tốt lành của Ta – Đức Giê-hô-va phán vậy.” 15Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Có tiếng kêu ở Ra-ma, là tiếng than khóc và khóc lóc cay đắng. Đó chính là Ra-chên đang khóc than con mình. Nàng từ chối được an ủi về các con nàng, vì chúng không còn sống nữa.”16Đức Giê-hô-va phán: “Đừng cất tiếng than khóc và khóc lóc nữa; vì có một sự thưởng phạt đối với sự đau khổ của ngươi – Đức Giê-hô-va phán vậy – con cái ngươi sẽ từ xứ của quân thù mình trở về.17Có hy vọng cho tương lai của ngươi – Đức Giê-hô-va phán như vầy – con cháu ngươi sẽ trở về trong ranh giới của chúng.” 18“Thật Ta đã nghe Ép-ra-im than khóc: “Ngài sửa phạt con, và con đã bị sửa phạt. Xin Chúa đem con trở lại như một con bê chưa được rèn, và con sẽ được trở về, vì Ngài là Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của con.
19Sau khi con trở về bên Ngài, con đã ăn năn; sau khi con được rèn luyện, con đã vỗ đùi mình trong sự đau buồn. Con xấu hổ và bẽ mặt, vì con mang lấy tội lỗi của tuổi thanh xuân con.’
20Ép-ra-im không phải là con yêu dấu của Ta sao? Nó không phải là con trai yêu quý và vui vẻ của Ta sao? Bất cứ khi nào Ta nói nghịch về nó, thật Ta vẫn thương nhớ nó. Lòng Ta mong mỏi nó. Thật Ta sẽ thương xót nó – Đức Giê-hô-va phán vậy.” 21Chính ngươi hãy đặt các bảng chỉ đường. Hãy dựng các cột chỉ dẫn. Hãy đặt tâm trí ngươi trên đường ngay thẳng, là đường ngươi phải đi. Hãy trở lại, hỡi trinh nữ Y-sơ-ra-ên! Hãy trở về các thành của ngươi.
22Ngươi sẽ còn lưỡng lự cho đến khi nào nữa, hỡi con gái lật lọng? Vì Đức Giê-hô-va đã làm nên một việc mới trên đất: phụ nữ bao quanh trai tráng để bảo vệ họ. 23Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: “Khi Ta đem dân này trở về xứ, chúng sẽ nói rằng đây là xứ của Giu-đa và các thành của nó: ‘Nguyện Đức Giê-hô-va ban phước cho ngươi, hỡi nơi ở của sự công bình, hỡi núi thánh.’24Giu-đa và các thành của nó sẽ chung sống với nhau trên đó. Nông dân và người chăn chiên cùng bầy chiên mình sẽ ở đó.25Ta sẽ cho người mệt nhọc được uống nước, Ta sẽ thỏa cơn khát của mọi người.”26Sau việc này, tôi thức dậy, tôi nhận thấy rằng giấc ngủ của tôi thật khoan khoái.27“Kìa, những ngày gần đến – Đức Giê-hô-va phán vậy - ấy là khi Ta gieo nhà của Y-sơ-ra-ên và Giu-đa những con cái của loài người và thú vật.28Trước kia, Ta giám sát chúng đặng nhổ chúng và đánh đổ chúng, lật đổ, tiêu diệt, và gây tổn thất trên chúng. Nhưng trong những ngày tới, Ta sẽ trông chừng chúng, để dựng chúng lên và vun trồng chúng – Đức Giê-hô-va phán vậy.29Trong những ngày đó, sẽ không ai nói rằng: ‘Cha ăn nho chua, nhưng răng con cái bị cùn.’30Ai nấy sẽ chết vì tội mình; ai ăn nho chua thì răng người đó sẽ cùn.31Kìa, những ngày gần đến – Đức Giê-hô-va phán vậy - ấy là khi Ta thiết lập một giao ước mới với nhà Y-sơ-ra-ên và nhà Giu-đa.32Giao ước ấy sẽ không giống như giao ước mà Ta đã lập với cha ông chúng trong những ngày tay Ta đem chúng ra khỏi xứ Ai Cập. Ấy là những ngày mà chúng vi phạm giao ước Ta, dù Ta là chồng của chúng – Đức Giê-hô-va phán vậy.33Nhưng đây là giao ước Ta sẽ lập với nhà Y-sơ-ra-ên sau những ngày này – Đức Giê-hô-va phán vậy: Ta sẽ đặt luật pháp Ta trong chúng và viết luật pháp ấy trong lòng chúng, vì Ta sẽ là Đức Chúa Trời của chúng, còn chúng sẽ là dân Ta.34Rồi sẽ không ai dạy người lân cận mình, hoặc dạy anh em mình rằng: ‘Hãy biết Đức Giê-hô-va!’ Vì tất cả chúng, từ người nhỏ nhất đến người lớn nhất, sẽ biết Ta – Đức Giê-hô-va phán vậy – vì Ta sẽ tha thứ những điều tội lỗi của chúng và sẽ không còn nhớ đến tội của chúng nữa.”35Đức Giê-hô-va phán như vầy – Đức Giê-hô-va, Đấng khiến mặt trời chiếu sáng ban ngày và sắp đặt mặt trăng và ngôi sao chiếu sáng ban đêm. Ngài là Đấng khiến biển chuyển động và sóng gầm thét. Đức Giê-hô-va vạn quân là danh Ngài. Ngài phán như vầy,36“Nếu như những thứ thường trực này biến mất khỏi trước mặt Ta – Đức Giê-hô-va phán vậy – thì con cháu Y-sơ-ra-ên sẽ không còn là một nước trước mặt Ta nữa.”37Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Nếu như các từng trời cao nhất có thể được đo lường, và nếu như nền móng trái đất có thể được khám phá, Ta sẽ từ bỏ tất cả con cháu Y-sơ-ra-ên vì mọi điều chúng đã làm – Đức Giê-hô-va phán vậy.”38”Kìa, những ngày gần đến – Đức Giê-hô-va phán vậy - ấy là khi thành sẽ được tái xây dựng cho Ta, từ Tháp Ha-na-nên đến Cổng Góc.39Dây đo sẽ kéo ra xa hơn, đến đồi Ga-rép và xung quanh Gô-a.40Cả thung lũng đầy hài cốt và tro, và tất cả những cánh đồng đến Thung lũng Kít-rôn và đến góc Cổng Ngựa ở phía đông, sẽ được dành riêng cho Ta, là Đức Giê-hô-va. Nó sẽ không bao giờ bị nhổ lên hoặc đạp đổ nữa.” 321Đây là lời Đức Giê-hô-va phán với Giê-rê-mi vào năm thứ mười trong đời Sê-đê-kia, vua Giu-đa, nhằm năm thứ mười tám của Nê-bu-cát-nết-sa.2Khi đó, đội quân của vua Ba-by-lôn đang bao vây Giê-ru-sa-lem, còn tiên tri Giê-rê-mi thì đang bị giam ở sân của quân thị vệ trong cung vua Giu-đa.3Sê-đê-kia, vua Giu-đa, đã bỏ tù ông và nói rằng: “Sao ngươi nói tiên tri rằng: ‘Đức Giê-hô-va phán như vầy: Kìa, Ta sắp phó thành này vào tay vua Ba-by-lôn, nó sẽ chiếm thành ấy.4Sê-đê-kia, vua Giu-đa, sẽ không thoát khỏi tay người Canh-đê, vì nó thật đã bị phó vào tay vua Ba-by-lôn. Nó sẽ nói cùng vua miệng đối miệng, và nhìn vua mặt đối mặt.5Vì Sê-đê-kia sẽ đến Ba-by-lôn và ở tại đó cho đến khi Ta hành động trên nó – Đức Giê-hô-va phán vậy – vì ngươi đã chiến đấu đánh lại dân Canh-đê. Ngươi sẽ không thắng đâu.’”6Giê-rê-mi đáp: “Lời của Đức Giê-hô-va đến với tôi như vầy,7‘Kìa, Ha-na-mên con Sanh-lum, chú của ngươi, sẽ đến gặp ngươi và nói rằng: “Hãy mua cánh đồng của em tại A-na-tốt, vì quyền mua cánh đồng ấy thuộc về anh.”’8Vậy, như Đức Giê-hô-va đã phán, Ha-na-mên, con trai của chú tôi, đến gặp tôi ở sân của quân thị vệ và nói rằng: ‘Hãy mua cánh đồng của em tại A-na-tốt trong xứ Bên-gia-min, vì quyền thừa hưởng ấy là của anh, và anh có quyền mua cánh đồng đó. Anh hãy mua.’ Do đó, tôi biết rằng đây là lời của Đức Giê-hô-va.9Vì vậy, tôi mua cánh đồng tại A-na-tốt của Ha-na-mên, con trai chú tôi, và tôi cân cho người mười bảy siếc-lơ bạc.10Sau đó, tôi viết trong một cuộn sách và niêm phong, có sự chứng kiến của người làm chứng. Tôi cân bạc trong một cái cân.11Kế đến, tôi lấy chứng thư mua bán được niêm phong, tuân theo quy định và quy chế, tôi cũng lấy một chứng thư chưa niêm phong.12Tôi trao cuộn sách được niêm phong cho Ba-rúc, con Nê-ri-a, cháu Ma-sê-gia, trước mặt Ha-na-mên, con trai chú tôi, và nhân chứng là người đã viết vào cuộn sách được niêm phong, và trước mặt tất cả những người Giu-đa ngồi ở sân của quân thị vệ.13Tôi ra lệnh cho Ba-rúc trước mặt họ. Tôi nói:14‘Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Hãy lấy những cuộn sách này và biên lai mua hàng được niêm phong và cuộn sách chưa được niêm phong. Hãy đặt chúng trong một bình mới để bảo quản chúng về lâu dài.15Vì Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Nhà cửa, ruộng, và vườn nho sẽ lại được mua trong xứ này.’16Sau khi tôi đưa hóa đơn mua hàng cho Ba-rúc con Nê-ri-a, tôi cầu nguyện với Đức Giê-hô-va rằng,17‘Thật khốn khổ thay, lạy Đức Giê-hô-va! Kìa! Chính Ngài đã dựng nên trời và đất bằng sức mạnh lớn lao và cánh tay giơ cao của Ngài. Những điều Ngài phán không có gì là quá khó đến nỗi Ngài không làm được.18Ngài tỏ sự thành tín theo giao ước cho hàng ngàn người và báo trả tội lỗi của tổ phụ trên đầu con cháu họ về sau. Ngài là Đức Chúa Trời vĩ đại và quyền năng; Đức Giê-hô-va vạn quân là danh Ngài.19Sự khôn ngoan của Ngài là lớn lao và công việc của Ngài thật vĩ đại, vì mắt Ngài đoái xem đường lối của loài người, đặng báo trả cho mỗi người tùy theo tư cách và việc làm của họ.20Ngài đã làm những dấu kỳ và phép lạ trong xứ Ai cập. Ngài đã khiến danh Ngài được vang ra cho đến tận ngày nay ở Y-sơ-ra-ên và giữa loài người.21Vì Ngài đã đem Y-sơ-ra-ên, dân Ngài, ra khỏi xứ Ai Cập bằng những dấu kỳ và phép lạ, bằng tay mạnh mẽ, cánh tay giơ cao, và bằng sự kinh khiếp lớn.22Sau đó Ngài ban xứ này cho họ - là xứ mà Ngài đã thề cùng tổ phụ họ là sẽ ban cho họ - một xứ đượm sữa và mật.23Họ tiến vào xứ ấy và sở hữu nó. Nhưng họ không vâng theo tiếng Ngài, cũng chẳng sống vâng phục luật pháp Ngài. Họ chẳng làm theo những gì Ngài đã truyền họ phải làm, vì vậy Ngài giáng mọi tai họa này trên họ.24Kìa! Những ụ bao vây đã đến thành để chiếm lấy. Bởi gươm dao, đói kém, và tai họa, thành ấy đã bị phó vào tay người Canh-đê là những kẻ đang đánh chiếm nó. Vì lời Ngài phán sẽ xảy ra đã thành hiện thực, và kìa, Ngài đang theo dõi.25Chính Ngài phán với con rằng: “Hãy lấy bạc mua một cánh động và cho nhân chứng chứng kiến việc đó, dù thành này bị phó vào tay người Canh-đê.”’”26Đây là lời Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi,27“Kìa! Ta là Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của nhân loại. Có việc gì quá khó đến nỗi Ta không làm được chăng?28Vậy, Đức Giê-hô-va phán như vầy: ‘Kìa! Ta sắp phó thành này vào tay người Canh-đê và Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn. Nó sẽ chiếm thành ấy.29Người Canh-đê là những kẻ đang đánh thành này sẽ đến và phóng hỏa thiêu rụi nó, cùng với nhà cửa trên mái mà người ta thờ Ba-anh và đổ của lễ quán cho các thần khác đặng khiêu khích Ta.30Vì dân Y-sơ-ra-ên và Giu-đa chắc chắn là những kẻ làm điều ác trước mặt Ta từ khi chúng còn trẻ. Dân Y-sơ-ra-ên chắc chắn đã xúc phạm Ta bằng những việc làm của tay chúng – Đức Giê-hô-va phán vậy –31vì thành này là một điều khiêu khích Ta thạnh nộ và nổi giận kể từ ngày chúng xây nó. Nó đã khiêu khích Ta từ đó cho đến nay. Vì vậy, Ta sẽ loại bỏ nó khỏi trước mặt Ta32vì cớ mọi điều gian ác của dân Y-sơ-ra-ên và Giu-đa, là những việc chúng đã làm đặng khiêu khích Ta – chúng, các vua của chúng, các vương tử, các thầy tế lễ, những tiên tri, và tất cả những người Giu-đa và cư dân Giê-ru-sa-lem.33Chúng xây lưng về phía Ta thay vì hướng mặt về Ta, dù Ta đã thiết tha dạy dỗ chúng. Ta đã cố gắng dạy chúng, nhưng không ai lắng nghe đặng được sửa trị.34Sau đó, chúng đặt những vật gớm ghiếc trong nhà đặng làm ô uế nó, là nhà được gọi bằng danh Ta.35Kế đó, chúng xây các điện thờ cho Ba-anh ở thung lũng Ben Hin-nôm đặng tế con trai và con gái chúng cho Mô-lết, ấy là việc mà Ta chẳng truyền cho chúng làm, một việc mà lòng Ta chẳng nghĩ tới – chúng làm việc gớm ghiếc này đặng khiến Giu-đa phạm tội.’36Vậy bây giờ, Ta, Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán về thành này, là thành mà các ngươi nói rằng: ‘Nó bị phó vào tay vua Ba-by-lôn bởi gươm dao, đói kém, và tai họa.’37Kìa, Ta sẽ gom chúng về từ mọi xứ mà Ta đã đuổi chúng đến trong lúc Ta nổi giận, nổi cơn thịnh nộ và giận dữ. Ta sẽ đem chúng về nơi này và cho chúng sống yên ninh.38Sau đó, chúng sẽ là dân Ta, còn Ta sẽ là Đức Chúa Trời của chúng.39Ta sẽ ban cho chúng một tấm lòng và một đường lối để tôn kính Ta hàng ngày, hầu cho chúng và con cháu chúng được phước.40Ta sẽ lập một giao ước đời đời với chúng, Ta sẽ không xây khỏi chúng. Ta sẽ làm việc này để đem điều tốt lành đến cho chúng và đặt sự tôn kính của chúng dành cho Ta trong lòng chúng. Chúng sẽ không còn từ bỏ Ta nữa.41Ta sẽ vui mừng mà ban phước cho chúng. Ta sẽ luôn trồng chúng trong xứ này bằng cả tấm lòng và sự sống của Ta.42Vì Đức Giê-hô-va phán như vầy: ‘Như Ta đã giáng họa lớn trên dân này, Ta cũng sẽ ban cho chúng những điều tốt lành mà Ta đã nói là sẽ làm cho chúng.43Ruộng sẽ được mua trong xứ này, là xứ mà ngươi nói rằng: “Đây là một xứ đổ nát, chẳng có người hoặc thú cư ngụ. Nó đã bị phó vào tay người Canh-đê.”44Chúng sẽ dùng bạc mà mua ruộng và viết trong cuộn sách được niêm phong. Chúng sẽ mời người làm chứng trong xứ Bên-gian-min, quanh Giê-ru-sa-lem và các thành của Giu-đa, những thành ở vùng cao nguyên và đồng bằng, và những thành ở Nê-ghép. Vì Ta sẽ phục hồi vận mệnh chúng – Đức Giê-hô-va phán vậy.’” 331Có lời Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi lần thứ nhì, trong khi ông vẫn còn bị giam trong sân của quân thị vệ, Ngài phán:2“Giê-hô-va, Đấng sáng tạo, phán như vầy – Đức Giê-hô-va, Đấng tạo lập sự này – danh Ngài là Giê-hô-va,3‘Hãy kêu cầu Ta, Ta sẽ trả lời ngươi. Ta sẽ bày tỏ cho ngươi những việc lớn, là những điều mầu nhiệm mà ngươi không hiểu.’4Vì Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán về nhà cửa trong thành này và những cung điện của các vua Giu-đa bị phá hủy vì cớ những dốc bao vây và gươm dao,5“Dân Canh-đê sẽ đến đánh và chất đầy nhà cửa bằng những thây người mà Ta sẽ giết bởi cơn thạnh nộ và cơn giận của Ta, ấy là khi Ta ẩn mặt khỏi thành này vì sự gian ác của chúng.6Nhưng kìa, Ta sẽ đem đến sự chữa lành và phương thuốc, vì Ta sẽ chữa chúng và đem đến cho chúng sự dư dật, bình an và thành tín.7Ta sẽ phục hồi vận mệnh của Giu-đa và Y-sơ-ra-ên; Ta sẽ dựng chúng lên như thuở ban đầu.8Sau đó, Ta sẽ thanh tẩy chúng khỏi mọi tội lỗi mà chúng đã phạm đối với Ta. Ta sẽ tha thứ mọi tội lỗi mà chúng đã gây ra với Ta, và những đường lối mà chúng đã phản nghịch Ta.9Vì thành này sẽ trở nên một cớ vui mừng, một bài ca ngợi khen và một niềm vinh dự đối với mọi dân trên đất là những kẻ sẽ nghe đến những việc tốt lành và bình an mà Ta sẽ ban cho nó.’10Đức Giê-hô-va phán như vầy: ‘Trong nơi mà ngươi hiện đang nói rằng: “Nó thật hoang vắng. Trong các thành của Giu-đa không có người và cũng không có thú vật, đường phố Giê-ru-sa-lem vắng hoe, chẳng có người và cũng chẳng có thú vật.”11– Người ta sẽ lại nghe tiếng vui mừng và hớn hở tại nơi đây, tiếng của chàng rể và nàng dâu, tiếng của người dân nói rằng: “Hãy dâng sự cảm tạ cho Đức Giê-hô-va vạn quân, vì Ngài là tốt lành, sự thành tín theo giao ước Ngài còn đời đời.” Hãy đem của lễ cảm tạ đến nhà Ta, vì Ta sẽ phục hồi vận mệnh của xứ này như thuở ban đầu,’ Đức Giê-hô-va phán.12Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: ‘Trong nơi hoang vắng này, là nơi chẳng có người và cũng chẳng có thú vật, nơi ấy sẽ lại có một nơi chăn thả súc vật cho những kẻ chăn bầy nằm nghỉ trong các thành của nó.13Ở các thành trên cao nguyên, nơi đồng bằng, và ở Nê-ghép – trong xứ Bên-gia-min và quanh Giê-ru-sa-lem, và trong các thành của Giu-đa – những bầy chiên sẽ lại băng qua đó dưới tay của những người chăn giữ chúng,’ Đức Giê-hô-va phán.14’Kìa! Những ngày gần đến – Đức Giê-hô-va phán - ấy là khi Ta thực hiện điều Ta đã hứa với nhà Y-sơ-ra-ên và nhà Giu-đa.15Trong những ngày đó và khi đó, Ta sẽ khiến nẩy lên một nhánh công bình cho Đa-vít, Ngài sẽ thực thi công lý và sự công bình trong xứ.
16Trong những ngày đó, Giu-đa sẽ được cứu, còn Giê-ru-sa-lem sẽ sống yên ổn, vì nó sẽ được xưng là: “Đức Giê-hô-va là Đấng công bình của chúng tôi.’” 17Vì Đức Giê-hô-va phán như vầy: ‘Dòng dõi Đa-vít sẽ không bao giờ thiếu người ngồi trên ngai trong nhà Y-sơ-ra-ên,18cũng sẽ chẳng thiếu thầy tế lễ Lê-vi nào đặng dâng của lễ thiêu, sinh tế và của lễ chay hàng ngày trước mặt Ta.’”19Có lời của Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi,20“Đức Giê-hô-va phán như vầy: ‘Nếu ngươi có thể phá vỡ giao ước của Ta với ngày và đêm để không còn ngày và đêm vào đúng kỳ của nó nữa,21thì ngươi cũng sẽ có thể phá vỡ giao ước của Ta với Đa-vít, tôi tớ Ta, để người sẽ không còn con cháu ngồi trên ngai mình nữa, và phá giao ước của Ta với các thầy tế lễ người Lê-vi, là những tôi tớ của Ta.22Như người ta không thể đếm được các thiên thể, và chẳng thể đo lường được cát trên bờ biển, Ta cũng sẽ gia tăng con cháu của Đa-vít, tôi tớ Ta, và người Lê-vi là những người phục vụ Ta.’”23Có lời của Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi,24”Ngươi chưa xem xét điều dân này đã tuyên bố khi chúng nói rằng: ‘Hai thị tộc mà Đức Giê-hô-va đã chọn, giờ đây Ngài đã từ bỏ họ’ sao? Như vậy, chúng khinh dân Ta, nói rằng dân này không còn là một nước nữa.25Ta, Đức Giê-hô-va, phán như vầy: ‘Nếu không còn giao ước của Ta về ngày và đêm nữa, hoặc Ta không duy trì sự sắp đặt của trời và đất,26thì Ta sẽ từ bỏ con cháu Gia-cốp và Đa-vít, tôi tớ Ta, Ta sẽ không dấy lên giữa chúng một người cai trị con cháu Áp-ra-ham, Y-sác, và Gia-cốp. Vì Ta sẽ phục hồi vận mệnh của chúng và thương xót chúng.’” 341Đây là lời Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi. Lời ấy đến với ông khi Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, và cả đội quân của vua, cùng với tất cả các vương quốc trên đất, những lãnh địa ở dưới quyền của vua, và mọi dân đang giao tranh chống lại Giê-ru-sa-lem và các thành phố của nó. Ngài phán,2‘Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Hãy đi tâu với Sê-đê-kia, vua Giu-đa, và nói rằng: “Đức Giê-hô-va phán: Kìa, Ta sẽ phó thành này vào tay vua Ba-by-lôn. Nó sẽ phóng hỏa thành ấy.3Ngươi sẽ không thoát khỏi tay nó, vì chắc chắn ngươi sẽ bị bao vây và bị phó vào tay nó. Ngươi sẽ mặt đối mặt với vua Ba-by-lôn; nó sẽ nói trực tiếp với ngươi khi ngươi qua Ba-by-lôn.’4Hãy nghe lời của Đức Giê-hô-va, hỡi Sê-đê-kia vua Giu-đa! Đức Giê-hô-va phán về vua như vầy: ‘Ngươi sẽ không chết bởi gươm.5Ngươi sẽ chết bình an. Như trong buổi hỏa táng các tổ phụ ngươi, là những vua trước đời ngươi, họ cũng sẽ hỏa táng ngươi. Họ sẽ nói: “Khốn thay, chủ ơi!” Họ sẽ than khóc ngươi. Bấy giờ Ta đã phán – Đức Giê-hô-va phán vậy.”6Vì thế, tiên tri Giê-rê-mi công bố cho Sê-đê-kia vua Giu-đa mọi lời này tại Giê-ru-sa-lem.7Quân của vua Ba-by-lôn gây chiến với Giê-ru-sa-lem và tất cả các thành còn lại của Giu-đa là La-kích và A-xê-ca. Đây là những thành trì vững chắc còn lại trong số các thành của Giu-đa.8Này là lời Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi sau khi vua Sê-đê-kia đã lập thỏa thuận với tất cả người dân ở Giê-ru-sa-lem để công bố sự tự do:9Ai nấy phải trả tự do cho nô lệ người Y-sơ-ra-ên mình, cả nam và nữ. Không ai được bắt người anh em Y-sơ-ra-ên mình ở Giu-đa làm nô lệ nữa.10Vậy, tất cả các lãnh đạo và dân chúng tham gia buổi thỏa thuận ấy đều vâng phục. Ai nấy đều thả tự do cho các nô lệ nam và nô lệ nữ và không còn bắt họ làm nô lệ nữa. Họ lắng nghe và thả tự do.11Nhưng sau việc này, họ đổi ý. Họ bắt lại các nô lệ mà họ đã trả tự do. Họ buộc những người đó phải làm nô lệ lần nữa.12Vậy, có lời của Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi rằng,13“Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: ‘Chính Ta đã lập giao ước với tổ phụ các ngươi trong ngày Ta đem họ ra khỏi xứ Ai Cập, ra khỏi nhà nô lệ. Đó là khi Ta bảo,14“Khi đến hạn mãn bảy năm, ai nấy phải thả tự do cho anh em mình, là những người anh em Hê-bơ-rơ đã bán thân cho các ngươi và phục vụ các ngươi trong sáu năm. Hãy trả tự do cho họ.” Nhưng tổ phụ các ngươi không nghe Ta và cũng chẳng để ý.15Bấy giờ chính các ngươi đã ăn năn và bắt đầu làm điều thiện trước mặt Ta. Các ngươi công bố sự tự do, ai nấy đều phóng thích người lân cận mình. Các ngươi lập thỏa thuận trước mặt Ta trong nhà được gọi bằng danh Ta.16Nhưng sau đó các ngươi trở lòng và làm ô uế danh Ta; các ngươi khiến ai nấy đều bắt lại các nô lệ nam nữ của mình, là những người mà các ngươi đã phóng thích để họ đi đâu thì tùy ý. Các ngươi bắt họ lại làm nô lệ cho các ngươi.’17Vậy, Đức Giê-hô-va phán như vầy: ‘Chính các ngươi đã không nghe Ta. Lẽ ra các ngươi nên công bố sự tự do, ai nấy trong các ngươi đều phải phóng thích anh em và đồng hương Y-sơ-ra-ên mình. Vậy hãy xem! Ta sẽ tuyên bố sự tự do trên các ngươi – Đức Giê-hô-va phán vậy – sự tự do với gươm dao, tai họa, và đói kém, và Ta sẽ khiến các ngươi trở thành một thứ kinh khiếp trước mặt các vương quốc trên đất.18Sau đó, Ta sẽ giải quyết những kẻ vi phạm giao ước của Ta, những kẻ không giữ lời giao ước mà chúng đã lập trước mặt Ta khi chúng xẻ thịt con bò đực làm đôi và bước đi giữa các phần đó,19Ta sẽ giải quyết các lãnh đạo của Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, các thái giám và thầy tế lễ, và toàn thể dân chúng trong xứ đã đi qua đi lại giữa các phần thịt của con bò đực.20Ta sẽ phó chúng vào tay kẻ thù chúng và những kẻ tìm mạng sống chúng. Thây của chúng sẽ thành thức ăn cho chim trời và muôn thú trên đất.21Vậy, Ta sẽ phó Sê-đê-kia vua Giu-đa và các lãnh đạo của nó vào tay kẻ thù chúng và những kẻ tìm mạng sống chúng, và vào tay quân đội của vua Ba-by-lôn đã nổi lên nghịch cùng chúng.22Kìa, ta sẽ ban một mệnh lệnh – Đức Giê-hô-va phán vậy – và đem chúng về thành này để gây chiến, chiếm nó và phóng hỏa. Vì Ta sẽ biến các thành của Giu-đa thành đống hoang tàn chẳng có ai cư ngụ.’” 351Có lời của Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi trong đời Giê-hô-gia-kim, con Giô-si-a, vua Giu-đa, Ngài phán rằng,2“Hãy đến thị tộc Rê-cáp và nói với chúng. Hãy dẫn chúng đến nhà Ta, vào một trong các phòng và cho chúng uống rượu.”3Vậy tôi dẫn Gia-a-xa-nia, con Giê-rê-mi, cháu Ha-ba-xi-nia và các anh em ông ấy, cùng các con trai của ông, và tất cả thị tộc Rê-cáp.4Tôi dẫn họ đến nhà Đức Giê-hô-va, vào các phòng của các con trai Ha-nan, con trai I-đa-lia, người của Đức Chúa Trời. Các phòng này ở cạnh phòng của các lãnh đạo, trên phòng của Ma-a-sê-gia, con Sa-lum, người gác cổng.5Sau đó, tôi đặt các bình và chén đầy rượu trước mặt người Rê-cáp và bảo họ: “Xin mời quý vị dùng rượu.”6Nhưng họ nói: “Chúng tôi không uống rượu, vì tổ phụ chúng tôi, Giô-na-đáp con Rê-cáp, đã truyền cho chúng tôi rằng: ‘Các con và con cháu các con đừng bao giờ uống rượu.7Ngoài ra, chớ xây nhà, gieo giống, hoặc trồng vườn nho; việc này không dành cho các con. Vì các con sẽ sống trong lều trọn đời mình, hầu cho các con sống lâu ngày trong xứ mà mình ở như người ngoại quốc.’8Chúng tôi phải vâng lời của Giô-na-đáp, con Rê-cáp, tổ phụ chúng tôi, trong mọi điều người truyền dạy chúng tôi, rằng chúng tôi, vợ chúng tôi, con trai và con gái chúng tôi, không bao giờ uống rượu.9Và chúng tôi sẽ không xây nhà, chúng tôi sẽ không sở hữu vườn nho, ruộng, hoặc gieo giống chi cả.10Chúng tôi đã sống trong lều, lắng nghe, và làm theo mọi điều Giô-na-đáp, tổ phụ chúng tôi đã truyền.11Nhưng khi Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, tấn công xứ, chúng tôi nói: ‘Đi nào, chúng ta phải đến Giê-ru-sa-lem đặng thoát khỏi quân Canh-đê và A-ram.’ Vì vậy, chúng tôi đang sống tại Giê-ru-sa-lem đây.”12Sau đó, có lời Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi,13“Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: ‘Hãy đi và bảo người Giu-đa và dân cư Giê-ru-sa-lem rằng: “Các ngươi sẽ không nhận lấy sự sửa trị và nghe lời Ta sao? – Đức Giê-hô-va phán vậy.14Lời của Giô-na-đáp, con Rê-cáp, là mệnh lệnh đã được truyền cho các con cháu người về việc không uống rượu, đã được giữ đến tận hôm nay. Chúng vâng theo mệnh lệnh của tổ phụ chúng. Nhưng còn đối với Ta, Ta luôn phán với các ngươi, nhưng các ngươi không nghe Ta.15Ta đã sai các tôi tớ Ta, là các tiên tri, đến với các ngươi. Ta luôn sai họ đến bảo rằng: ‘Ai nấy hãy từ bỏ đường lối gian ác mình và làm điều thiện; mọi người hãy từ bỏ việc đi theo các thần khác và thờ lạy chúng. Trái lại, hãy trở về xứ mà Ta đã ban cho các ngươi và tổ phụ các ngươi.’ Nhưng các ngươi không lắng nghe và cũng chẳng để ý đến Ta.16Vì con cháu của Giô-na-đáp con Rê-cáp đã vâng phục mệnh lệnh của tổ phụ chúng truyền cho chúng, nhưng dân này không chịu nghe Ta.’”17Vậy, Giê-hô-va, Đức Chúa Trời vạn quân và Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: ‘Kìa, tất cả tai họa mà Ta đã tuyên bố nghịch lại chúng – Ta sẽ giáng những tai họa ấy trên Giu-đa và tất cả dân cư Giê-ru-sa-lem, vì Ta đã tuyên bố với chúng, nhưng chúng không chịu nghe. Ta đã kêu gọi chúng, nhưng chúng không hồi đáp.’”18Giê-rê-mi- nói với nhà Rê-cáp: “Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Các ngươi tuân theo mệnh lệnh của Giô-na-đáp, tổ phụ các ngươi, và giữ hết thảy mọi điều ấy – các ngươi vâng phục mọi lời mà người truyền cho các ngươi –19vậy Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: ‘Giô-na-đáp, con Rê-cáp, sẽ luôn có con cháu phục vụ Ta.’” 361Năm thứ tư trong đời Giê-hô-gia-kim, con Giô-si-a, vua Giu-đa, có lời Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi,2“Hãy lấy một cuộn sách và ghi chép mọi lời mà Ta đã phán với ngươi về Y-sơ-ra-ên, Giu-đa, và mọi dân. Hãy chép mọi điều Ta đã nói cùng ngươi từ đời Giô-si-a cho đến ngày nay.3Có thể dân Giu-đa sẽ nghe biết về mọi tai họa mà Ta định giáng trên chúng. Có thể ai nấy sẽ từ bỏ đường lối gian ác mình, để Ta tha thứ tội ác và tội lỗi của chúng.”4Sau đó, Giê-rê-mi gọi Ba-rúc, con Nê-ri-gia, và Giê-rê-mi đọc cho Ba-rúc chép vào quyển sách mọi lời Đức Giê-hô-va phán với ông.5Giê-rê-mi bảo Ba-rúc: “Tôi đang ở tù và không thể đến nhà Đức Giê-hô-va.6Xin anh hãy đi và đọc lớn tiếng mọi lời mà tôi đã đọc cho anh chép vào cuốn sách này. Trong ngày kiêng ăn, anh hãy đọc lời của Đức Giê-hô-va trước mặt dân sự trong nhà Ngài, và cũng đọc trước mặt người Giu-đa, là những người đến từ các thành của họ. Hãy công bố những lời này cho họ nghe.7Có thể họ sẽ đến trước mặt Đức Giê-hô-va cầu xin sự thương xót. Có thể ai nấy sẽ từ bỏ đường lối gian ác mình, vì cơn thịnh nộ và cơn giận mà Đức Giê-hô-va đã công bố nghịch lại dân này là dữ dội lắm.”8Vậy, Ba-rúc con Nê-ri-gia làm theo mọi điều tiên tri Giê-rê-mi đã bảo ông phải làm. Ông đọc lớn tiếng lời của Đức Giê-hô-va trong nhà Đức Giê-hô-va.9Tháng chín năm thứ năm trong đời Giê-hô-gia-kim, con Giô-si-a, vua Giu-đa, toàn thể dân Giê-ru-sa-lem và dân từ các thành của Giu-đa đến Giê-ru-sa-lem rao sự kiêng ăn trước mặt Đức Giê-hô-va.10Ba-rúc đọc lớn tiếng lời của Giê-rê-mi trong nhà Đức Giê-hô-va, từ phòng của Ghê-ma-ria, con của thư ký Sa-phan, ở hành lang trên, ngay lối vào nhà Đức Giê-hô-va. Ông đọc cho cả dân sự nghe.11Bấy giờ, Mi-chê, con Ghê-ma-ria, cháu Sa-phan, nghe mọi lời của Đức Giê-hô-va trong cuộn sách.12Ông đi xuống cung vua, đến phòng thư ký. Kìa, tất cả các quan chức đang ngồi đó: thư ký Ê-li-sa-ma, Đê-la-gia con Sê-ma-gia, Ên-na-than con Ách-bô, Ghê-ma-ria con Sa-phan, và Sê-đê-kia con Ha-na-nia, cùng mọi quan chức.13Bấy giờ, Mi-chê thuật lại cho họ nghe mọi lời mà ông đã nghe Ba-rúc đọc lớn tiếng trước mặt dân sự.14Tất cả các quan chức sai Giê-hu-đi, con Nê-tha-nia, cháu Sê-lê-mia, chắt Cư-si, đến gặp Ba-rúc. Giê-hu-đi bảo Ba-rúc: “Hãy lấy cuốn sách trong tay ngươi, là cuốn sách mà ngươi đã đọc cho dân sự nghe, và đến đây.” Vậy, Ba-rúc con Nê-ri-gia lấy cuốn sách trong tay mình và đến gặp các quan chức.15Họ bảo ông: “Hãy ngồi xuống và đọc cho chúng tôi nghe.” Vậy Ba-rúc đọc cuộn sách.16Khi họ nghe mọi lời này, ai nấy đều sợ hãi mà nhìn nhau và nói với Ba-rúc: “Chúng ta chắc chắn phải báo cáo tất cả những lời này cho vua nghe.”17Họ hỏi Ba-rúc: “Hãy cho chúng tôi biết làm thế nào mà ông viết những lời này theo miệng Giê-rê-mi?”18Ba-rúc trả lời: “Ông ấy đọc mọi lời này cho tôi chép, và tôi lấy mực chép lại chúng trong cuộn sách này.”19Các quan chức bảo Ba-rúc: “Ông và Giê-rê-mi hãy đi ẩn mình. Đừng để ai biết vị trí của các ông.”20Vậy, họ đến hành lang của vua và tâu mọi lời này với vua. Nhưng trước tiên, họ để cuộn sách trong phòng của thư ký Ê-li-sa-ma.21Sau đó vua sai Giê-hu-đi lấy cuộn sách. Giê-hu-đi lấy cuộn sách từ phòng của thư ký Ê-li-sa-ma. Ông đọc lớn tiếng cho vua và toàn thể quan chức đứng chầu vua nghe.22Bấy giờ, vua đang ở trong cung điện mùa đông nhằm tháng chín, và trước mặt vua là một lò than.23Khi Giê-hu-đi đọc được ba hoặc bốn cột, vua lấy dao cắt cuộn sách và ném vào lò than cho đến khi cuộn sách ấy cháy hết.24Nhưng vua và các quần thần không ai hoảng sợ khi nghe các lời đó, họ cũng không xé quần áo mình.25Ên-na-than, Đê-la-gia, và Ghê-ma-ria thậm chí cố gắng thuyết phục vua không đốt cuộn sách, nhưng ông không nghe họ.26Vua sai Giê-ra-mê-ên, là bà con, Sê-ra-gia con Ách-ri-ên, và Sê-lê-mia con Áp-đê-ên đến bắt thư ký Ba-rúc và tiên tri Giê-rê-mi, nhưng Đức Giê-hô-va đã giấu họ.27Có lời Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi sau khi vua đã đốt cuộn sách và mọi lời Ba-rúc đã chép khi nghe Giê-rê-mi đọc, Ngài phán,28”Hãy trở lại, lấy một cuộn sách khác, chép mọi lời trong cuộn sách trước, là cuộn sách mà Giê-hô-gia-kim, vua Giu-đa đã đốt.29Sau đó, ngươi phải nói với Giê-hô-gia-kim, vua Giu-đa như vầy: ‘Ngươi đã đốt cuộn sách đó! Ngươi nói rằng: Sao ông chép: ‘Vua Ba-by-lôn chắc chắn sẽ đến và phá hủy xứ này, ông ấy sẽ hủy diệt cả người và thú trong xứ ấy”?’”30Vậy, Đức Giê-hô-va phán về ngươi như vầy, hỡi Giê-hô-gia-kim vua Giu-đa: “Con cháu ngươi sẽ không được ngồi trên ngai Đa-vít. Còn về phần ngươi, thi thể của ngươi sẽ bị dang nắng ban ngày và sương giá ban đêm.31Vì Ta sẽ trừng phạt ngươi, con cháu ngươi, và tôi tớ ngươi về tội lỗi của tất cả các ngươi. Ta sẽ giáng trên ngươi, trên toàn thể dân cư Giê-ru-sa-lem, và trên từng người ở Giu-đa mọi tai họa mà Ta đã răn đe ngươi mà ngươi không để ý.”32Vậy Giê-rê-mi lấy một cuộn sách khác và trao cho Ba-rúc con thư ký Nê-ri-gia. Giê-rê-mi đọc cho Ba-rúc chép vào đó mọi lời đã được chép trong cuộn sách mà Giê-hô-gia-kim vua Giu-đa đã đốt. Ngoài ra, có nhiều lời tương tự khác cũng được thêm vào cuộn sách này. 371Bấy giờ, Sê-đê-kia, con Giô-si-a, làm vua thay cho Giê-hô-gia-kin, con Giê-hô-gia-kim. Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, đã lập Sê-đê-kia làm vua trong xứ Giu-đa.2Nhưng Sê-đê-kia, các tôi tớ của ông, và dân trong xứ không nghe lời Đức Giê-hô-va truyền qua tay tiên tri Giê-rê-mi.3Vậy Vua Sê-đê-kia, Giê-hu-can con Sê-lê-mia, và Sô-phô-ni con thầy tế lễ Ma-a-sê-gia gửi thông điệp cho tiên tri Giê-rê-mi. Họ nói: “Hãy thay mặt chúng tôi cầu vấn Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi.”4Bấy giờ, Giê-rê-mi còn đang đi lại tự do giữa dân sự, vì ông chưa bị bỏ tù.5Quân của Pha-ra-ôn từ Ai Cập đến, và dân Canh-đê đang vây thành Giê-ru-sa-lem nghe tin tức về chúng thì rời khỏi Giê-ru-sa-lem.6Đức Giê-hô-va phán cùng tiên tri Giê-rê-mi rằng,7“Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Này là lời ngươi sẽ tâu với vua Giu-đa, vì người đã sai các ngươi đến tìm lời khuyên của Ta: ‘Kìa, quân của Pha-ra-ôn đến đặng giúp ngươi sẽ quay về Ai Cập, là xứ của nó.8Dân Canh-đê sẽ trở lại. Chúng sẽ đánh thành này, chiếm thành này, và phóng hỏa nó.’9Đức Giê-hô-va phán như vầy: Chớ tự dối mình khi nói rằng: ‘Chắc chắn dân Canh-đê sẽ đi khỏi chúng ta,’ vì chúng sẽ không rời đi.10Thậm chí nếu ngươi đã đánh thắng toàn bộ quân Canh-đê đến đánh ngươi đến nỗi trong lều chúng nó chỉ còn lại những người thương tích, chúng sẽ nổi dậy và phóng hỏa thành này.”11Vậy, khi quân Canh-đê đã rời Giê-ru-sa-lem trong lúc quân Pha-ra-ôn đang đến,12Giê-rê-mi rời thành Giê-ru-sa-lem đến xứ Bên-gia-min. Ông muốn nhận sở hữu một phần của xứ giữa dân mình.13Khi ông đến cổng Bên-gia-min, có đốc canh Giê-ri-a, con Sê-lê-mia, cháu Ha-na-nia. Ông bắt tiên tri Giê-rê-mi và nói: “Ông đang bỏ trốn qua hàng ngũ người Canh-đê.”14Nhưng Giê-rê-mi nói: “Không đúng. Tôi không bỏ trốn qua hàng ngũ người Canh-đê.” Nhưng Giê-ri-a không nghe ông. Hắn bắt Giê-rê-mi và giải đến các quan chức.15Các quan chức tức giận Giê-rê-mi. Họ đánh ông và tống giam ông trong nhà của thư ký Giô-na-than, vì họ biến nơi ấy thành nhà tù.16Vậy, Giê-rê-mi bị bỏ dưới xà lim trong nhiều ngày.17Sau đó, Vua Sê-đê-kia sai người đến giải ông đến cung điện. Trong cung, vua hỏi riêng ông: “Đức Giê-hô-va có phán lời nào không?” Giê-rê-mi trả lời: “Ngài phán: Ngươi sẽ bị phó vào tay vua Ba-by-lôn.”18Giê-rê-mi tâu với Vua Sê-đê-kia: “Tôi đã phạm tội thế nào với bệ hạ, tôi tớ của bệ hạ, hoặc dân này đến nỗi bệ hạ bỏ tù tôi?19Các tiên tri của bệ hạ là những người đã nói tiên tri với bệ hạ và nói rằng vua Ba-by-lôn sẽ không đến đánh bệ hạ và đánh xứ này ở đâu?20Nhưng bây giờ xin nghe, tâu vua chúa tôi! Mong rằng lời cầu xin của tôi được bệ hạ đoái đến. Xin đừng trả tôi lại nhà của thư ký Giô-na-than, nếu không tôi sẽ chết tại đó.”21Vậy Vua Sê-đê-kia ra lệnh. Các tôi tớ của vua giam ông trong sân của quân thị vệ. Mỗi ngày người ta cấp một ổ bánh mì cho ông từ phố bánh, cho đến khi trong thành chẳng còn bánh nữa. Vậy, Giê-rê-mi ở trong sân của quân thị vệ. 381Sê-pha-tia con Ma-tan, Ghê-đa-lia con Pa-su-rơ, Giê-hu-can con Sê-lê-mia, và Pa-su-rơ con Manh-ki-gia đã nghe những lời Giê-rê-mi rao báo với toàn dân sự. Ông nói,2“Đức Giê-hô-va phán như vầy: Ai ở trong thành này sẽ bị giết bởi gươm, đói kém, và tai họa. Nhưng ai đầu hàng người Canh-đê sẽ được sống. Người ấy sẽ bảo toàn mạng sống mình và sẽ sống.3Đức Giê-hô-va phán như vầy: Thành này sẽ bị phó vào tay quân của vua Ba-by-lôn, nó sẽ chiếm thành ấy.”4Vậy các quan chức tâu với vua: “Xin xử tử người này, vì hắn làm yếu tay của chiến sĩ còn lại trong thành này, và tay của toàn dân. Hắn rao báo những lời này, vì tên này không làm gì có lợi cho dân chúng nhưng chỉ đem đến tai họa.”5Vậy, Vua Sê-đê-kia bảo: “Kìa, hắn ở trong tay các ngươi vì không vua nào có thể chống lại các ngươi.”6Sau đó, họ bắt Giê-rê-mi và ném vào bể chứa nước của hoàng tử Manh-ki-gia. Bể chứa nước ấy ở trong sân của quân thị vệ. Họ lấy dây thừng dòng Giê-rê-mi xuống. Dưới bể không có nước nhưng đầy bùn, ông chìm xuống bùn.7Bấy giờ có Ê-bết Mê-lết người Cút là một trong các quan thái giám ở cung vua. Ông hay tin rằng họ đã bỏ Giê-rê-mi xuống bể chứa nước. Khi ấy vua đang ngồi ở Cổng Bên-gia-min.8Vậy, Ê-bết Mê-lết rời cung vua, đến tâu với vua. Ông nói:9“Tâu vua Chúa tôi, việc những người này đối xử với tiên tri Giê-rê-mi thật là ác quá. Họ ném ông ấy vào bể chứa nước đặng bỏ mặc ông ấy chết vì đói, vì trong thành không còn thức ăn nữa.”10Sau đó, vua ra lệnh cho Ê-bết Mê-lết người Cút. Ông nói: “Hãy dẫn theo ba mươi người và đem tiên tri Giê-rê-mi ra khỏi bể trước khi hắn chết.”11Vậy Ê-bết Mê-lết sai đem theo những người đó và đến cung vua, vào kho quần áo trong cung. Ông lấy giẻ rách và quần áo cũ rồi dùng dây thừng dòng xuống cho Giê-rê-mi bên dưới bể.12Ê-bết Mê-lết người Cút nói với Giê-rê-mi: “Hãy cột giẻ rách và quần áo cũ dưới cánh tay và máng dây thừng vào.” Vậy Giê-rê-mi làm theo.13Kế đó, họ dùng dây thừng kéo Giê-rê-mi lên. Họ đem ông ra khỏi bể. Vì thế, Giê-rê-mi ở trong sân của quân thị vệ.14Khi ấy, Vua Sê-đê-kia sai người đến dẫn Giê-rê-mi vào gặp riêng ông ở lối vào thứ ba trong nhà Đức Giê-hô-va. Vua bảo Giê-rê-mi: “Ta muốn hỏi ngươi một điều. Chớ giấu ta.”15Giê-rê-mi tâu với Sê-đê-kia: “Nếu tôi trả lời bệ hạ, bệ hạ hẳn sẽ không giết tôi? Và nếu tôi cho bệ hạ lời khuyên, bệ hạ sẽ không nghe tôi.”16Nhưng Vua Sê-đê-kia thề riêng với Giê-rê-mi và nói: “Thật như Đức Giê-hô-va hằng sống, Đấng dựng nên chúng ta, ta sẽ không giết ngươi hoặc phó ngươi vào tay những kẻ tìm mạng sống ngươi.”17Vậy Giê-rê-mi tâu với Sê-đê-kia: “Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Nếu ngươi thật đến đầu hàng các quan chức của vua Ba-by-lôn, ngươi sẽ sống, và thành này sẽ không bị phóng hỏa. Ngươi và gia đình ngươi sẽ sống.18Nhưng nếu ngươi không đầu hàng các quan chức của vua Ba-by-lôn, thành này sẽ bị phó vào tay dân Canh-đê. Chúng sẽ phóng hỏa, còn ngươi sẽ không thoát khỏi tay chúng.”19Vua Sê-đê-kia bảo Giê-rê-mi: “Nhưng ta sợ dân Giu-đa là những người đã đào ngũ sang phía người Canh-đê, vì ta có thể bị phó vào tay họ, họ sẽ đối xử tệ với ta.”20Giê-rê-mi tâu: “Họ sẽ không phó bệ hạ vào tay chúng. Xin vâng theo sứ điệp của Đức Giê-hô-va mà tôi thuật lại cho bệ hạ nghe, để bệ hạ được an toàn và được sống.21Nhưng nếu bệ hạ không chịu đi, thì đây là lời Đức Giê-hô-va tỏ cho tôi:22Kìa! Hỡi vua Giu-đa, tất cả những người nữ còn lại trong nhà ngươi, sẽ bị bắt đem đến các quan chức của vua Ba-by-lôn. Những người nữ này sẽ nói với ngươi: ‘Bệ hạ đã bị bạn bè lừa dối; họ bỏ rơi bệ hạ. Chân bệ hạ giờ đây lún bùn, còn bạn bè bệ hạ chạy trốn.’23Vì tất cả vợ con ngươi sẽ bị đem đến dân Canh-đê, chính ngươi sẽ không thoát khỏi tay chúng. Ngươi sẽ bị bắt bởi tay vua Ba-by-lôn, và thành này sẽ bị phóng hỏa.”24Sê-đê-kia nói với Giê-rê-mi: “Chớ báo cho ai biết về những lời này, nếu không ngươi sẽ chết.25Nếu các quan chức hay rằng Ta đã nói chuyện với ngươi – nếu họ đến bảo ngươi: ‘Xin cho chúng tôi biết những lời ông đã nói với vua. Chớ giấu chúng tôi, nếu không chúng tôi sẽ giết ông. Xin cho chúng tôi biết lời vua đã nói với ông’ –26thì ngươi phải trả lời rằng: ‘Tôi đã xin vua đừng trả tôi về nhà Giô-na-than đặng chết ở đó.’”27Sau đó, tất cả các quan chức đến gặp Giê-rê-mi và tra vấn ông, ông trả lời họ y như vua đã dặn ông. Vì vậy, họ không nói chuyện với ông, vì họ không biết cuộc đối thoại giữa Giê-rê-mi và vua.28Vậy, Giê-rê-mi vẫn ở trong sân của quân thị vệ cho đến ngày Giê-ru-sa-lem bị chiếm. 391Tháng chín năm thứ mười trong đời Sê-đê-kia vua Giu-đa, Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn kéo quân đến đánh Giê-ru-sa-lem và bao vây thành ấy.2Ngày chín tháng tư năm thứ mười một trong đời Sê-đê-kia, thành bị thất thủ.3Tất cả các quan chức của vua Ba-by-lôn đến và ngồi ở giữa cổng: Nẹt-gan Sa-rê-xe, Sam-ga Nê-bô, và Sa-sê-kim, một quan chức quan trọng. Nẹt-gan Sa-rê-xe là quan cấp cao của vua Ba-by-lôn.4Khi Sê-đê-kia, vua Giu-đa, và hết thảy binh lính thấy họ liền chạy trốn. Họ ra khỏi thành vào ban đêm theo lối vườn ngự uyển, qua cổng giữa hai bức tường. Vua đi ra theo hướng về A-ra-ba.5Nhưng quân Canh-đê đuổi theo họ và bắt Sê-đê-kia ở đồng bằng thung lũng Sông Giô-đanh gần Giê-ri-cô. Họ bắt ông và giải ông đến Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, tại Ríp-la trong xứ Ha-mát, là nơi Nê-bu-cát-nết-sa kết án ông ấy.6Vua Ba-by-lôn giết các con trai của Sê-đê-kia trước mặt ông tại Ríp-la. Ông cũng giết tất cả các quý tộc của Giu-đa.7Sau đó, ông móc mắt Sê-đê-kia và lấy xích đồng xiềng lại và giải về Ba-by-lôn.8Người Canh-đê phóng hỏa hoàng cung và nhà cửa của dân chúng. Họ cũng đánh sập các tường thành Giê-ru-sa-lem.9Nê-bu-xa-ra-đan, đại úy quân thị vệ của vua, bắt dân còn sót lại trong thành đi lưu đày. Trong số đó bao gồm những người đã bỏ sang hàng ngũ người Canh-đê và những người còn sót lại trong thành.10Nhưng Nê-bu-xa-ra-đan, đại úy quân thị vệ của vua cho phép những người nghèo khổ nhất ở lại trong xứ Giu-đa. Ngày hôm đó, ông cấp phát vườn nho và ruộng đất cho họ.11Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn truyền lệnh cho Nê-bu-xa-ra-đan, đại úy quân thị vệ về Giê-rê-mi. Ông nói:12“Hãy đem hắn đi và chăm sóc hắn. Chớ làm hại hắn. Hãy đáp ứng cho hắn bất cứ điều gì hắn bảo ngươi làm.”13Vậy, Nê-bu-xa-ra-đan đại úy quân thị vệ của vua, quan thái giám cấp cao Nê-bu-sa-ban, quan cấp cao Nẹt-gan Sa-rê-xe, và tất cả các quan chức quan trọng nhất của vua Ba-by-lôn sai người đi tìm.14Người của họ bắt Giê-rê-mi khỏi sân vệ binh và giao cho Ghê-đa-lia, con A-hi-cam, cháu Sa-phan, đem về nhà, như vậy Giê-rê-mi ở với họ.15Bấy giờ Đức Giê-hô-va phán với Giê-rê-mi trong lúc ông bị giam ở sân vệ binh,16“Hãy nói với Ê-bết Mê-lết người Cút: ‘Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Này, Ta sẽ thực thi lời Ta về thành này, Ta sẽ giáng tai họa chứ không phải điều lành trên nó. Chúng sẽ xảy ra trước mặt ngươi ngày hôm đó.17Nhưng hôm đó Ta sẽ giải cứu ngươi – Đức Giê-hô-va phán vậy – ngươi sẽ không bị phó vào tay những kẻ ngươi sợ hãi.18Vì chắc chắn Ta sẽ giải cứu ngươi. Ngươi sẽ không ngã xuống bởi gươm. Ngươi sẽ thoát mạng, vì ngươi tin cậy Ta – Đức Giê-hô-va phán vậy.’” 401Đây là lời Đức Giê-hô-va phán với Giê-rê-mi sau khi Nê-bu-xa-ra-đan, đại úy quân thị vệ, phóng thích ông khỏi Ra-ma. Đó là nơi Giê-rê-mi bị giải đến và bị xiềng xích. Ông ở chung với những người Giê-ru-sa-lem và Giu-đa bị bắt lưu đày tại Ba-by-lôn.2Quan chỉ huy thị vệ gọi Giê-rê-mi đến và nói: “Giê-hô-va Đức Chúa Trời của ông đã ra lệnh giáng tai họa này lên nơi này.3Vậy Đức Giê-hô-va đã thực hiện điều đó. Ngài thực thi như Ngài đã ra lệnh, vì dân của ông đã phạm tội nghịch lại Ngài và không vâng theo tiếng Ngài. Ấy là lý do vì sao việc này xảy đến trên dân ông.4Nhưng bây giờ hãy xem! Hôm nay tôi đã giải thoát ông khỏi xiềng xích trên tay ông. Nếu ông thấy việc đi cùng tôi đến Ba-by-lôn là tốt đẹp, hãy đi, tôi sẽ chăm sóc ông. Nhưng nếu ông thấy việc đi cùng tôi đến Ba-by-lôn chẳng tốt lành gì, thì ông đừng đi. Hãy xem hết thảy xứ ở trước mặt ông. Hãy đến bất cứ nơi nào ông thấy tốt và thích hợp.”5Khi Giê-rê-mi không trả lời, Nê-bu-xa-ra-đan nói: “Hãy đến gặp Ghê-đa-lia, con A-hi-cam, cháu Sa-phan, người mà vua Ba-by-lôn giao phụ trách các thành của Giu-đa. Hãy ở với ông ấy giữa dân chúng hoặc đi đến bất cứ nơi nào ông thấy là tốt đẹp.” Sĩ quan chỉ huy quân thị vệ phát cho ông thức ăn và tặng vật rồi cho ông đi.6Vậy, Giê-rê-mi đến gặp Ghê-đa-lia, con A-hi-cam, tại Mích-pa. Ông ở với ông ấy giữa dân chúng là những người còn sót lại trong xứ.7Bấy giờ, một số sĩ quan chỉ huy lính Giu-đê, tức những người vẫn còn ở vùng thôn quê – họ và người của họ - nghe rằng vua Ba-by-lôn đã lập Ghê-đa-lia con A-hi-cam làm quan thống đốc của xứ. Họ cũng nghe rằng vua đã giao ông ấy phụ trách đàn ông, đàn bà, và trẻ con là những người nghèo nhất trong xứ, tức những người không bị bắt đem lưu đày qua Ba-by-lôn.8Vậy họ đến Ghê-đa-lia tại Mích-pa. Những người này là Ích-ma-ên con Nê-tha-nia; Giô-ha-nan và Giô-na-than, con Ca-rê-a; Sê-ra-gia con Tan-hu-mết; các con của Ê-phai người Nê-tô-phát; và Gia-a-xa-nia con Ma-a-ca – họ và người của họ.9Ghê-đa-lia con A-hi-cam, cháu Sa-phan, thề với họ và người của họ rằng: “Chớ sợ phải phục vụ các quan Canh-đê. Hãy sống trong xứ và phục vụ vua Ba-by-lôn, thì các ông sẽ được yên bình.10Và kìa, tôi sẽ ở Mích-pa để gặp người Canh-đê là những người đã đến gặp chúng ta. Vậy hãy thu hoạch rượu, trái cây mùa hè, dầu và trữ trong thùng hàng. Hãy sống trong các thành mà các ông đã chiếm đóng.”11Vậy tất cả người Giu-đê ở Mô-áp, trong vòng dân Am-môn, ở Ê-đôm, và ở mỗi xứ nghe rằng vua Ba-by-lôn đã cho phép một số dân Giu-đa còn lại được ở, và rằng vua đã lập Ghê-đa-lia con A-hi-cam, cháu Sa-phan, cai trị họ.12Hết thảy người Giu-đê trở về từ các nơi mà họ đã bị tản lạc. Họ trở về xứ Giu-đa, đến gặp Ghê-đa-lia tại Mích-pa. Họ thu hoạch rượu và trái cây mùa hè nhiều vô kể.13Giô-ha-nan con Ca-rê-a và tất cả các sĩ quan chỉ huy quân đội ở vùng thôn quê đến gặp Ghê-đa-lia tại Mích-pa.14Họ nói với ông: “Ông có biết rằng Ba-a-li, vua dân Am-môn, đã sai Ích-ma-ên con Nê-tha-nia đến ám sát ông không?” Nhưng Ghê-đa-lia con A-hi-cam không tin họ.15Vậy Giô-ha-nan con Ca-rê-a nói riêng với Ghê-đa-lia tại Mích-pa rằng: “Xin cho phép tôi đi giết Ích-ma-ên con Nê-tha-nia. Sẽ không ai nghi ngờ tôi đâu. Sao ông ấy phải giết ông? Sao ông để cho hết thảy người Giu-đa là những người đã được quy tụ quanh ông phải bị tản lạc và số dân Giu-đa còn lại bị tiêu diệt?”16Nhưng Ghê-đa-lia con A-hi-cam nói với Giô-ha-nan con Ca-rê-a: “Đừng làm vậy, vì ông vu cáo Ích-ma-ên.” 411Nhưng vào tháng bảy, Ích-ma-ên con Nê-tha-nia, cháu Ê-li-sa-ma, thuộc hoàng tộc, và một số quan chức của vua cùng mười người đi đến gặp Ghê-đa-lia con A-hi-cam tại Mích-pa. Họ cùng ăn uống với nhau ở đó.2Nhưng Ích-ma-ên con Nê-tha-nia, và mười người của ông ấy đứng dậy dùng gươm đánh Ghê-đa-lia con A-hi-cam, cháu Sa-phan. Ích-ma-ên giết Ghê-đa-lia, là người mà vua Ba-by-lôn đã lập cai trị xứ.3Sau đó, Ích-ma-ên giết hết thảy người Giu-đê ở với Ghê-đa-lia tại Mích-pa và lính Canh-đê ở đó.4Hai ngày sau khi giết Ghê-đa-lia, không ai biết việc ấy.5Một số người từ Si-chem, Si-lô, và Sa-ma-ri – gồm tám mươi người đã cạo râu, xé quần áo mình, và cắt da thịt mình – đem của lễ chay và nhũ hương đến nhà Đức Giê-hô-va.6Ích-ma-ên con Nê-tha-nia từ Mích-pa đến gặp họ, vừa đi vừa khóc. Khi gặp họ, ông nói: “Hãy đến gặp Ghê-đa-lia con A-hi-cam!”7Khi họ vào trong thành, Ích-ma-ên con Nê-tha-nia và các thuộc hạ của ông tàn sát họ và ném họ xuống một cái hố.8Nhưng mười người trong số họ nói với Ích-ma-ên: “Xin đừng giết chúng tôi, vì chúng tôi có dự trữ sẵn lúa mì, lúa mạch, dầu và mật ong trong ruộng.” Vậy, ông ấy tha mạng họ và những người đi cùng họ.9Cái hố mà Ích-ma-ên ném các thây người mà ông giết cùng với Ghê-đa-lia – là hố lớn do Vua A-sa đào khi ông ấy đánh Vua Ba-a-sa của Y-sơ-ra-ên. Ích-ma-ên con Nê-tha-nia lấp đầy hố đó bằng thây những người mà ông đã giết.10Kế đó, Ích-ma-ên bắt hết thảy những người khác ở Mích-pa, gồm các con gái của vua và những người còn sót lại ở Mích-pa mà Nê-bu-xa-ra-đan, chỉ huy quân thị vệ, đã giao cho Ghê-đa-lia con A-hi-cam. Vậy Ích-ma-ên con Nê-tha-nia bắt họ và qua chỗ dân Am-môn.11Nhưng Giô-ha-nan con Ca-rê-a và tất cả các sĩ quan chỉ huy quân đội hay tin về những tai hại mà Ích-ma-ên con Nê-tha-nia gây ra.12Vậy, họ tập hợp lực lượng và đi đánh Ích-ma-ên con Nê-tha-nia. Họ tìm thấy ông ấy ở hồ lớn tại Ghi-bê-ôn.13Khi toàn thể những người đi cùng Ích-ma-ên thấy Giô-ha-nan con Ca-rê-a và tất cả các sĩ quan chỉ huy quân đội đi với ông ấy, họ rất vui.14Tất cả những người bị Ích-ma-ên bắt tại Mích-pa quay lại và đến gặp Giô-ha-nan con Ca-rê-a.15Nhưng Ích-ma-ên con Nê-tha-nia cùng tám người chạy trốn khỏi Giô-ha-nan. Ông đến gặp dân Am-môn.16Giô-ha-nan con Ca-rê-a và tất cả các sĩ quan chỉ huy quân đội của ông đem khỏi Mích-pa tất cả những người đã được giải cứu khỏi Ích-ma-ên con Nê-tha-nia. Việc này xảy ra sau khi Ích-ma-ên đã giết Ghê-đa-lia con A-hi-cam. Giô-ha-nan và những người đi cùng ông đem theo những trai tráng, lính, phụ nữ và trẻ con, và quan thái giám đã được giải cứu tại Ghi-bê-ôn.17Họ đi và ở tại Ghê-ru Chim-ham trong một thời gian, gần Bết-lê-hem. Họ tính đến Ai Cập18vì sợ dân Canh-đê. Họ sợ chúng vì Ích-ma-ên con Nê-tha-nia đã giết Ghê-đa-lia con A-hi-cam, là người mà vua Ba-by-lôn đã lập cai trị xứ. 421Sau đó, tất cả các sĩ quan chỉ huy quân đội và Giô-ha-nan con Ca-rê-a, Giê-xa-nia con Hô-sa-gia, và toàn thể dân chúng từ người thấp kém nhất cho đến người quyền thế nhất đến gặp tiên tri Giê-rê-mi.2Họ nói cùng ông: “Xin nhậm lời cầu xin của chúng tôi. Xin cầu thay cho chúng tôi, tức là dân còn sót lại này, với Giê-hô-va Đức Chúa Trời của ông, vì chúng tôi quá ít người, như ông thấy đó.3Xin ông hãy cầu hỏi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của ông chỉ cho chúng tôi đường phải đi và việc phải làm.”4Vậy, tiên tri Giê-rê-mi trả lời họ: “Tôi có nghe các ông. Kìa, tôi sẽ cầu nguyện với Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ông như các ông đề nghị. Tôi sẽ nói với các ông bất cứ điều gì Đức Giê-hô-va trả lời. Tôi sẽ không giấu các ông điều chi cả.”5Họ nói với Giê-rê-mi: “Nguyện Đức Giê-hô-va là Đấng làm chứng chân thật và thành tín với chúng tôi, nếu chúng tôi không làm theo lời Giê-hô-va Đức Chúa Trời ông bảo chúng tôi làm.6Dù điều đó tốt hay xấu, chúng tôi sẽ vâng theo tiếng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời ông, là Đấng mà chúng tôi sai ông đến, để chúng tôi được yên bình khi chúng tôi vâng theo tiếng Giê-hô-va Đức Chúa Trời ông.”7Mười ngày sau, có lời của Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi.8Vậy, Giê-rê-mi gọi Giô-ha-nan con Ca-rê-a và tất cả các sĩ quan chỉ huy quân đội của ông ấy, và toàn thể dân chúng từ người thấp kém nhất đến người quyền thế nhất.9Ông nói cùng họ: “Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, Đấng mà các ông đã sai tôi đến, để tôi trình lời cầu xin của các ông trước mặt Ngài. Đức Giê-hô-va phán như vầy,10‘Nếu các ngươi quay trở lại và sống trong xứ này, Ta sẽ xây dựng các ngươi và không đánh sập các ngươi; Ta sẽ vun trồng các ngươi chứ không nhổ các ngươi, vì Ta sẽ rút tai họa mà Ta đã giáng trên các ngươi.11Chớ sợ vua Ba-by-lôn, là kẻ mà các ngươi đang sợ hãi. Chớ sợ nó – Đức Giê-hô-va phán vậy – vì Ta ở cùng các ngươi đặng giải cứu các ngươi khỏi tay nó.12Vì Ta sẽ tỏ lòng nhân từ với các ngươi. Ta sẽ thương xót các ngươi, Ta sẽ đem các ngươi về lại xứ này.13Nhưng nếu các ngươi nói: “Chúng tôi sẽ không ở trong xứ này” – nếu các ngươi không nghe tiếng Ta, là tiếng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi.14Nếu các ngươi nói: “Không! Chúng tôi sẽ đến xứ Ai Cập, là nơi chúng tôi sẽ không thấy chiến tranh, chúng tôi sẽ không nghe tiếng kèn, chúng tôi sẽ không đói. Chúng tôi sẽ sống ở đó.”15Bây giờ hãy nghe lời này của Đức Giê-hô-va, hỡi những kẻ còn sót lại của Giu-đa. Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: ‘Nếu các ngươi thật hướng về Ai Cập, đến sống tại đó,16thì gươm dao mà các ngươi sợ hãi sẽ bắt kịp các ngươi trong xứ Ai Cập. Đói kém mà các ngươi lo lắng sẽ đuổi theo các ngươi đến tận Ai Cập. Và các ngươi sẽ chết tại đó.17Việc ấy sẽ xảy đến khi tất cả những ai đến Ai Cập sống tại đó, chúng sẽ chết bởi gươm dao, đói kém, hoặc tai họa. Sẽ không ai sống sót, sẽ không ai thoát khỏi tai họa mà Ta sẽ giáng trên chúng.18Vì Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Như cơn thạnh nộ và cơn giận của Ta giáng trên dân cư Giê-ru-sa-lem thể nào, thì cơn thạnh nộ của Ta sẽ giáng trên các ngươi nếu các ngươi đến Ai Cập. Các ngươi sẽ trở thành đối tượng bị rủa sả và ghê tởm, đối tượng bị nguyền rủa, và một điều nhục nhã. Các ngươi sẽ không còn thấy nơi này nữa.’”19Sau đó, Giê-rê-mi nói: “Đức Giê-hô-va đã nói về quý vị - hỡi dân Giu-đa còn sót lại. Đừng đến Ai Cập! Quý vị chắc chắn biết rằng tôi đã làm chứng nghịch lại quý vị hôm nay.20Vì quý vị sẽ trả giá bằng mạng sống mình khi sai tôi đến gặp Giê-hô-va Đức Chúa Trời quý vị và nói rằng: ‘Xin cầu thay cho chúng tôi lên Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng tôi. Xin cho chúng tôi biết lời Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi phán, chúng tôi sẽ làm theo.’21Vì hôm nay tôi đã thuật lại cho quý vị, nhưng quý vị không nghe theo tiếng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời quý vị hoặc làm theo bất cứ điều gì Ngài sai tôi đến truyền cho quý vị.22Vậy bây giờ, chắc chắn quý vị biết rằng mình sẽ chết bởi gươm dao, đói kém, và tai họa trong xứ mà quý vị muốn đến sống.” 431Giê-rê-mi đã tuyên bố xong cho toàn dân sự mọi lời Giê-hô-va Đức Chúa Trời của họ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời của họ đã bảo ông phải nói.2A-xa-ria con Hô-sa-gia, Giô-ha-nan con Ca-rê-a, và tất cả những người ngạo mạn nói với Giê-rê-mi: “Ông nói dối. Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi không sai ông đến nói rằng: ‘Đừng đến sống tại Ai Cập.’3Vì Ba-rúc con Nê-ri-gia xúi giục ông chống lại chúng tôi để ông phó chúng tôi vào tay người Canh-đê, khiến chúng tôi chết và bị bắt làm phu tù ở Ba-by-lôn.”4Vậy Giô-ha-nan con Ca-rê-a, tất cả các chỉ huy quân đội, và toàn thể dân chúng từ chối nghe theo tiếng Giê-hô-va kêu gọi sống trong xứ Giu-đa.5Giô-ha-nan con Ca-rê-a và tất cả sĩ quan chỉ huy quân đội đem hết thảy những người Giu-đa còn sót lại, là những người đã trở về từ các nước họ bị tản lạc đến sống trong xứ Giu-đa.6Họ dẫn theo đàn ông, đàn bà, trẻ con và các con gái của vua, cùng những người mà Nê-bu-xa-ra-đan, đại úy quân thị vệ, đã để ở lại với Ghê-đa-lia con A-hi-cam, cháu Sa-phan. Họ cũng dẫn theo tiên tri Giê-rê-mi và Ba-rúc con Nê-ri-gia.7Họ đến Ai Cập, đến Ta-phan-hết, vì họ không nghe theo tiếng Đức Giê-hô-va.8Vậy có lời Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi tại Ta-phan-hết,9“Hãy lấy vài hòn đá lớn trước mặt dân Giu-đa, giấu trong vỉa hè pha vữa ở lối vào cung vua Pha-ra-ôn tại Ta-phan-hết.”10Sau đó hãy nói với chúng: “Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: ‘Kìa, Ta sẽ sai sứ giả đến gọi Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn là đầy tớ Ta. Ta sẽ lập ngai nó trên những hòn đá mà ngươi, Giê-rê-mi, đã chôn. Nê-bu-cát-nết-sa sẽ dựng lều trên chúng.11Nó sẽ đến và đánh xứ Ai Cập. Ai bị định cho chết sẽ chết. Ai bị định làm phu tù sẽ bị bắt làm phu tù. Và ai bị định cho gươm dao sẽ bị phó cho gươm dao.12Sau đó, Ta sẽ nhen lửa trong các đền thờ thần của Ai Cập. Nê-bu-cát-nết-sa sẽ phóng hỏa đốt chúng hoặc chiếm chúng. Nó sẽ dọn sạch xứ Ai Cập như người chăn chiên dọn sạch sâu hại khỏi quần áo họ. Nó sẽ ra khỏi đó trong sự chiến thắng.13Nó sẽ bẻ gãy các cột đá ở Hê-li-ô-pô-lít trong xứ Ai Cập. Nó sẽ đốt các thành thờ thần của Ai Cập.’” 441Đây là lời phán cùng Giê-rê-mi về những người Giu-đa sống trong xứ Ai Cập, tức những người ở tại Mích-đôn, Ta-phan-hết, Mem-phi, và trong đất Pa-trốt.2“Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Chính các ngươi đã thấy mọi tai họa mà Ta giáng trên Giê-ru-sa-lem và tất cả các thành của Giu-đa. Kìa, hôm nay chúng là những đống hoang tàn. Không ai ở trong các thành ấy.3Việc này xảy ra là bởi cớ những việc ác mà chúng đã làm đặng xúc phạm Ta bằng cách xông hương và thờ các thần khác. Đây là những thần mà chính chúng, các ngươi, hoặc tổ phụ các ngươi không biết.4Vậy, Ta cứ hết lần này đến lần khác sai tôi tớ Ta là những tiên tri đến với chúng. Ta sai họ đi nói rằng: ‘Hãy ngưng làm những việc gớm ghiếc mà Ta ghét.’5Nhưng chúng không nghe. Chúng không chịu chú ý hoặc từ bỏ việc gian ác mình khi xông hương cho các thần khác.6Vậy cơn giận và cơn thạnh nộ của Ta đổ ra và nhen lửa trên các thành của Giu-đa và đường phố Giê-ru-sa-lem. Chúng trở nên hoang tàn và bị tàn phá cho đến ngày nay.”7Vậy bây giờ Giê-hô-va, Đức Chúa Trời vạn quân và Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: “Sao các ngươi làm điều ác chống lại chính mình? Sao các ngươi để cho chính mình bị chặt bỏ khỏi Giu-đa – gồm đàn ông, đàn bà, trẻ con và trẻ sơ sinh? Sẽ không ai trong các ngươi còn sót lại.8Bởi sự gian ác các ngươi, các ngươi đã xúc phạm Ta bằng việc làm của chính tay mình, xông hương cho các thần khác trong xứ Ai Cập là nơi các ngươi đến cư ngụ. Các ngươi đến đó để bị hủy diệt, trở thành một đối tượng bị nguyền rủa và nỗi nhục nhã giữa các dân trên đất.9Các ngươi đã quên sự gian ác của tổ phụ các ngươi và sự gian ác mà các vua Giu-đa và vợ chúng đã phạm sao? Các ngươi đã quên việc ác mà chính các ngươi và vợ các ngươi phạm trong xứ Giu-đa và trên các đường phố Giê-ru-sa-lem sao?10Đến hôm nay, chúng vẫn không hạ mình. Chúng không tôn trọng luật pháp hoặc sắc lệnh Ta đã đặt trước mặt chúng và tổ phụ chúng và cũng chẳng bước theo những điều ấy.”11Vậy, Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: “Kìa, Ta sẽ xây mặt nghịch cùng các ngươi, Ta sẽ giáng tai họa trên các ngươi và hủy diệt Giu-đa.12Ta sẽ lấy dân Giu-đa còn sót lại, tức những người đi đến sống ở Ai Cập. Ta sẽ làm như vậy để tất cả bọn chúng sẽ diệt vong trong xứ Ai Cập. Chúng sẽ ngã xuống bởi gươm dao và đói kém. Kẻ nhỏ người lớn sẽ hư vong bởi gươm dao và đói kém. Chúng sẽ chết và trở thành đối tượng nguyền rủa, rủa sả, sỉ nhục, và gớm ghiếc.13Ta sẽ phạt dân cư ngụ trong xứ Ai Cập như Ta đã phạt Giê-ru-sa-lem bằng gươm dao, đói kém, và tai họa.14Không có người lánh nạn nào hoặc kẻ sống sót nào trong số dân Giu-đa còn sót lại đến sống trong xứ Ai Cập trở về xứ Giu-đa, thậm chí dù chúng muốn quay về sống tại đó. Sẽ không có ai trong số chúng trở về, ngoại trừ một ít người trốn thoát khỏi đó.”15Vậy, tất cả những người đàn ông biết rằng vợ mình đang xông hương cho các thần khác, và những người đàn bà trong một hội đồng, và toàn thể những người sống trong xứ Ai Cập tại Pa-trốt trả lời Giê-rê-mi.16Họ nói: “Về lời mà ông nhân danh Đức Giê-hô-va nói với chúng tôi: Chúng tôi sẽ không nghe ông.17Vì chúng tôi chắc chắn sẽ làm tất cả những việc mà chúng tôi đã nói là sẽ làm: xông hương cho Nữ vương trên Trời và đổ của lễ quán cho thần ấy y như chúng tôi, tổ phụ chúng tôi, các vua, và những lãnh đạo của chúng tôi đã làm trong các thành của Giu-đa và trên đường phố Giê-ru-sa-lem. Chúng tôi sẽ có đầy đủ thức ăn và phồn vinh, chẳng trải qua tai họa gì.18Khi chúng tôi ngưng làm những việc này, không xông hương cho Nữ vương trên Trời và không đổ của lễ quán cho thần ấy, tất cả chúng tôi đều bị nghèo khó và chết bởi gươm dao và đói kém.”19Những người đàn bà này nói: “Khi chúng tôi xông hương trước mặt Nữ vương trên Trời và đổ của lễ quán cho thần ấy, chúng tôi đã làm những việc này mà chồng chúng tôi không biết sao?”20Giê-rê-mi nói với toàn thể dân sự - gồm đàn ông và đàn bà, và tất cả những người trả lời ông – ông công bố rằng:21“Đức Giê-hô-va không nhớ hương mà quý vị, tổ phụ quý vị, các vua và lãnh đạo của quý vị, và dân trong xứ, đã xông trong các thành Giu-đa và trên đường phố Giê-ru-sa-lem sao? Vì Đức Giê-hô-va nhớ điều này; Ngài nghĩ đến điều đó.22Do vậy, Ngài không thể chịu đựng điều đó nữa vì những thói tục gian ác của quý vị, vì sự ghê tởm mà quý vị đã làm. Xứ của quý vị sẽ trở nên hoang vu, ghê rợn, và là đối tượng bị nguyền rủa, đến nỗi không còn ai sống trong xứ đó nữa cho đến ngày nay.23Vì quý vị xông hương và phạm tội chống lại Đức Giê-hô-va, và vì quý vị không nghe theo tiếng Ngài, luật pháp của Ngài, giới mạng, hoặc sắc lệnh theo giao ước của Ngài, nên tai họa này giáng trên quý vị cho đến ngày nay.”24Giê-rê-mi nói với toàn thể dân sự và tất cả những người đàn bà: “Hãy nghe lời của Đức Giê-hô-va, hỡi những người Giu-đa trong xứ Ai Cập.25Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: ‘Các ngươi và vợ các ngươi đã nói và bắt tay thực hiện việc các ngươi đã định: “Chúng tôi chắc chắn sẽ thực thi lời thề mà chúng tôi đã lập đặng thờ Nữ vương trên Trời, đổ của lễ quán cho thần ấy.” Bây giờ hãy thực hiện lời thề ấy; hãy thực thi chúng.’26Vậy bây giờ, hãy nghe lời của Đức Giê-hô-va, hỡi toàn thể dân Giu-đa trong xứ Ai Cập: ‘Kìa, Ta đã nhân danh vĩ đại của Ta mà thề - Đức Giê-hô-va phán. Danh Ta sẽ không còn được xưng bởi miệng của bất kỳ người nào trong dân Giu-đa tại xứ Ai Cập nữa, hỡi những kẻ nói rằng: “Thật như Chúa Giê-hô-va hằng sống.”27Kìa, Ta sẽ canh chúng đặng giáng tai họa chứ chẳng phải sự tốt lành. Những người Giu-đa trong xứ Ai Cập sẽ bỏ mạng vì gươm dao và đói kém cho đến khi tất cả chúng đều bị diệt hết.28Những kẻ còn sống sót thoát khỏi gươm dao sẽ rời Ai Cập trở về xứ Giu-đa, chỉ một ít trong số chúng. Vậy tất cả những kẻ còn sót lại trong dân Giu-đa đến sống ở Ai Cập sẽ biết lời nào ứng nghiệm: lời của Ta hoặc của chúng.29Này sẽ là dấu cho các ngươi – Đức Giê-hô-va phán vậy – Ta sẽ nghịch cùng các ngươi trong nơi này, để các ngươi biết rằng lời của Ta chắc chắn sẽ giáng tai họa trên các ngươi.’30Đức Giê-hô-va phán như vầy: ‘Kìa, Ta sẽ phó Pha-ra-ôn Hốp-ra, vua Ai Cập, vào tay các kẻ thù của nó và những kẻ tìm mạng sống nó. Việc ấy sẽ tương tự như khi Ta phó Sê-đê-kia vua Giu-đa vào tay Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn, là kẻ thù tìm mạng sống của nó.’” 451Đây là lời mà tiên tri Giê-rê-mi nói với Ba-rúc con Nê-ri-gia, khi ông chép trong một cuộn sách những lời bởi miệng Giê-rê-mi đọc – nhằm năm thứ tư trong đời Giê-hô-gia-kim, con Giô-si-a, vua Giu-đa, ông nói,2”Hỡi Ba-rúc, Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy:3Ngươi đã nói: ‘Khốn thay cho tôi, vì Đức Giê-hô-va đã thêm sự cùng cực vào sự đau khổ của tôi. Tôi mệt nhọc vì than thở; tôi không được yên nghỉ.’4Này là lời ngươi phải nói với ông ấy: ‘Đức Giê-hô-va phán như vầy: Kìa, việc Ta đã xây, Ta sẽ đánh đổ. Việc Ta đã vun trồng, Ta sẽ nhổ. Việc này đúng trên khắp thế gian.5Nhưng ngươi đang trông đợi những việc lớn cho mình sao? Đừng hy vọng điều ấy. Vì kìa, tai họa sẽ giáng trên khắp nhân loại – Đức Giê-hô-va phán vậy – nhưng Ta sẽ ban mạng sống cho ngươi làm của cướp ở bất cứ nơi nào ngươi đến.’” 461Có lời Đức Giê-hô-va phán cùng tiên tri Giê-rê-mi về các nước.2Về Ai Cập: “Đây là lời phán về quân đội của Pha-ra-ôn Nê-cô, vua Ai Cập tại Cạt-kê-mít bên sông Ơ-phơ-rát. Đây là quân mà Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn đã đánh bại vào năm thứ tư trong đời Giê-hô-gia-kim, con Giô-si-a, vua Giu-đa.3Hãy chuẩn bị khiên nhỏ và lớn, hãy ra trận.
4Hãy thắng yên ngựa và cưỡi, hỡi các kỵ sĩ. Hãy đứng vào hàng ngũ, đầu đội mũ sắt. Hãy đánh bóng giáo và mặc áo giáp. 5Ta thấy gì? Chúng khiếp sợ và chạy trốn, vì lính của chúng bị bại trận. Chúng lẩn trốn và không quay nhìn lại. Sự kinh hãi vây quanh – Đức Giê-hô-va phán vậy –
6người nhanh chân không thể bỏ chạy, lính không thể trốn thoát. Chúng trượt chân ở phía bắc và ngã bên Sông Ơ-phơ-rát.7Người này là ai mà nổi lên như sông Nin, như sông nổi sóng và chảy cuồn cuộn?
8Ai Cập nổi lên như sông Nin, như sông nổi sóng và chảy cuồn cuộn. Nó nói: ‘Ta sẽ chảy lên; Ta sẽ phủ khắp đất. Ta sẽ hủy diệt các thành phố cùng cư dân nó.
9Hỡi ngựa, hãy xông lên. Hỡi xe chiến mã, hãy giận dữ. Hãy để chiến sĩ đi ra, hỡi Cút và Phút, những người có tài cầm khiên, và Lu-đim, những người có tài giương cung.’ 10Hôm đó sẽ là ngày báo thù của Chúa Giê-hô-va vạn quân, chính Ngài sẽ báo thù trên kẻ thù Ngài. Gươm dao sẽ cắn xé thỏa dạ. Nó sẽ uống say huyết. Vì sẽ có một tế lễ dâng cho Chúa Giê-hô-va vạn quân tại xứ phương bắc bên Sông Ơ-phơ-rát. 11Hãy đi lên Ghi-lê-át và lấy thuốc, hỡi trinh nữ Ai Cập.
12Ngươi đắp nhiều thuốc cũng chẳng có ích chi. Đất đầy dẫy lời than vãn của ngươi, vì lính chiến đâm đầu vào nhau; cả hai đều ngã xuống.” 13Đây là lời Đức Giê-hô-va phán cùng tiên tri Giê-rê-mi khi Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn đến đánh xứ Ai Cập:14”Hãy thuật lại cho Ai Cập và công bố ở Mích-đôn và Mem-phi. Tại Ta-phan-hê chúng nói: “Hãy vào hàng ngũ và sẵn sàng, vì gươm dao sẽ cắn xé xung quanh ngươi.15Sao thần A-pi chạy trốn? Sao thần bò đực của ngươi không đứng nổi? Đức Giê-hô-va đã quăng nó xuống.
16Ngài làm cho nhiều người vấp ngã. Mỗi lính chiến va vào nhau. Chúng nói: “Đứng lên. Chúng ta hãy về nhà. Chúng ta hãy trở về dân của chúng ta, về xứ của chúng ta. Chúng ta hãy rời khỏi thanh gươm ức hiếp.”
17Chúng tuyên bố: “Pha-ra-ôn vua Ai Cập chỉ là tiếng ồn, là người đã đánh mất cơ hội.” 18“Thật như Ta hằng sống - vua tuyên bố như vầy - bởi danh Ta là Đức Giê-hô-va vạn quân, người ta sẽ đến học như Núi Tha-bô và Cạt-mên bên bờ biển.
19Chính các ngươi hãy chuẩn bị hành lý để lên đường làm phu tù, hỡi con gái ở Ai Cập. Vì Mem-phi sẽ trở thành một cớ kinh khiếp và hoang tàn đến nỗi không ai ở đó nữa. 20Ai Cập là một con bê con còn rất nhỏ, nhưng một con mòng bay đến từ phương bắc chích nó, hỡi các con gái ở Ai Cập. Nó đang đến.
21Các lính chiến ở giữa quân Ai Cập trông như bò đực được vỗ béo, nhưng chúng cũng sẽ ngoảnh mặt và bỏ chạy. Chúng sẽ không đứng với nhau, vì ngày tai họa đang đến gần, ấy là thời điểm đoán phạt.
22Ai Cập huýt sáo như rắn và bò đi chỗ khác. Họ sẽ xông lên trước như thợ khắc gỗ bằng búa. 23Họ sẽ triệt hạ các cánh rừng – Đức Giê-hô-va phán vậy – dù rất dày đặc.
24Con gái của Ai Cập sẽ bị khiến xấu hổ. Nàng sẽ bị phó vào tay dân từ phía bắc.” 25Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: “Kìa, Ta sẽ trừng phạt Am-môn ở Thê-be, Pha-ra-ôn, Ai Cập, và các thần của nó, các vua Pha-ra-ôn, và những ai tin nơi họ.26Ta sẽ phó chúng vào tay một trong những kẻ tìm hại mạng sống chúng, trong xứ của Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn và các tôi tớ của ông.”27“Nhưng còn ngươi, hỡi Gia-cốp, tôi tớ ta, chớ sợ hãi. Chớ mất tinh thần, hỡi Y-sơ-ra-ên, vì kìa, Ta sẽ đem ngươi về từ phương xa, dòng dõi ngươi sẽ nên thánh, thoát khỏi sự phu tù. Sau đó, Gia-cốp sẽ trở về, tìm được sự an bình, và yên ninh, sẽ không ai làm ông hoảng sợ.
28Hỡi Gia-cốp, tôi tớ Ta, chớ sợ hãi – Đức Giê-hô-va phán vậy – vì Ta ở cùng ngươi, Ta sẽ hoàn toàn hủy diệt các nước mà Ta đã đuổi các ngươi đến. Nhưng Ta sẽ không diệt hết các ngươi. Ta sẽ kỷ luật các ngươi cách công bằng và đoán phạt các ngươi.’”” 471Đây là lời Đức Giê-hô-va phán cùng tiên tri Giê-rê-mi về dân Phi-li-tin. Ngài phán cùng ông trước khi Pha-ra-ôn đánh Ga-xa.2“Đức Giê-hô-va phán như vầy: Kìa, những luồng nước đang nổi lên từ phương bắc. Chúng sẽ như sông chảy tràn! Chúng sẽ chảy tràn khắp xứ và mọi vật trong xứ, các thành phố và dân cư! Ai nấy sẽ kêu cầu giúp đỡ, và mọi dân cư trong xứ sẽ than khóc.3Khi nghe tiếng giậm của vó ngựa, khi nghe tiếng gầm của xe chiến mã và tiếng ồn của bánh xe, cha sẽ không giúp con cái vì họ yếu ớt.
4Vì ngày tàn phá toàn thể dân Phi-li-tin sẽ đến, loại trừ khỏi Ty-rơ và Si-đôn những kẻ còn sống sót muốn giúp đỡ chúng. Vì Đức Giê-hô-va sẽ tàn phá dân Phi-li-tin, là những kẻ còn sót lại của đảo Cáp-tô. 5Ga-xa sẽ cạo đầu. Còn Ách-kê-lôn, những kẻ còn sót lại trong thung lũng sẽ nín lặng. Ngươi còn tự rạch da mình đến chừng nào?
6Thật khốn thay, gươm của Đức Giê-hô-va!
7Làm sao ngươi có thể yên ổn được, vì Đức Giê-hô-va đã truyền dặn ngươi. Ngài đã kêu gọi ngươi đánh Ách-kê-lôn và chống lại miền duyên hải.” 481Về Mô-áp, Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: “Khốn cho Nê-bô, vì nó đã bị tàn phá. Ki-ri-a-tha-im bị chiếm và làm nhục. Pháo đài nó bị đổ nát và nhục nhã.2Mô-áp không còn được kính trọng nữa. Kẻ thù nó ở Hẹt-bôn lập mưu hại nó. Chúng nói: ‘Nào, chúng ta hãy hủy diệt dân đó. Người điên cũng sẽ chết – gươm dao sẽ đuổi theo ngươi.’ 3Hãy nghe! Có tiếng hét từ Hô-rô-na-im, là nơi điêu tàn và đổ nát.
4Mô-áp đã bị diệt. Con trẻ nó lên tiếng kêu la.
5Chúng lên đồi Lu-hít khóc lóc, trên đường xuống Hô-rô-na-im, người ta nghe tiếng la hét vì sự hủy diệt. 6Hãy chạy trốn! Hãy cứu mạng ngươi và hãy như cây cối trong hoang mạc.
7Vì ngươi tin vào thói quen và của cải mình, ngươi cũng sẽ bị bắt. Kê-mốt sẽ bị bắt làm phu tù, cùng với các thầy tế lễ và lãnh đạo của nó. 8Kẻ hủy diệt sẽ đến từng thành phố; không thành nào thoát khỏi. Thung lũng sẽ tàn lụi và đồng bằng sẽ bị tàn phá, như Đức Giê-hô-va đã phán.
9Hãy chắp cánh cho Mô-áp, vì nó chắc phải bay xa. Các thành của nó sẽ trở thành hoang mạc, không ai sống ở đó.
10Đáng rủa cho kẻ nào lười biếng làm việc của Đức Giê-hô-va! Kẻ nào không dùng gươm làm đổ huyết đáng bị rủa! 11Mô-áp cảm thấy an toàn từ khi nó còn nhỏ. Nó như rượu chưa từng được đổ từ bình này qua bình kia. Nó chưa bao giờ bị bắt làm phu tù. Như vậy, nó có vị ngon; mùi thơm của nó vẫn y nguyên.
12Kìa, những ngày gần đến – Đức Giê-hô-va phán vậy - ấy là khi Ta sai đến cùng nó những kẻ đổ nó ra và đổ tất cả các bình của nó và đập vỡ các vại của nó. 13Sau đó, Mô-áp sẽ hổ thẹn bởi Kê-mốt như nhà Y-sơ-ra-ên hổ thẹn bởi Bê-tên, là đối tượng chúng trông cậy.
14Làm sao ngươi có thể nói rằng: ‘Chúng tôi là chiến sĩ, là lính chiến mạnh mẽ’? 15Mô-áp sẽ bị tàn phá và các thành của nó sẽ bị tấn công. Vì những kẻ trai trẻ giỏi nhất của nó đã đi đến nơi tàn sát. Đây là lời tuyên bố của vua! Đức Giê-hô-va vạn quân là danh Ngài.
16Tai họa của Mô-áp sẽ sớm xảy đến; tai ương vội tới mau.
17Tất cả các ngươi là những kẻ ở quanh Mô-áp, hãy than khóc. Và tất cả các ngươi là những kẻ biết danh tiếng nó, hãy la lên rằng: ‘Thật khốn thay, cây trượng kiên cố, cây gậy vinh quang, đã bị gãy.’ 18Hãy bước xuống khỏi nơi vinh quang của ngươi và ngồi trên đất khô, hỡi con gái sống trong thành Đi-bôn. Vì kẻ hủy diệt Mô-áp sẽ tấn công ngươi, tức là kẻ hủy diệt đồn lũy ngươi.
19Hãy đứng trên đường và xem, hỡi dân sống ở A-rô-ơ. Hãy hỏi những kẻ chạy trốn và chạy thoát. Hãy hỏi: ‘Chuyện gì xảy ra vậy?’
20Mô-áp bị sỉ nhục, vì nó đã bị đánh tan tác. Hãy la hét và than khóc; hãy kêu cầu giúp đỡ. Hãy nói với dân bên Sông Ạt-nôn rằng Mô-áp đã bị tàn phá. 21Bấy giờ, sự trừng phạt đã đến với vùng cao nguyên, Hô-lôn, Gia-xa, và Mê-pha-át,
22Đi-bôn, Nê-bô, và Bết Đíp-la-tha-im,23Ki-ri-a-tha-im, Bết Ga-mun, và Bết Mê-ôn,24Kê-ri-ốt và Bốt-ra, và hết thảy các thành trong xứ Mô-áp – thành xa nhất và thành gần nhất.25Sừng của Mô-áp đã bị chặt đứt; cánh tay nó đã bị gãy – Đức Giê-hô-va phán vậy. 26Hãy cho nó say, vì nó kiêu căng chống nghịch Ta, là Đức Giê-hô-va. Bấy giờ Mô-áp vỗ tay kinh tởm ngay nơi nó đã mửa, vì nó cũng trở thành trò cười.
27Chẳng phải Y-sơ-ra-ên trở thành trò cười cho ngươi sao? Có phải nó bị bắt quả tang giữa những kẻ trộm, đến nỗi ngươi lắc đầu chê nó khi ngươi nhắc đến nó? 28Hãy bỏ các thành và trại trên vách đá, hỡi dân cư Mô-áp. Hãy như chim bồ câu làm tổ trên miệng vực thẳm.
29Chúng ta đã nghe về sự kiêu căng của Mô-áp – sự ngạo mạn của nó, thái độ kiêu kỳ, tính tự phụ, tính tự khoe khoang và tính tự cao tự đại trong lòng nó. 30Đức Giê-hô-va phán vậy – chính Ta biết lời thách thức của nó, là lời vô dụng, như việc làm của nó.
31Vậy Ta sẽ khóc than cho Mô-áp, và Ta sẽ kêu la buồn bã cho toàn cõi Mô-áp. Ta sẽ than khóc cho dân Kiệt Hê-rết.
32Ta sẽ khóc cho ngươi nhiều hơn Ta khóc cho Gia-xe, hỡi cây nho của Síp-ma! Các nhánh ngươi vươn ra Biển Muối và vươn xa đến tận Gia-xe. Kẻ hủy diệt phá hại trái cây mùa hè và rượu ngươi. 33Sự vui mừng và liên hoan đã bị cất khỏi cây cối đầy quả và xứ Mô-áp. Ta khiến máy ép nho hết rượu. Chúng sẽ không vui mừng hớn hở giẫm lên. Tiếng hò hét sẽ không phải là tiếng hò hét vui mừng. 34Từ tiếng la hét ở Hẹt-bôn đến tận Ê-lê-a-lê, người ta nghe tiếng của chúng ở Gia-ha, từ Xoa đến Hô-rô-na-im và Ê-lát Sê-li-sia, kể từ khi nước ở Nim-rim khô cạn.
35Ta sẽ diệt khỏi Mô-áp kẻ nào dâng lễ vật tại các điện thờ và kẻ nào xông hương cho các thần của nó – Đức Giê-hô-va phán vậy. 36Lòng Ta than khóc cho Mô-áp như tiếng sáo. Lòng Ta than khóc như tiếng sáo cho dân Kiệt Hê-rết. Sự giàu có mà chúng tích lũy đã biến mất.
37Mỗi người đều trọc đầu và cạo râu. Tay nào cũng bị rạch, và chúng quấn vải gai quanh lưng. 38Khắp nơi đều để tang, trên mỗi mái nhà và quảng trường ở Mô-áp. Vì Ta đã tiêu diệt Mô-áp như bình mà chẳng ai muốn dùng – Đức Giê-hô-va phán vậy.
39Nó đã bị tiêu tan rồi! Chúng la hét than khóc! Mô-áp quay lưng nhục nhã! Mô-áp sẽ trở thành đối tượng bị nhạo báng và là nỗi khiếp sợ cho những dân ở quanh nó.” 40Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Kìa, kẻ thù sẽ bay đến như chim đại bàng, giang cánh trên Mô-áp.41Kê-ri-ốt đã bị chiếm, đồn lũy nó bị bao vây. Vì trong ngày đó, lòng của chiến sĩ Mô-áp sẽ như lòng của đàn bà chuyển dạ sinh con. 42Vậy, dân Mô-áp sẽ bị tiêu diệt, vì chúng ngạo mạn trước mặt Ta, là Đức Giê-hô-va.
43Sự khiếp sợ và hố sâu, cạm bẫy đang đến trên ngươi, hỡi dân cư Mô-áp – Đức Giê-hô-va phán vậy.
44Ai chạy trốn vì khiếp sợ sẽ rơi xuống hố, và ai trèo ra khỏi hố sẽ bị dính bẫy, vì Ta sẽ giáng điều này trên chúng vào năm Ta báo thù chúng – Đức Giê-hô-va phán vậy. 45Những kẻ chạy trốn kiệt sức sẽ đứng dưới bóng Hẹt-bôn, vì lửa sẽ bùng cháy từ Hẹt-bôn, lửa đến từ giữa Si-hôn. Lửa sẽ thiêu hủy trán của Mô-áp và sọ của đám dân khoác lác. 46Thật khốn cho ngươi, hỡi Mô-áp! Dân Kê-mốt bị hủy diệt, con trai các ngươi bị bắt làm phu tù và con gái các ngươi bị bắt lưu đày.
47Nhưng Ta sẽ phục hồi vận mệnh của Mô-áp trong những ngày sau rốt – Đức Giê-hô-va phán vậy.” Sự đoán xét dân Mô-áp kết thúc tại đây. 491Về dân Am-môn, Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Y-sơ-ra-ên không có con ư? Trong Y-sơ-ra-ên không có ai để thừa hưởng sao? Tại sao Mô-lết chiếm Gát, và dân trong thành nó?2Vậy hãy xem, những ngày gần đến – Đức Giê-hô-va phán vậy - ấy là khi Ta ra hiệu lệnh chiến trận chống lại Ráp-ba giữa dân Am-môn, đến nỗi nó trở thành đống hiu quạnh và con gái nó sẽ bị lửa đốt cháy. Vì Y-sơ-ra-ên sẽ chiếm những kẻ đã chiếm nó,” Đức Giê-hô-va phán. 3“Hãy kêu gào ai oán, hỡi Hẹt-bôn, vì A-hi sẽ bị tàn phá! Hãy la lên, hỡi con gái Ráp-ba! Hãy mặc áo gai. Hãy than khóc và chạy lăng xăng vô ích, vì Mô-lết sẽ bị bắt làm phu tù, cùng với các thầy tế lễ và lãnh đạo của nó.
4Sao ngươi tự hào về sức mạnh mình? Sức mạnh ngươi sẽ tan biến, hỡi con gái vô tín, là những kẻ cậy vào của cải mình. Các ngươi nói: ‘Ai sẽ chống nghịch ta?’ 5Kìa, ta sẽ giáng sự khiếp sợ trên ngươi – Đức Giê-hô-va, Chúa vạn quân phán vậy – sự khiếp sợ này sẽ đến từ các dân xung quanh ngươi. Mỗi người trong các ngươi sẽ bị đuổi chạy tán loạn trước mặt chúng. Sẽ không ai tập hợp những kẻ chạy trốn.
6Nhưng sau việc này, Ta sẽ phục hồi vận mệnh của dân Am-môn – Đức Giê-hô-va phán vậy.” 7Về Ê-đôm, Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: “Người ta không còn tìm thấy sự khôn ngoan nào ở Thê-man nữa sao? Những kẻ hiểu biết không còn lời khuyên tốt lành nào sao? Sự khôn ngoan của chúng đã bị sai lệch sao?8Hãy chạy trốn! Hãy quay lại! Hãy ở trong các hố dưới đất, hỡi dân cư Đê-đan. Vì Ta sẽ giáng tai họa của Ê-sau trên nó khi Ta phạt nó. 9Nếu những kẻ thu hoạch nho đến với ngươi, chúng sẽ không chừa lại một ít sao? Nếu kẻ trộm đến vào ban đêm, chúng sẽ không trộm theo ý chúng muốn sao?
10Nhưng Ta đã lột trần Ê-sau. Ta để lộ những chỗ kín của nó. Nó sẽ không thể ẩn trốn. Con cái nó, anh em nó, và láng giềng nó bị hủy diệt, nó bị diệt vong.
11Hãy để cô nhi của ngươi lại. Ta sẽ chăm sóc cuộc sống chúng, những góa phụ của ngươi có thể tin cậy Ta.” 12Vì Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Kìa, những kẻ không đáng tội phải uống chén ấy. Chính ngươi nghĩ rằng ngươi sẽ thoát khỏi sự trừng phạt sao? Không đâu, vì ngươi chắc sẽ uống.13Chính Ta đã thề - Đức Giê-hô-va phán vậy – rằng Bốt-ra sẽ trở thành một sự khiếp sợ, nỗi ô nhục, nơi bị tàn phá, và đối tượng bị rủa sả. Tất cả các thành của nó sẽ trở thành nơi bị tàn phá mãi mãi.14Ta có nghe tin từ Đức Giê-hô-va, và một sứ giả được sai đến các dân: ‘Hãy tập hợp lại và đánh nó. Hãy sẵn sàng ra trận.’15“Vì kìa, Ta khiến ngươi trở nên nhỏ bé giữa các nước, bị người ta khinh thường.16Về sự sợ hãi của ngươi, sự kiêu ngạo trong lòng ngươi đã lừa dối ngươi, hỡi dân cư sống ở nơi vách đá, các ngươi chiếm những ngọn đồi cao nhất để làm tổ trên cao như chim đại bàng. Ta sẽ đem ngươi xuống khỏi đó – Đức Giê-hô-va phán vậy. 17Ê-đôm sẽ trở thành nỗi khiếp sợ cho những ai đi ngang qua. Ai nấy sẽ run rẩy và huýt sáo chê cười vì cớ mọi tai họa của nó.
18Như sự đổ nát của Sô-đôm và Gô-mô-rơ cùng các thành lân cận nó,” Đức Giê-hô-va phán: “sẽ không ai sống ở đó; không ai cư ngụ tại đó. 19Kìa, nó sẽ đi lên như sư tử ra từ rừng ở Giô-đanh đến những đồng cỏ xanh tươi. Ta sẽ mau chóng khiến Ê-đôm chạy khỏi đó, và Ta sẽ đặt người được chọn coi sóc nó. Ai giống như Ta, và ai kêu gọi Ta? Người chăn chiên nào có thể chống lại Ta?” 20“Vậy hãy nghe những kế hoạch mà Đức Giê-hô-va đã quyết định giáng trên Ê-đôm, là những kế hoạch Ngài đã lập chống lại dân cư Thê-man. Chúng chắc chắn sẽ bị lôi đi, ngay cả bầy chiên nhỏ nhất. Đồng cỏ của chúng sẽ biến thành những nơi điêu tàn. 21Khi nghe tiếng sụp đổ của chúng, đất rúng động. Người ta nghe tiếng hét đau buồn ở biển Sậy.
22Kìa, sẽ có người tấn công như chim đại bàng, sà xuống và sải cánh trên Bốt-ra. Trong ngày hôm đó, lòng của chiến sĩ Ê-đôm sẽ như lòng của đàn bà sinh con.” 23Về Đa-mách: “Ha-mát và Ạt-bát sẽ hổ thẹn, vì chúng có nghe tin tai họa. Chúng tan chảy! Chúng run rẩy như biển không thể yên lặng.24Đa-mách trở nên yếu ớt. Nó xây lưng chạy trốn; sự khiếp sợ bao vây nó. Nỗi đau buồn và đau đớn bao vây nó, như cơn đau của đàn bà sinh con.
25Dân nó nói rằng: ‘Làm sao mà thành danh tiếng, là thành mà tôi vui mừng, lại không bị bỏ rơi?’ 26Vậy, những người trai trẻ của nó sẽ ngã xuống trong quảng trường, toàn thể lính chiến của nó sẽ chết vào hôm đó – Đức Giê-hô-va vạn quân phán vậy.”
27“Vì Ta sẽ đốt lửa trên tường thành Đa-mách, lửa ấy sẽ thiêu đốt đồn lũy Bên Ha-đát.” 28Về Kê-đa và các nước của Hát-xo, Đức Giê-hô-va phán với Nê-bu-cát-nết-sa như vầy (bấy giờ Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn sẽ tấn công những nơi này): “Hãy trỗi dậy và đánh Kê-đa và hủy diệt dân phương đông.29Quân của nó sẽ chiếm lều chúng và bầy súc vật của chúng, các màn trại, và những vật dụng khác. Chúng sẽ chiếm lạc đà từ dân Kê-đa và la hét: ‘Khủng bố tứ phía!’ 30Hãy chạy trốn! Hãy lánh đi thật xa! Hãy ở trong hố sâu, hỡi dân cư Hát-so – Đức Giê-hô-va phán vậy – vì Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn đã lập kế hoạch chống lại ngươi. Hãy chạy trốn! Đừng trở lại!
31Hãy trỗi dậy! Hãy đánh nước phương đông, là dân sống an lành,” Đức Giê-hô-va phán. “Chúng không có cổng hoặc then cửa, dân của nó sống một mình. 32Lạc đà của chúng sẽ trở thành của cướp, tài sản dư dật của chúng sẽ trở thành chiến lợi phẩm. Ta sẽ phân tán những kẻ cắt tóc theo gió đến mọi góc đất, và Ta sẽ giáng họa trên chúng tứ phía – Đức Giê-hô-va phán vậy.
33Hát-so sẽ trở thành hang ổ chó rừng, một nơi hoang vu mãi mãi. Sẽ không ai sống ở đó; không người nào cư ngụ tại đó.” 34Đây là lời Đức Giê-hô-va phán cùng tiên tri Giê-rê-mi về Ê-lam. Ngài phán cùng ông vào đầu đời trị vì của Sê-đê-kia, vua Giu-đa,35“Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Kìa, Ta sẽ bẻ những kẻ bắn cung của Ê-lam, là sức mạnh chủ yếu của chúng.36Ta sẽ đem gió từ bốn phương trời, và Ta sẽ rải dân Ê-lam theo mọi hướng gió. Chẳng có nước nào mà những kẻ tản lạc từ Ê-lam lại không đến. 37Vậy, Ta sẽ đập vỡ Ê-lam trước mặt kẻ thù chúng và trước mặt những kẻ tìm mạng sống chúng. Ta sẽ giáng tai họa trên chúng, là cơn giận và cơn thạnh nộ của Ta – Đức Giê-hô-va phán vậy – và Ta sẽ sai gươm đuổi theo chúng cho đến chừng nào Ta tiêu diệt hết chúng.
38Sau đó, Ta sẽ đặt ngai Ta tại Ê-lam và hủy diệt các vua và những lãnh đạo của nó – Đức Giê-hô-va phán –
39trong những ngày sau rốt, Ta sẽ phục hồi vận mệnh của Ê-lam – Đức Giê-hô-va phán vậy.” 501Đây là lời Đức Giê-hô-va phán về Ba-by-lôn, xứ của người Canh-đê, bởi tay của tiên tri Giê-rê-mi,2“Hãy rao cho các nước và bảo chúng lắng nghe. Hãy giơ hiệu lệnh và bảo chúng lắng nghe. Đừng giấu. Hãy nói: ‘Ba-by-lôn bị bắt. Bên bị hổ thẹn. Mê-rô-đác mất can đảm. Các thần tượng nó mặc lấy sự xấu hổ; các hình tượng nó bị đánh đổ.’3Một nước từ phương bắc sẽ dấy lên nghịch lại nó, đặng khiến xứ nó thành nơi bị tàn phá. Sẽ không một ai hoặc thú vật nào sống trong xứ đó. Chúng sẽ bỏ chạy.
4Trong những ngày đó và trong lúc đó – Đức Giê-hô-va phán như vầy – dân Y-sơ-ra-ên và dân Giu-đa sẽ hiệp lại với nhau đặng than khóc và tìm kiếm Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng.
5Chúng sẽ hỏi đường đến Si-ôn và hướng về đó. Chúng sẽ đi và liên kết với Đức Giê-hô-va trong giao ước đời đời là giao ước sẽ không bị phá vỡ. 6Dân Ta như bầy chiên đi lạc. Những kẻ chăn chiên của chúng đã dẫn chúng lạc lối trên các ngọn núi; họ dẫn chúng đi lòng vòng từ đồi này qua đồi kia. Chúng đi, chúng quên nơi chúng đã sống.
7Ai đến gặp chúng cũng đều cắn nuốt chúng. Kẻ thù của chúng nói rằng: ‘Chúng ta không có tội, vì chúng đã phạm tội nghịch cùng Đức Giê-hô-va, nhà chân thật của chúng – Đức Giê-hô-va, niềm hy vọng của tổ phụ chúng.’ 8Hãy ra khỏi giữa Ba-by-lôn; hãy ra khỏi xứ Canh-đê; hãy như dê đực rời đi trước khi bầy còn lại rời khỏi.
9Vì kìa, Ta sẽ dấy lên một nhóm dân lớn từ phương bắc nghịch lại Ba-by-lôn. Chúng sẽ dàn trận chống lại nó. Ba-by-lôn sẽ bị bắt. Mũi tên của chúng như chiến sĩ thiện xạ chẳng trở về trắng tay.
10Canh-đê sẽ trở thành của cướp. Tất cả những ai cướp nó sẽ thỏa dạ - Đức Giê-hô-va phán vậy. 11Các ngươi vui mừng, các ngươi mừng vì cướp cơ nghiệp Ta; các ngươi nhảy tung tăng như bò con giậm chân trong đồng cỏ; ngươi hí như ngựa mạnh sức.
12Vậy, mẹ ngươi sẽ xấu hổ lắm; người sinh ra ngươi sẽ bối rối. Kìa, nó sẽ là nước chót nhất trong các nước, là hoang mạc, đất khô cằn, và sa mạc.
13Vì cớ cơn giận của Đức Giê-hô-va, Ba-by-lôn sẽ không có người ở, nó sẽ là một nơi bị tàn phá hoàn toàn. Ai đi ngang qua cũng sẽ rùng mình vì cớ Ba-by-ôn và sẽ huýt gió chê cười vì những vết thương của nó. 14Hãy dàn trận bao vây Ba-by-lôn. Hãy giương cung bắn nó. Đừng giữ lại bất kỳ mũi tên nào, vì nó đã phạm tội nghịch lại Đức Giê-hô-va.
15Hãy cất tiếng reo hò chiến thắng nghịch cùng nó tứ phía. Nó đã từ bỏ quyền lực; các tháp nó sụp đổ. Các tường nó bị đánh đổ, vì đây là sự báo thù của Đức Giê-hô-va. Hãy báo thù nó! Hãy báo trả nó như nó đã làm với các dân khác! 16Hãy hủy diệt người gieo và người dùng cái liềm trong mùa gặt ở Ba-by-lôn. Ai nấy sẽ trở về với dân tộc mình từ lưỡi gươm của kẻ đàn áp; họ sẽ bỏ chạy về xứ mình. 17Y-sơ-ra-ên như chiên bị tản lạc và bị sư tử rượt đuổi. Thứ nhất, vua A-sy-ri cắn xé nó; sau đó là Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn bẻ gãy xương nó. 18Vậy, Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Kìa, Ta sẽ phạt vua Ba-by-lôn và xứ của nó, như Ta đã phạt vua A-sy-ri.19Ta sẽ đem Y-sơ-ra-ên về xứ của nó; nó sẽ gặm cỏ trên Cạt-mên và Ba-san. Nó sẽ thỏa lòng nơi vùng cao nguyên Ép-ra-im và Ga-la-át.
20Trong những ngày đó và khi đó, Đức Giê-hô-va phán, người ta sẽ tìm tội ác của Y-sơ-ra-ên nhưng không thấy. Ta sẽ tìm tội lỗi của Giu-đa nhưng chẳng thấy, vì Ta sẽ tha thứ những kẻ còn sống sót mà Ta để lại.” 21“Hãy trỗi dậy đánh xứ Mê-ra-tha-im và dân sống ở Phê-cốt. Hãy lấy gươm tiêu diệt chúng và hủy diệt chúng – Đức Giê-hô-va phán vậy – hãy làm mọi điều Ta truyền cho ngươi.
22Trong xứ có tiếng chiến trận và tiếng của sự hủy diệt lớn. 23Cái búa của cả xứ đã bị gãy và tan tành. Ba-by-lôn đã trở thành nỗi khiếp sợ giữa các nước.
24Ta đã gài bẫy ngươi. Ngươi đã bị bắt, hỡi Ba-by-lôn, và ngươi không biết điều đó! Ngươi bị phát hiện và bị bao vây, vì ngươi thách thức Ta, là Đức Giê-hô-va. 25Đức Giê-hô-va đã mở kho vũ khí và đem vũ khí ra để thực thi cơn giận của Ngài. Có việc cho Chúa Giê-hô-va vạn quân làm trong xứ Canh-đê.
26Hãy đánh nó từ đàng xa. Hãy mở toang vựa lúa nó và chất nó lên như những đống lúa mì. Hãy hủy diệt nó. Chớ để sót một ai. 27Hãy giết bò đực nó. Hãy đưa nó đến nơi giết chóc. Khốn thay cho chúng, vì ngày của chúng đã đến – là thời kỳ sửa phạt.
28Người ta nghe tiếng của kẻ chạy trốn và của những kẻ còn sống sót từ đất Ba-by-lôn. Những kẻ này sẽ rao báo sự báo thù của Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của chúng ta vì Si-ôn, và sự báo thù cho đền thờ của Ngài.” 29“Hãy tập họp các cung thủ đánh Ba-by-lôn – là những kẻ giương cung. Hãy đóng trại nghịch lại nó, chớ để ai trốn thoát. Hãy báo trả nó tùy theo việc nó làm. Hãy báo trả nó tùy theo chừng mực nó đã làm. Vì nó làm ô uế Đức Giê-hô-va, Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên.
30Vậy, những trai trẻ sẽ ngã xuống ở quảng trường thành phồ, những lính chiến của nó sẽ bị tiêu diệt trong ngày đó – Đức Giê-hô-va phán vậy.” 31“Kìa, Ta nghịch lại ngươi, kẻ kiêu ngạo – Đức Giê-hô-va vạn quân phán vậy – vì ngày của ngươi đã đến, hỡi kẻ kiêu ngạo, ấy là khi Ta trừng phạt ngươi.
32Vậy, những kẻ kiêu ngạo sẽ vấp chân và sa ngã. Không ai đỡ chúng dậy. Ta sẽ nhen lửa trong các thành của nó; lửa sẽ thiêu đốt mọi thứ xung quanh nó. 33Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Dân Y-sơ-ra-ên bị đàn áp, cùng với dân Giu-đa. Tất cả những kẻ bắt chúng vẫn giam giữ chúng; họ không cho chúng đi.34Đấng giải cứu chúng là mạnh mẽ. Đức Giê-hô-va vạn quân là danh Ngài. Thật Ngài sẽ bênh vực duyên cớ chúng, để đem sự nghỉ ngơi đến cho xứ, và giáng sự xung đột lên những kẻ cư ngụ tại Ba-by-lôn. 35Gươm dao nghịch lại dân Canh-đê – Đức Giê-hô-va phán vậy – và nghịch lại dân cư Ba-by-lôn, các lãnh đạo và những người khôn ngoan của chúng.
36Gươm sẽ nghịch lại những kẻ bói toán, để chúng cho thấy chúng là những kẻ ngốc. Gươm sẽ nghịch lại các chiến sĩ của nó, để chúng đầy hoảng sợ.
37Gươm sẽ nghịch lại ngựa của chúng, xe chiến mã của chúng và tất cả những kẻ sống ở Ba-by-lôn, để chúng trở nên như đàn bà. Gươm sẽ nghịch lại các kho của chúng, và những kho ấy sẽ bị cướp. 38Gươm sẽ nghịch lại nước của chúng, sẽ không còn nước nữa. Vì nó là xứ thờ thần tượng hư không, chúng bắt chước những kẻ điên dựng lên hình tượng kinh khiếp.
39Thú ngoài hoang mạc và chó rừng sẽ ở đó, đà điểu con sẽ cư ngụ ở đó. Nó sẽ hoang vu không có người ở mãi mãi. Từ đời này qua đời kia, sẽ không ai ở trong đó.
40Như Đức Chúa Trời đã đánh đổ Sô-đôm và Gô-mô-rơ cùng các thành lân cận chúng – Đức Giê-hô-va phán vậy – sẽ không ai ở đó; sẽ không ai cư ngụ tại đó.” 41“Kìa, một dân đến từ phương bắc, vì một nước lớn và nhiều vua đã nổi lên từ tận cùng đất.
42Chúng sẽ cầm cung và giáo. Chúng độc ác và không có lòng thương xót. Tiếng của chúng như tiếng biển cả gầm rống, và chúng cưỡi ngựa theo đội hình lính chiến, nghịch lại ngươi, hỡi con gái Ba-by-lôn.
43Vua Ba-by-lôn có nghe báo cáo của chúng và tay chân vua ấy bủn rủn. Nỗi thống khổ bao vây vua như người đàn bà đau đẻ. 44Kìa! Vua đi lên như sư tử đến từ các miền cao ở Giô-đanh đến đồng cỏ tươi tốt quanh năm, vì Ta sẽ mau chóng khiến chúng bỏ chạy khỏi đó, Ta sẽ đưa người được chọn vào cai trị nó. Ai như ta, và ai kêu gọi được Ta? Người chăn chiên nào có thể chống lại Ta? 45Vậy, hãy nghe các kế hoạch mà Đức Giê-hô-va đã định nghịch lại Ba-by-lôn, tức những kế hoạch mà Ngài đã lập chống lại xứ Canh-đê. Chắc chắn chúng sẽ bị lôi đi, kể cả bầy gia súc nhỏ nhất. Đồng cỏ của chúng sẽ thành nơi hoang tàn.
46Khi nghe tiếng của Ba-by-lôn bị chinh phục, đất rúng động, và giữa các dân, người ta nghe tiếng đau buồn của chúng.” 511“Đức Giê-hô-va phán như vầy: Kìa, Ta sẽ dấy lên một ngọn gió hủy diệt Ba-by-lôn và những kẻ ở Lép Ca-mai.2Ta sẽ sai dân ngoại đến Ba-by-lôn. Chúng sẽ đuổi chạy tán loạn và tàn phá xứ nó, vì chúng sẽ đến nghịch lại nó từ mọi nơi trong ngày tai họa. 3Chớ để cung thủ giương cung; chớ cho chúng mặc áo giáp. Chớ tha mạng những gã trai trẻ của chúng; hãy tiêu diệt cả đội quân đó.
4Vì người bị thương sẽ ngã xuống trong xứ Canh-đê; những kẻ bị giết sẽ ngã xuống trên đường phố nó. 5Vì Y-sơ-ra-ên và Giu-đa không bị Đức Chúa Trời từ bỏ, là Đức Giê-hô-va vạn quân, dù xứ của chúng đầy dẫy những tội lỗi nghịch lại Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên.
6Hãy chạy ra khỏi giữa dân Ba-by-lôn; ai nấy hãy giữ mạng mình. Chớ chết trong tội lỗi của nó. Vì đây là lúc Đức Giê-hô-va báo thù. Ngài sẽ báo trả nó tương xứng việc nó làm. 7Ba-by-lôn vốn là cái chén vàng trong tay Đức Giê-hô-va khiến cả xứ say sưa; các nước say rượu nó và trở nên điên loạn.
8Ba-by-lôn sẽ ngã bất ngờ và bị tiêu diệt. Hãy than khóc vì nó! Hãy cho nó thuốc chữa lành cơn đau; có thể nó sẽ được lành. 9Chúng ta muốn chữa lành Ba-by-lôn, nhưng nó không được lành. Chúng ta hãy rời bỏ nó và trở về xứ của chúng ta. Vì tội lỗi nó cao đến tận trời; chất đống đến tận mây.’
10‘Đức Giê-hô-va đã tuyên bố chúng ta vô tội. Nào, chúng ta hãy rao trong Si-ôn những công việc của Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta.’ 11Hãy mài nhọn mũi tên và cầm khiên. Đức Giê-hô-va sẽ dấy lòng của vua Mê-đi nhằm hủy diệt Ba-by-lôn. Đây là sự báo thù của Đức Giê-hô-va, sự báo thù cho sự hủy diệt đền thờ của Ngài.
12Hãy giương cờ hiệu trên các tường thành Ba-by-lôn; công bố tên lính bảo vệ. Hãy đặt lính canh; cử lính phục kích bắt ai chạy ra khỏi thành phố, vì Đức Giê-hô-va sẽ thực thi việc Ngài đã định. Ngài sẽ làm điều Ngài phán về dân cư Ba-by-lôn. 13Hỡi các ngươi là dân sống bên các dòng suối, hỡi các ngươi là dân có nhiều gia tài, sự cuối cùng của các ngươi đã đến. Sợi dây cuộc đời các ngươi giờ đây bị cắt ngắn.
14Đức Giê-hô-va vạn quân đã thề bởi danh Ngài: ‘Ta sẽ khiến ngươi gặp nhiều kẻ thù, như tai vạ châu chấu; chúng sẽ reo hò chiến trận nghịch lại ngươi.’ 15Ngài đã dựng nên thế gian bởi quyền năng Ngài; Ngài sắp đặt thế giới bởi sự khôn ngoan Ngài. Bởi sự hiểu biết của Ngài, Ngài giương các từng trời ra.
16Khi Ngài nổi sấm, có tiếng nổ ầm ầm của nước trên các từng trời, vì Ngài khiến sương bốc lên từ khắp mọi nơi trên đất. Ngài làm chớp theo mưa và phân tán gió ra từ các kho của Ngài. 17Ai nấy đều trở nên như loài thú thiếu hiểu biết; thợ kim loại hổ thẹn vì các thần tượng của họ. Những hình tượng được đúc đều là giả dối; chúng không có sự sống.
18Chúng vô dụng, đó là công việc của những kẻ nhạo báng; chúng sẽ tàn lụi trong kỳ sửa phạt.
19Nhưng Đức Chúa Trời, phần cơ nghiệp của Gia-cốp, thì không giống vậy, vì Ngài là Đấng dựng nên muôn vật. Y-sơ-ra-ên là chi phái trong cơ nghiệp Ngài; Đức Giê-hô-va vạn quân là danh Ngài. 20Ngươi là búa chiến trận của Ta, vũ khí ra trận. Ta sẽ dùng ngươi đập vỡ các dân và hủy diệt các vương quốc.
21Ta sẽ dùng ngươi đập vỡ ngựa và kỵ sĩ của chúng; Ta sẽ dùng ngươi đập vỡ các xe chiến mã và người lái chúng. 22Ta sẽ dùng ngươi đập vỡ từng người nam và người nữ; Ta sẽ dùng ngươi đập vỡ người già và người trẻ. Ta sẽ dùng ngươi đập vỡ những gã thanh niên trẻ và trinh nữ.
23Ta sẽ dùng ngươi đập vỡ những người chăn chiên và bầy chiên họ; Ta sẽ dùng ngươi đập vỡ thợ cày và nhóm của họ. Ta sẽ dùng ngươi đập vỡ các thống đốc và quan chức. 24Trước mặt các ngươi, Ta sẽ báo trả Ba-by-lôn và hết thảy dân Canh-đê về mọi việc ác chúng làm ở Si-ôn – Đức Giê-hô-va phán vậy.”25“Kìa, Ta nghịch lại ngươi, hỡi núi, ngươi là kẻ hủy diệt dân khác – Đức Giê-hô-va phán vậy – ngươi hủy diệt cả đất. Ta sẽ giơ tay ra đánh ngươi và lăn ngươi xuống từ các vách đá. Ta sẽ biến ngươi thành ngọn núi bị thiêu rụi hoàn toàn.
26Chúng sẽ không lấy khỏi ngươi một viên đá nào để xây góc nhà hoặc nền nhà; vì ngươi sẽ trở thành một nơi hoang tàn đời đời – Đức Giê-hô-va phán vậy.” 27“Hãy giơ cờ trên khắp đất. Hãy thổi kèn trên khắp các nước. Hãy dùng các nước để tấn công nó. Hãy rao báo về nó cho các vương quốc A-ra-rát, Min-ni, và Ách-kê-na; hãy cử một sĩ quan đánh nó; hãy sai ngựa đi lên như bầy châu chấu.
28Hãy chuẩn bị các nước để tấn công nó: tức các vua Mê-đi và quan thống đốc của họ, các quan chức và tất cả những xứ dưới quyền cai trị của họ. 29Đất sẽ rúng động và thống khổ, vì các kế hoạch của Đức Giê-hô-va sẽ tiếp tục thực hiện đối nghịch Ba-by-lôn, đặng khiến xứ Ba-by-lôn thành một nơi hoang tàn không người ở. 30Binh lính Ba-by-lôn ngưng chiến đấu; chúng ở trong các thành trì. Chúng kiệt sức; chúng trở nên đàn bà – nhà của nó bị thiêu đốt, các then cổng bị gãy.
31Sứ giả này chạy đi báo cho sứ giả khác, người này chạy đi báo cho người kia đặng báo cho vua Ba-by-lôn biết rằng thành của vua ấy đã bị thất thủ tứ phía.
32Những chỗ cạn trên sông đều bị chiếm; quân thù phóng hỏa các đầm sậy, và lính chiến của Ba-by-lôn bối rối.” 33“Vì Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Con gái Ba-by-lôn giống như sân đạp lúa. Đã đến lúc đạp nó. Chẳng bao lâu nữa mùa gặt sẽ đến với nó.34Giê-ru-sa-lem nói: ‘Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn đã cắn xé tôi. Vua ấy khiến tôi khô cạn và làm cho tôi thành chiếc bình trống. Hắn nuốt tôi như một con rồng. Hắn làm đầy bụng hắn bằng vật thực ngon của tôi. Hắn đuổi tôi đi.’
35Dân Si-ôn sẽ nói: ‘Nguyện sự bạo lực đã làm trên tôi và gia đình tôi đổ lại trên Ba-by-lôn.’ Giê-ru-sa-lem sẽ nói: ‘Nguyện tội đổ huyết tôi sẽ giáng lại trên dân Canh-đê.’” 36“Vậy, Đức Giê-hô-va phán như vầy: Kìa, Ta sẽ bênh vực duyên cớ ngươi và báo thù cho ngươi. Ta sẽ làm khô cạn sông nước của Ba-by-lôn và khiến các dòng suối của nó khô cằn.37Ba-by-lôn sẽ trở nên như những đống gạch vụn, sào huyệt của chó rừng, một nỗi khiếp sợ, đối tượng bị huýt sáo chê cười, là nơi không người ở. 38Dân Ba-by-lôn sẽ gầm rống như sư tử tơ. Chúng sẽ gầm gừ như sư tử con.
39Khi chúng hung hăng háu ăn, Ta sẽ dọn bữa cho chúng; Ta sẽ khiến chúng say sưa và trở nên vui vẻ, chúng sẽ ngủ thật sâu và chẳng thức dậy – Đức Giê-hô-va phán vậy –
40Ta sẽ đem chúng đến lò sát sinh như chiên con, như chiên đực và dê đực.”41“Ôi Ba-by-lôn đã bị chiếm! Sự ngợi khen của cả đất đã bị chiếm. Ba-by-lôn đã trở thành một nơi hoang tàn giữa các nước.
42Biển dâng ngập Ba-by-lôn! Nó bị bao phủ bởi sóng cuồn cuộn. 43Các thành nó trở thành nơi hoang tàn, xứ khô cằn và hoang mạc, là xứ không người ở, và không ai đi ngang qua.
44Vậy, Ta sẽ phạt Bên ở Ba-by-lôn; Ta sẽ móc vật nó đã nuốt khỏi miệng nó, các nước sẽ không còn đến nộp triều cống cho nó. Các tường thành Ba-by-lôn sẽ sụp đổ.” 45“Hỡi dân Ta, hãy ra khỏi giữa nó. Ai nấy hãy giữ mạng mình khỏi cơn thạnh nộ giận dữ của Ta.
46Lòng các ngươi chớ lo sợ hoặc sợ tin tức được nghe trong xứ, vì tin ấy sẽ đến trong một năm. Sau đó lại sẽ có tin khác, và trong xứ sẽ có bạo lực. Người cai trị sẽ nghịch lại người cai trị. 47Vậy, kìa, các ngày gần đến là khi Ta trừng phạt các hình tượng chạm của Ba-by-lôn. Khắp xứ nó sẽ xấu hổ, những người bị tàn sát của nó sẽ ngã giữa nó.
48Các từng trời và đất, và mọi vật ở trong chúng sẽ vui mừng về Ba-by-lôn. Những kẻ hủy diệt nó sẽ đến từ phương bắc – Đức Giê-hô-va phán vậy.
49“Vì Ba-by-lôn đã khiến những kẻ bị giết của Y-sơ-ra-ên ngã xuống, vậy những kẻ bị giết của xứ nó sẽ ngã xuống ở Ba-by-lôn.” 50“Hỡi những kẻ thoát khỏi gươm, hãy đi đi! Đừng ở lại. Hãy nhớ đến Đức Giê-hô-va từ phương xa; hãy nhớ Giê-ru-sa-lem.
51Chúng tôi xấu hổ, vì chúng tôi đã nghe những lời sỉ nhục; lời quở trách phủ lên mặt chúng tôi, vì dân ngoại đã vào nơi thánh của nhà Đức Giê-hô-va.” 52“Vậy, kìa, các ngày gần đến – Đức Giê-hô-va phán vậy - ấy là khi Ta trừng phạt các hình tượng chạm của nó, và những kẻ bị thương sẽ kêu rên trong khắp xứ nó.
53Vì thậm chí nếu Ba-by-lôn lên đến tận trời hoặc củng cố các pháo đài cao nhất của nó, kẻ hủy diệt từ Ta sẽ đến – Đức Giê-hô-va phán vậy.” 54Tiếng kêu than sẽ ra từ Ba-by-lôn, tiếng của sự sụp đổ lớn từ xứ Canh-đê.
55Vì Đức Giê-hô-va sẽ hủy diệt Ba-by-lôn. Ngài sẽ làm im tiếng la hét của nó. Kẻ thù của nó sẽ gầm rống như sóng biển; tiếng huyên náo của chúng sẽ trở nên lớn.
56Vì những kẻ hủy diệt đã đến nghịch lại nó – nghịch lại Ba-by-lôn! – Và các chiến sĩ của nó đã bị bắt. Cung của chúng bị gãy, vì Đức Giê-hô-va là Đức Chúa Trời báo thù; Ngài chắc sẽ thực thi sự báo trả. 57“Ta sẽ khiến các vương tử của nó, các nhà hiền triết, các quan chức, và lính chiến của nó say sưa, chúng sẽ ngủ thật sâu và chẳng thức dậy – Vua phán vậy: Đức Giê-hô-va vạn quân là danh Ngài.”58“Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Tường thành kiên cố của Ba-by-lôn sẽ bị đánh đổ hoàn toàn, các cổng cao của nó sẽ bị phóng hỏa. Vậy, các dân đến giúp nó sẽ nhọc công vô ích; mọi thứ mà các nước cố làm cho nó sẽ bị thiêu hủy.”59Đây là lời mà tiên tri Giê-rê-mi ra lệnh cho Sê-ra-gia con Nê-ri-gia, cháu Mách-sê-gia, khi ông đi với Sê-đê-kia vua Giu-đa đến Ba-by-lôn vào năm thứ tư trong đời cai trị của vua ấy. Bấy giờ Sê-ra-gia là quan đại thần.60Giê-rê-mi đã chép vào cuộn sách về tất cả tai họa sẽ giáng xuống Ba-by-lôn – là những lời được chép về Ba-by-lôn.61Giê-rê-mi bảo Sê-ra-gia: “Khi ông đến Ba-by-lôn, hãy đọc hết những lời này.62Sau đó hãy nói: ‘Lạy Đức Giê-hô-va, chính Ngài! – Chính Ngài đã công bố rằng Ngài sẽ phá hủy nơi này. Nơi ấy sẽ không có người ở, không ai ở, và cũng không có loài thú nào ở. Nó sẽ thành một nơi hoang vu đời đời.’63Sau khi ông đã đọc xong cuộn sách này, hãy cột một hòn đá vào đó và ném xuống giữa sông Ơ-phơ-rát.64Hãy nói: ‘Ba-by-lôn sẽ chìm như vầy. Nó sẽ không nổi lên vì cớ tai họa mà Ta sẽ giáng trên nó, chúng sẽ ngã.’” Lời của Giê-rê-mi kết thúc tại đây. 521Sê-đê-kia lên ngôi trị vì khi ông được hai mươi mốt tuổi; ông cai trị mười một năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ ông là Ha-mu-tan; bà là con gái của Giê-rê-mi đến từ Líp-na.2Ông làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va – y như những gì Giê-hô-gia-kim đã làm.3Bởi cơn giận của Đức Giê-hô-va, tất cả những sự kiện này đã xảy ra ở Giê-ru-sa-lem và Giu-đa, cho đến khi Ngài đuổi họ khuất mắt Ngài. Sau đó, Sê-đê-kia nổi loạn nghịch lại vua Ba-by-lôn.4Năm thứ chín trong đời trị vì của Vua Sê-đê-kia, nhằm ngày mười tháng mười, Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, kéo quân đến đánh Giê-ru-sa-lem. Chúng đóng trại đối diện thành, chúng xây một đồn bao vây.5Thành bị bao vây đến năm thứ mười một trong đời trị vì của Vua Sê-đê-kia.6Ngày chín tháng tư năm thứ mười một, trong thành xảy ra nạn đói kinh khiếp đến nỗi dân trong xứ chẳng còn thức ăn.7Thành bị thất thủ, tất cả lính chiến chạy trốn và ra khỏi thành vào ban đêm theo cổng giữa hai bức tường thành, gần vườn thượng uyển của vua, dù dân Canh-đê đang bao vây thành ấy. Họ đi theo hướng về A-ra-ba.8Nhưng quân Canh-đê đuổi theo vua và bắt Sê-đê-kia ở đồng bằng thung lũng Sông Giô-đanh gần Giê-ri-cô. Toàn thể quân đội của ông bỏ chạy tán loạn.9Chúng bắt vua và giải đến vua Ba-by-lôn ở Ríp-la trong xứ Ha-mát, là nơi vua ấy xử đoán.10Vua Ba-by-lôn giết các con trai của Sê-đê-kia trước mặt ông, và tại Ríp-la vua ấy cũng giết hết các lãnh đạo của Giu-đa.11Sau đó vua móc mắt Sê-đê-kia, xiềng lại bằng xích đồng, và giải đến Ba-by-lôn. Vua Ba-by-lôn bỏ tù ông cho đến khi ông chết.12Bấy giờ nhằm ngày mười tháng năm năm thứ mười chín trong đời trị vì của Vua Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, Nê-bu-xa-ra-đan đến Giê-ru-sa-lem. Ông là sĩ quan của quân thị vệ và là tôi tớ của vua Ba-by-lôn.13Ông phóng hỏa nhà của Đức Giê-hô-va, hoàng cung, và tất cả nhà cửa ở Giê-ru-sa-lem; ông cũng phóng hỏa các tòa nhà lớn trong thành phố.14Đối với các tường thành Giê-ru-sa-lem, quân Ba-by-lôn cùng với sĩ quan chỉ huy quân thị vệ cũng phá hủy.15Với những người nghèo nhất, là những người còn sót lại trong thành. Tức những người bỏ chạy qua hàng ngũ vua Ba-by-lôn, và số thợ thủ công còn lại – Nê-bu-xa-ra-đan, sĩ quan quân thị vệ, bắt một số người đem đi lưu đày.16Nhưng Nê-bu-xa-ra-đan, sĩ quan quân thị vệ, chừa lại những người nghèo nhất trong xứ để họ làm việc ở các vườn nho và cánh đồng.17Còn các cột đồng trong nhà Đức Giê-hô-va, các đế tảng và biển đồng trong nhà Đức Giê-hô-va, dân Canh-đê đập vỡ tan tành và đem đồng về Ba-by-lôn.18Các nồi, xẻng, kéo cắt tim đèn, bát, và tất cả những đồ dùng bằng đồng mà thầy tế lễ dùng để phục vụ trong đền thờ - dân Canh-đê cũng cướp mất.19Các chậu và đồ dùng để xông hương, bát, nồi, chân đèn, chảo, và các chậu vàng, chậu bạc – quan chỉ huy vệ binh cũng cướp mất.20Hai cái trụ, biển, và mười hai con bò đồng làm chân đế, là những vật mà Sa-lô-môn đã làm cho nhà Đức Giê-hô-va, có khối lượng đồng lớn đến nỗi không thể cân được.21Các cột trụ cao mười tám cu-bít, chu vi mười hai cu-bít. Mỗi cột trụ dày bốn ngón tay và rỗng ruột.22Trên đầu cột có chóp đồng. Chóp cao năm cu-bít, có lưới và trái lựu bằng đồng. Cột còn lại và các trái lựu cũng tương tự như cột thứ nhất.23Vậy có chín mươi sáu trái lựu ở bốn phía chóp, và khoảng một trăm trái lựu trên lưới bao quanh.24Sĩ quan chỉ huy quân thị vệ bắt tù nhân Sê-ra-gia, thầy tế lễ cả, cùng với Sô-phô-ni, thầy tế lễ phó, và ba người giữ cổng.25Tại trong thành, ông bắt một quan chức là người phụ trách cai quản binh lính, và bảy cận thần của vua, là những người còn ở trong thành. Ông cũng bắt quan chỉ huy quân của vua lo việc tuyển quân trong xứ, cùng với sáu mươi người quan trọng có mặt trong thành.26Sau đó Nê-bu-xa-ra-đan, sĩ quan chỉ huy quân thị vệ, bắt họ và giải đến vua Ba-by-lôn ở Ríp-la.27Vua Ba-by-lôn xử tử họ ở Ríp-la trong xứ Ha-mát. Như vậy, Giu-đa bị bắt lưu đày.28Đây là những người mà Nê-bu-cát-nết-sa bắt lưu đày: vào năm thứ bảy, có 3. 023 người Giu-đa.29Vào năm thứ mười tám trong đời Nê-bu-cát-nết-sa, ông bắt 832 người khỏi Giê-ru-sa-lem.30Vào năm thứ hai mươi ba trong đời Nê-bu-cát-nết-sa, Nê-bu-xa-ra-đan, sĩ quan chỉ huy quân thị vệ, bắt 745 người Giu-đa đi lưu đày. Có tất cả 4. 600 người bị bắt lưu đày.31Sau đó vào năm lưu đày thứ ba mươi bảy của Giê-hô-gia-kin, vua Giu-đa, nhằm ngày hai mươi lăm tháng mười hai, Ê-vin Mê-rô-đác, vua Ba-by-lôn phóng thích Giê-hô-gia-kin vua Giu-đa ra khỏi tù. Việc này xảy ra vào năm Ê-vin Mê-rô-đác bắt đầu cai trị.32Vua nói năng từ tốn với ông ấy và ban ngôi cho ông cao hơn các vua khác cùng số phận với ông tại Ba-by-lôn.33Ê-vin Mê-rô-đác thay quần áo tù của Giê-hô-gia-kin, và Giê-hô-gia-kin thường xuyên ăn uống ở bàn vua trong suốt đời còn lại.34Ông được ban thức ăn hàng ngày trong suốt đời mình cho đến khi qua đời.